Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

ĐỀ CƯƠNG dân tộc học đại CƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.55 KB, 25 trang )

ĐỀ CƯƠNG DÂN TỘC HỌC ĐẠI CƯƠNG
Câu 1:Anh hay chị hãy trình bày đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của dân tộc học
là gì?
Trả lời:
Dân tộc học với tư cách là một môn khoa học độc lập, mới chính thức ra đời
đầu TK19 ở phương Tây. Người ta thường dùng 2 thuật ngữ để chỉ dân tộc học, đó
là: Ethnography (từ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là dân tộc, tộc người. Từ
này có 2 thành tố Ethnos - dân tộc, tộc người và Graphy - mô tả); với từ này, người
ta thường dùng theo nghĩa quốc gia. Còn thuật ngữ Ethnology (cũng bắt nguồn từ
tiếng Hy Lạp dùng để chỉ dân tộc, với thành tố logy - là nghiên cứu lý thuyết).
Dân tộc học là một ngành khoa học chuyên nghiên cứu về đời sống con người
và các tộc người từ nguồn gốc đến cấutạo thành phần tộc người; từ các đặc trưng
sinh hoạt văn hoá đến mối quan hệ giữa các tộc người; từ truyền thống đến hiện đại
và nghiên cứu những vấn đề đặt ra trong tương lai.
Từ khái niệm trên ta thấy, đối tượng nghiên cứu của dân tộc học chính là lấy
đời sống con người và các tộc người làm đối tượng nghiên cứu (bao gồm tộc dân,
nhân dân) trên toàn thế giới.
Trong quá khứ, một số nhà khoa học cho rằng, con người là đối tượng của dân
tộc học, một số khác lại cho là văn hoá hoặc xã hội (ví dụ Liên Xô trước đây xếp
dân tộc học vào ngành lịch sử), dân tộc học thường bị hoà tan vào ngành sử học.
Nhưng ngày nay, quan niệm như trên đã bị lỗi thời, các nhà chuyên môn đã thừa
nhận rộng rãi về đối tượng của dân tộc học là tất cả các dân tộc dù ở thang bậc khác
nhau phát triển thấp hay cao, thiểu số hay đa số, đã tồn tại trong quá khứ hay đang
tồn tại hiện nay.
Từ đối tượng nghiên cứu nêu ở trên, dân tộc học có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu về văn hoá tộc người: Trong nhiệm vụ này, văn hoá tộc người
được hiểu là tổng thể các giá trị và sáng tạo mà các tộc người đã tạo ra trong toàn
bộ quá trình phát triển nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần, phản
ánh mối quan hệ giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Văn hoá tộc
người gồm 2 dạng: Văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể.
Văn hoá vật thể - là toàn bộ những cái gì là vật chất do con người sáng tạo ra


(nêu cụ thể một số vấn đề).
Văn hoá phi vật thể (văn hoá tinh thần) (nêu cụ thể).
- Nghiên cứu ý thức tự giác tộc người: Đó là sự phân định, liên hệ của tộc
người này với tộc người khác được thể hiện trong việc sử dụng một ý thức tự giác
chung (một tộc danh chung).
- Nghiên cứu về lãnh thổ tộc người: Thông thường mỗi cộng đồng tộc người
đều sống trên một lãnh thổ riêng, mỗi thành viên trong lãnh thổ có mối quan hệ
láng giềng lâu dài, lãnh thổ là điều kiện quan trọng để tái sản xuất ra tộc người,
đảm bảo cho phát triển các mối quan hệ kinh tế và các dạng thức khác. Các điều
kiện tự nhiên của lãnh thổ chung có tác động đến cuộc sống của mỗi con người
trong cộng đồng như các hoạt động kinh tế, văn hoá, tập quán, tâm lý
1
- Nghiên cứu các quá trình tộc người: Đó là nghiên cứu các quá trình, các xu
hướng phát triển của mỗi tộc người, đó là từ quá trình xuất hiện của tộc người trong
quá khứ xa xôi đến quá trình phát triển của tộc người hiện nay. Dân tộc học phải
nghiên cứu về sự tương đồng và sự khác biệt của tất cả các dân tộc trên thế giới, từ
nguồn gốc đến sự biến đổi của họ trong toàn bộ chiều dài lịch sử từ thời cổ đại cho
đến ngày nay.
Trước tiên cần chú ý nghiên cứu văn hoá truyền thống, vì những thứ này còn
tồn tại được đến nay là rất ít thể hiện trên các văn tự, các cổ vật khảo cổ Nghiên
cứu vấn đề này giúp con người nhìn lại được lịch sử hình thành và phát triển của
các tộc người trên thế giới. Thứ hai mới nghiên cứu đến giai đoạn hiện nay của văn
hoá tộc người để thấy được tính đa dạng, phong phú của các dân tộc trên toàn thế
giới, giúp con người có những tư tưởng đúng đắn khi nhận thức về vấn đề dân tộc,
để chống lại các truyền thuyết hoang đường, các quan điểm thiên kiến về sự kém
cỏi trong nhận thức về dân tộc và chống lại ý thức kỳ thị, phân biệt chủng tộc.
Câu 4:Anh hay chị hãy trình bày tộc người là gì và phân tích các tiêu chí của tộc
người.
Tộc người là gì
Thuật ngữ tộc người xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XIX, ban đầu nó được

dùng để chỉ các nhóm tộc người (groupe ethnie), hay đơn vị tộc người (unité
Ethnie). Trong Dân tộc học, khi đó Ethnie tương ứng như ethnic, ethnos, ethikum,
ethnea,… Cho đến khoảng những năm Sáu mươi của thế kỷ XX, thuật
ngữ Ethnie mới được sử dụng rộng rãi, kể cả ở Liên Xô (Hiến pháp Liên Xô 1977
dùng Ethnos thay cho bộ tộc, bộ lạc,…). Tuy vậy, trong thực tiễn cũng như khoa
học Nation và Ethnie/Ethnic không thể là một, mà đây là hai khái niệm hoàn toàn
khác nhau. Trong khi Dân tộc (Nation) phải là một cộng đồng chính trị, bao gồm
cư dân của một quốc gia có chung một nhà nước, một chính phủ, có luật pháp
thống nhất,…thì Tộc người(Ethnic/Ethnie) là cộng đồng mang tính tộc người,
không nhất thiết phải cư trú trên một cùng lãnh thổ, có chung một nhà nước, dưới
sự quản lý điều hành của một chính phủ với những đạo luật chung thống nhất.
Mặc dù các trường phái Dân tộc học có nhiều quan điểm khác nhau về tộc
người, xong tất cả đều thống nhất: Tộc người chỉ các cộng đồng mang tính tộc
người bất kỳ, kể cả các cộng đồng tộc người chủ thể của các quốc gia, và các cộng
đồng tộc người thiểu số trong các quốc gia, vùng miền, không phân biệt đó là cộng
đồng tộc người tiến bộ, hay cộng đồng tộc người còn đang trong quá tình phát
triển.
Với nhận thức trên, trong thế giới hiện đại của chúng ta ngày nay, đang tồn tại
các loại hình cộng đồng dân tộc và cộng đồng tộc người, (3). Trên thế giới, đa số
các quốc gia đều làQuốc gia đa dân tộc, tức là cộng đồng cư dân ở đó gồm nhiều
tộc người. Trong những trường hợp này, khái niệm dân tộc và tộc người trùng khớp
2
nhau. Tuy vậy cũng có quốc gia chỉ có một tộc người (Triều Tiên,…), trong trường
hợp này dân tộc được hiểu là tộc người cũng không sai.
Tiêu chí để phân biệt tộc người
Nhiệm vụ của dân tộc học là nghiên cứu về tộc người. Để nghiên cứu vấn đề
này thì phải có các tiêu chí xác định. Các tiêu chí này vừa phải đảm bảo tính khoa
học, tính thực tiễn để đạt được yêu cầu chính xác trong xác định các tộc người khác
nhau. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra các tiêu chí sau:
Thứ nhất, phải kể đến tiêu chí ngôn ngữ:

Ngôn ngữ là dấu hiệu cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau, từ khi con
người sinh ra, sự tiến hoá vượt trội trên các loài động vật đó là việc sử dụng ngôn
ngữ để giao tiếp, trao đổi, dặc trưng này chỉ có ở con người. Trong các tộc người,
ngôn ngữ có nhiều loại:
- Ngôn ngữ tộc người là tiếng mẹ đẻ: tức là trong một tộc người, tất cả các
thành viên gắn bó với nhau thì cùng nói một thứ tiếng, thứ tiếng ấy được tiếp nhận
từ thời thơ ấu qua những người trong gia đình, người khác xung quanh.
- Có thể tộc người này sử dụng ngôn ngữ của tộc người khác với tư cách là
ngôn ngữ tộc người mình. Khi nghiên cứu tiêu chí này, người ta thường chú ý tới
Châu Âu, có thể một tộc người riêng biệt sống ở các quốc gia khác nhau nhưng sử
dụng ngôn ngữ của một quốc gia khác. VD: tiếng Anh không chỉ có người Anh sử
dụng, mà còn được nhiều tộc dân khác trên các lục địa khác sử dụng như tiếng mẹ
đẻ của mình như người Mỹ, người Xcốtlen, người úc gốc Anh, người Niudilân ;
hoặc tiếng Tây Ban Nha được các nước Trung Mỹ và Nam Mỹ lấy làm tiếng mẹ đẻ
của tộc người mình; hoặc tiếng Bồ Đào Nha được đông đảo người Braxin và người
Galis ở Tây Bắc Tây Ban Nha sử dụng ở Châu á, một trong những ngôn ngữ phân
bố trải rộng là tiếng Hinđi, được coi là tiếng mẹ đẻ của nhiều dân tộc ở ấn Độ. Trên
địa bàn Tây á và Bắc Phi, ngôn ngữ ả Rập cũng được nhiều tộc người sử dụng là
tiếng mẹ đẻ
Như vậy, trên thế giới tồn tại nhiều ngôn ngữ là tiéng mẹ đẻ không chỉ cho một
tộc dân, mà là cho nhiều nhóm tộc người.
- Trong một tộc người, có thể có hai loại ngôn ngữ được dùng đan xen. VD như
người Xcốtlen sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ hội thoại, song một số vùng vãn tồn
tại một thứ tiếng riêng của nhóm ngôn ngữ Kentơ. ở Việt Nam, tộc người Sán Chay
gồm 2 bộ phận là Cao Lan và Sán Chỉ tiéng Cao Lan thuộc ngôn ngữ Thái-Tày, còn
tiếng Sán Chỉ lại thuộc ngôn ngữ Hán.
Thứ hai, đó là tiêu chí lãnh thổ tộc người.
Đương nhiên, sự hình thành tộc người dựa trên sự tồn tại, liên hệ trong một
vùng lãnh thổ nhất định, nó là điều kiện bắt buộc cho sự xuất hiện của bất kỳ tộc
người nào.

Theo lịch sử, lãnh thổ luôn luôn có sự biến động phức tạp, có thể được mở
rộng, thu hẹp, bị mất hoặc khôi phục lại được.
3
Sự mở rộng lãnh thổ do sự khai phá của con người, do các cuộc chiến tranh
xâm chiếm Trong quá trình mở rộng lãnh thổ có trường hợp dẫn đến sự phân chia
tộc người, nhất là trong điều kiện có sự giãn cách về địa lý giữa các nhóm riêng biệt
của tộc người.
Sự suy giảm lãnh thổ có thể là do nguyên nhân các cuộc chiến tranh huỷ diệt,
các trận dịch bệnh, do lao động, sinh hoạt vất vả mà các thành viên quy tụ lại một
nơi khác có điều kiện tốt hơn hoặc thậm chí có thể do sự thu hút các dân tộc nhỏ
hơn vào các dân tộc lớn hơn bằng con đường hoà bình hay cưỡng bức về ngôn ngữ,
văn hoá của dân tộc khác.
Trong lịch sử cũng có tình trạng một tộc dân nào đó được hình thành trên một
lãnh thổ xác định, sau đó có thể là một bộ phận hoặc toàn bộ tộc người phải rời bỏ
lãnh thổ và cư trú ở những nước khác nhau, nay có một bộ phận quay về nơi cũ ví
dụ như người Do Thái. Ngày nay, những người Do Thái đã thống nhất lại dưới một
tộc danh chung. Họ sống ở nhiều nước với các thể chế chính trị khác nhau như ở
Mỹ (6 triệu), Ixraen (hơn 4 triệu), các nước SNG (2 triệu) Hoặc cũng có những
tộc người mất lãnh thổ không quay về là người Di-gan, người Bô-hê-miêng.
Cũng có trường hợp lãnh thổ tộc người được bảo lưu, nhưng trong cùng một
thời gian, các thành viên của một tộc người lại sống rất phân tán. Điển hình cho các
trường hợp này là người ác-mê-ni và người Tác-ta. Người ác-mê-ni trên thế giới có
khoảng 6,5 triệu, trong đó gần 4,5 triệu ở ác-mê-ni-a và các quốc gia SNG, 1,9 triệu
sống ở các nước Châu á như Xi-ri, I-ran, Li-băng, Thổ-nhĩ-kỳ, 700 ở nước Mỹ, 70
nghìn sống ở ác-hen-ti-na Với người Tác-ta, đông đảo nhất là ở Nga, ngoài ra còn
ở Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Nhật, Phần Lan, Mỹ Người Hán cũng là những người
di cư hầu như khắp nơi trên thế giới. Chỉ riêng khu vực Đông Nam á, họ đã có
khoảng 30 triệu. Người Việt cũng có thành viên của mình cư trú hầu hết ở 5 châu
nhưng với số lượng tương đối ít.
Thứ ba, tiêu chí về cơ sở kinh tế của tộc người.

Để hình thành một tập thể lớn những con người mà nói cùng một ngôn ngữ,
sống chung một lãnh thổ thì không thể không có sự cộng đồng về kinh tế. Ví dụ
như trong thời kỳ công xã thị tộc, người Tác-man có đơn vị kinh tế-xã hội cơ bản là
các nhóm địa phương (khoảng 30-40 người), các nhóm này du cư trong giới hạn
lãnh thổ xác định và có thể săn bắn, hái lượm, đánh cá trong lãnh thổ được xác
định này. Một vài chục nhóm địa phương liên kết hình thành nên bộ lạc. Thông
thường các nhóm địa phương và các bộ lạc sống hoà thuận cùng săn bắn chung,
thăm viếng nhau trong điều kiện cùng sử dụng chung các nguồn lợi tự nhiên và cả
trao đổi hôn nhân với nhau. Đặc điểm của nền kinh tế thời bấy giờ là tự nhiên nên
giữa các nhóm địa phương xuất hiện sự trao đổi các vật phẩm, công cụ, đồ dùng
do đó hình thành nên mối quan hệ về kinh tế, dần dần tạo điều kiện cho sự hình
thành và cố kết tộc người cổ đại. Trong toàn bộ chiều dài của lịch sử nhân loại, các
mối quan hệ này tiếp tục được mở rộng và luôn được củng cố, mà bằng chứng là
các công trình tập thể đa dạng (các công trình giao thông, hệ thống tưới tiêu, các
công trình văn hoá ).
Như vậy, sự hiện diện của các mối liên hệ kinh tế bên trong mặc dù là một
trong những điều kiện bắt buộc của sự ra đời của mỗi tộc dân, song không thể coi là
4
dấu hiệu dặc trưng của một tộc người bất kỳ nào, nó chỉ là nhân tố cố kết tộc người
mà thôi.
Thứ tư, đó là các đặc trưng sinh hoạt văn hoá và ý thức tự giác tộc người.
Đối với đặc trưng sinh hoạt văn hoá, đây là một đặc trưng quan trọng nhằm
phân định các tộc người. Thông thường mỗi tộc người thì đặc trưng văn hoá được
các cư dân sáng tạo nên và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sự tổng hoà
các mối liên hệ giữa các đặc trưng văn hoá tạo thành các truyền thống tộc người.
Những truyền thống này được hình thành trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử
trong mối liên hệ với các điều kiện kinh tế-xã hội, địa lý và tự nhiên trong cuộc
sống của mỗi cư dân ngay cả trong trường hợp điều kiện sống của tộc người đã có
sự thay đổi lớn.
Đặc trưng văn hoá của tộc người không chỉ trong nghĩa hẹp - là văn hoá vật

chất và tinh thần, mà là tổng thể các giá trị và các thành tựu văn hoá đầy đủ, khách
quan. Ví như khi xác định tộc thuộc của mình không phải chỉ vì họ sống trong
những căn nhà cùng loại, cùng mặc một kiểu quần áo, cùng thích ăn một món ăn
hay cùng ca chung những bài ca, mà còn vì họ là chủ sở hữu di sản văn hoá của
nhân dân mình, là những người kế tục và làm gia tăng một cách sáng tạo các di sản
văn hoá đó trong các lĩnh vực khác nhau của các hoạt động kinh tế-xã hội, văn hoá,
khoa học hay văn học nghệ thuật
Một lưu ý quan trọng của đặc trưng này là không phải các cư dân cứ sống trên
cùng một lãnh thổ, nói cùng một thứ tiếng và có mối liên hệ gắn bó với nhau về mặt
kinh tế thì đều có chung những đặc điểm văn hoá (VD như ở Trung Quốc, người
Hán và người Khiêu cùng nói tiếng Hán, cùng phân bố trên những khu vực khác
nhau, thậm chí cùng ở trong một số thị trấn, làng bản nhưng lại phân biệt với nhau
bằng các đặc trưng sinh hoạt văn hoá đó là nguời Khiêu là những tín đồ Hồi Giáo,
còn người Hán thì lại theo các tôn giáo khác như Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo.
Hoặc đối với Việt Nam có một thời gian dài lệ thuộc vào phương Bắc, nhưng
những năm dài ấy người Trung Quốc đã không thể đồng hoá toàn dân tộc Việt, để
đến ngày nay dân tộc ta vẫn còn giữ gìn được bản sắc văn hoá riêng của mình, rõ
ràng ở đây ý thức tộc thuộc về thành phần tộc người riêng của mình không hề bị
mất). Ngược lại, nếu một tộc người để mất đi đặc thù văn hoá của mình thì họ
không còn là họ nữa (VD như nhiều cư dân Đông Âu đã bị người Nga đồng hoá
trong lịch sử, nhiều bộ lạc ở Tây Xlavơ thời trung cổ bị người Đức đồng hoá hoặc ở
Châu á nhiều cư dân khối Bách Việt cổ bị người Hán đồng hoá nhập vào thành
phần cư dân Hán
Như vậy, chính đặc thù văn hoá cần được xem xét như là một dấu hiệu cơ bản
của một tộc người bất kỳ nào khong có ngoại lệ, phân định họ với các tộc người
khác. Văn hoá có quan hệ chặt che với ngôn ngữ và ngôn ngữ được coi là thuộc
tính cơ bản.
Còn đối với đặc trưng về ý thức tự giác tộc người, đây là một đặc trưng quan
trọng nhằm xem xét việc xác định tộc thuộc của mỗi con người riêng biệt hay là của
cả một nhóm người thuộc thành phần của tộc người này hay tộc người khác. Việc

xác định tộc thuộc trong thực tế hiện nay rất đa dạng, có thể có các trường hợp sau:
5
- Đại bộ phận người ta xếp mình vào tộc người của bố mẹ đang thâu thuộc.
VD: bố mẹ đều là người Kinh thì con cái sẽ là người Kinh vì bao quanh đứa trẻ từ
khi chào đời đến khi lớn lên trong nền văn hoá người Kinh.
- Trường hợp mà bố và mẹ là các tộc người khác nhau thì đứa trẻ chọn tộc
người nào (tộc thuộc bố hay tộc thuộc mẹ) là phụ thuộc vào tình hình cụ thể mà ở
đó gia đình sinh sống, vào ngôn ngữ trội hơn, vào văn hoá, truyền thống gia đình,
tập quán ở nơi sinh sống.
- Ngoài ra, cả nguồn gốc cá nhân riêng biệt, của các gia đình hay của cả nhóm
cư dân cũng đóng vai trò lớn trong sự hình thành ý thức tự giác tộc người. VD như
người Do Thái họ có thể bị đồng hoá bởi nhiều dân tộc khác như nói ngôn ngữ
khác, sinh hoạt văn hoá của dân tộc khác nhưng trong mỗi thế nào còn phụ thuộc
vào các điều kiện lịch sử, xã hội mà cá nhân hay nhóm người đó sinh sống người lại
có ý thức về tộc thuộc của mình, vẫn tự coi mình là người Do Thái; hoặc một VD
khác như nước Mỹ là điển hình của sự pha tạp lớn, cho dù có bộ phận bị đồng hoá
hoàn toàn qua thời gian, nhưng bộ phận lớn vẫn ý thức được tộc người của mình
cho dù họ tự coi mình là người Mỹ nhưng đồng thời họ cũng giữ lại nhiều đặc trưng
sinh hoạt văn hoá và ngôn ngữ của tộc người cội rễ của mình.
Như vậy, ý thức tự giác tộc người dù thế nào đi chăng nữa vẫn còn tiềm ẩn
trong mỗi cá nhân hay nhóm người, ý thức đó phát triển như thế nào còn phụ thuộc
vào các điều kiện lịch sử,xã hội mà cá nhân hay nhóm người đó sinh sống.
Câu 5:Anh hay chị hãy trình bày chủng tộc là gì và các đặc điểm phân loạii chủng
tộc?
Chủng tộc là những nhóm người có hình thái,đặc trưng giống nhau,liên quan đến
một vùng địa lí nhất định và có tính di truyền.
Các đặc điểm phân loại chủng tộc:
Để có cơ sở phân biệt giữa chủng tộc người này với chủng tộc người khác,
người ta dựa vào những đặc điểm của các chủng tộc.Cơ bản nhất vẫn là những đặc
điểm hình thái bên ngoài cơ thể như màu da, màu mắt, hình dạng tóc, mặt, mũi,

chiều cao thân Phần lớn những đặc điểm này là chúng có cấu trúc di truyền phức
tạp, mỗi đặc điểm được quy định bởi nhiều gen nên mức biến dị có giới hạn trong
phạm vi loài, các đặc điểm đó cơ bản phù hợp với điều kiện tự nhiên. Việc xác định
các đặc điểm phân loại chủng tộc là vấn đề phức tạp, hiện nay người ta khái quát
với 12 đặc điểm sau:
1. Sự cấu tạo của sắc tố: Gồm 3 loại: Màu da, màu tóc, màu mắt.
- Màu da chung quy lại có 3 màu: màu sáng (trắng hồng, trắng vàng- ta hay
gọi là da trắng), màu trung gian (da hơi nâu - ta hay gọi là da vàng) và da nâu sẫm
hay da màu tối (ta hay gọi là da đen). Dựa theo màu da, người ta chia chủng tộc
thành 3 loại: Da trắng, da vàng và da đen.
- Màu tóc: gồm tóc sẫm màu (den, nâu), màu trung gian (hung), màu sáng
(vàng).
- Màu mắt: có nhiều loại: mắt màu sẫm (đen, hạt dẻ), màu trung bình (xám hay
nâu), màu nhạt, sáng (xanh thẫm hay xanh da trời).
2. Dạng tóc: Có 4 loại: Mềm lượn sóng, thẳng (rễ tre), xoăn, xoăn tít.
6
3. Lớp lông thứ 3 trên cơ thể (râu và lông): đối với từng chủng tộc thì lớp lông
thứ 3 này có thể nhiều hay ít là khác nhau.
4. Hình dạng của môi gồm: môi mỏng (âu), môi dầy (phi), môi rất dày (úc) và
môi trung bình (á).
5. Hình dạng của mũi gồm: mũi cao (âu), mũi thấp, gẫy (phi, úc), mũi trung
bình (á).
6. Lớp lót mí mắt: nhiều mí (phi), một mí (á).
7. Hình dạng đầu: Ngắn, tròn (á, úc), dài, trung bình (á)
8. Khuôn mặt: rộng (úc), hẹp (âu, phi), trung bình (á).
9. Chiều cao cơ thể
10. Tỷ lệ thân: có khổ người hình dài, khổ người trung bình, khổ người hình
ngắn.
11. Đường vân tay: gồm 3 dạng: xoáy, móc, cung
12. Răng.

Câu 6:Anh hay chị hãy trình bày nguyên nhân hình thành chủng tộc và sự phân bố
chủng tộc ở Đông Nam Á và Việt Nam

Nguyên nhân hình thành chủng tộc ngày nay có nhiều cách giải thích: quan
niệm duy tâm cho rằng con người do thượng đế sinh ra chui qua lỗ dùi của quả bầu,
người nào ra trước thì đen, ra sau thì trắng; quan niệm phân biệt chủng tộc thì phân
chia loài người thành hạ đẳng và thượng đẳng, dân tộc thượng đẳng có khả năng
phát triển, còn các dân tộc hạ đẳng thì hèn kém
Theo quan niệm duy vật đã chứng minh được rằng, sự khác biệt về chủng tộc
không gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. Theo quan điểm duy vật,
trên thế giới có 4 đại chủng, 7 tiểu chủng và 27 nhóm và các nguyên nhân dẫn đến
việc hình thành các chủng tộc như sau:
Thứ nhất, là do sự thích nghi với hoàn cảnh địa lý tự nhiên. Đặc điểm hoàn
cảnh tự nhiên đóng một vai trò quan trọng. Nhiều đặc điểm chủng tộc là kết quả của
sự chọn lọc tự nhiên và sự thích nghi với môi trường, vì từ khi con người xuất hiện
trên thế giới với sức sản xuất thấp và thiết chế chưa hoàn chỉnh, chưa đủ sức chống
lại điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên. VD: màu da đậm hay nhạt là do lượng sắc
tố trong da quyết định vì sắc tố này hấp thu tia tử ngoại của mặt trời, do đó ở châu
phi nắng nóng thì da đen, châu á da vừa phải, châu âu da trắng Hoặc mắt cũng
liên quan đến điều kiện sống, như người Mông Cổ có khe mắt nhỏ, thường là mắt
một mí hay có mí góc che hạch nước mắt là do sống ở vùng có nhiều gió cát
Thứ hai, do sự biệt lập của các nhóm người, dẫn đến nội hôn, do đó có sự thay
đổi về gen. Theo di truyền học cho biết, nếu lấy nhau trong nội bộ thỉ khoảng 50 thế
hệ, mỗi thế hệ khoảng 25 năm thì 1250 năm có thể làm biến đổi một số đặc điểm
của chủng tộc ban đầu.
Thứ ba, do sự lai giống giữa các nhóm người (hỗn chủng). Đây cũng là nguyên
nhân quan trọng để hình thành các chủng tộc, đồng thời cũng là yếu tố để hợp nhất
các chủng tộc. Sụ lai giống phát triển mạnh nhất là khi điều kiện kinh tế-xã hội phát
7
triển làm các tính chất xã hội càng được tăng cường, do đó nó đóng vai trò quan

trọng để hình thành các loại hình nhân chủng mới.
Sự phân bố chủng tộc ở
Đông Nam Á:Châu Á là một trong những trung tâm hình thành con người,là địa
bàn xuất hiện chủng tộc.Châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng có vị trí rất
quan trọng,đây là địa bàn phân bố của đại chủng tộc Mongoloit và các tiểu chủng
Bắc Á,Nam Á,…Tài liệu cổ nhân học ở Đông Nam Á cho ta biết khu vực này có
hai nhóm loại hình nhân chủng chủ yếu là Nam Á và Anhđônêdiêng hình thành các
nhóm loại hình này diễn ra rất phức tạp.Trên cơ sở nghiên cứu cốt sọ của người
Anhđônêdiêng thời cổ,giáo sư Hà Văn Tấn đã kết luận: “Những xương sọ thời đại
nguyên thủy phát hiện trên đất nước Việt Nam mà các học giả Pháp coi là thuộc
giống Anhđônêdiêng chính là thuộc chủng Mongoloit và đại chủng nêgrôit”.Vùng
phân bố của nhóm loại hình Nam Á hiện nay khá rộng lớn.Giữa người Nam Á và
người Anhđônêdiêng vừa có quan hệ lịch sử,vừa có quan hệ chủng tộc.Các nhóm
loại hình Veedoit,Neegrito với số lượng ít,chủ yếu phân bố ở khu vực Đông Nam Á
hải đảo như Philippin và Indonexia,…
Việt Nam:Các dân tộc ở nước ta đều nằm trong hai nhóm loại hình nhân chủng
Nam Á và Anhđônêdiêng.Các dân tộc thuộc nhóm loại hình Anhđônêdiêng như các
dân tộc ở Tây Nguyên,người Bru,Vân kiều,…các dân tộc thuộc nhóm loại hình
Nam Á như người Việt,Khơme và các dân tộc ít người ở phía Bắc.
Cả hai nhóm loại hình có đặc điểm giống nhau như tóc thẳng và đen,lông trên
người ít phát triển,gò má nhô trung bình,cánh mũi bè và dẹt,kích thước đầu mà mặt
thuộc loại trung bình.Tuy nhiên nếu so sánh cũng có những đặc điểm khác biệt.Sự
tương đồng cũng như sự khác biệt về hình thái giữa hai nhóm loại hình này có
nguyên nhân lịch sử từ xa xưa.Nhưng về cơ bản,giữa họ có mối quan hệ đặc biệt về
nguồn gốc,cùng thuuọc về chủng Mongoloit phương Nam và đều là khu vực bản
địa ở khu vực Đông Nam Á.
Tóm lại:Nhiều nhà nghiên cứu khi bàn về Đông Nam Á,trong đó có Việt Nam đều
coi đây là một khu vực có đặc thù về nhiều mặt:địa lí,kinh tế,văn hóa,xã hội,lịch
sử,đồng thời có tính thống nhất về nhân chủng.
Câu 7:Anh hay chị hãy trình bày chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là gì mà nguồng

gốc xã hội của nó?
Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc là phân chia loài người thành thượng đẳng và hạ
đẳng.Dân tộc thượng đẳng có khả năng phát triển mọi mặt nhất là về trí tuệ,tinh
thần còn các dân tộc hạ đẳng bị xem là hèn kém,dốt nát phải nhờ sự khai hóa của
thượng đẳng và vĩnh viễn phụ thuuọc vào họ.
Nguồn gốc xã hội của nó:lịch sử phát triển loài người đã chỉ ra rằng từ khi xã hội
phân chia giai cấp thì đồng thời đã có mầm mống của chủ nghĩa chủng tộc.Từ thời
cổ các dân tộc chiến thắng trong cuộc chiến tranh chinh phục đều tự xưng là chủng
tộc thượng đẳng và xem nô lệ mình là hạ đẳng.Chủng tộc ban đầu phát triển ở chủ
nghĩa tư bản,ở giai đoạn này nó đã trở thành môt học thuyết hoàn chỉnh để biện hộ
cho chủ nghĩa tư bản,chủ nghĩa thực dân.Chủ nghĩa chủng tộc đặc biệt thịnh hành ở
Anh,Pháp,Đức,Mỹ từ thế kỉ XVIII,XIX.Trên thế giới hiện nay,tất cả những tộc
8
người hiện đại đều cách tổ tiên vượn và người vượn một quãng đường đi lên như
nhau.Không có một chủng tộc nào thiếu năng lực sáng tạo.Nhiều nền văn minh bên
các dòng sông Nin,Ấn,…đều do người da màu sáng tạo;hay trong thời kì trung cổ
khi các quốc gia châu Âu mới hình thành thì ở châu Phi đã có nhiều nền văn hóa
rực rỡ.Sự tồn tại những dân tộc lạc hậu hiện đại chỉ là hậu quả của lịch sử,của áp
bức giai cấp và áp bức dân tộc-chủng tộc.
Tóm lại:sự khác nhau về đặc điểm hình thái hoàn toàn không có ý nghĩa quyết
định đối với đời sống con người.Tất cả các chủng tộc đều có khả năng như nhau
trong việc chinh phục tự nhiên,cải tạo xã hội và sáng tạo ra những hình thức kĩ
thuật,văn hóa.Cấu tạo của bộ óc,của chân tay cũng như các đặc điểm sinh lí ở tất cả
các chủng tộc đều giống nhau.
Câu 8:Anh hay chị hãy trình bày ngữ hệ là gì và các nguyên nhân hình thành các ngữ
hệ.
Ngữ hệ là một nhóm các ngôn ngữ có cùng nguồn gốc với nhau.Quan hệ đó được
xác định bởi những đặc điểm giống nhau về ngữ pháp,hệ thống từ vị cơ bản,âm vị và
thanh điệu.
Nguyên nhân hình thành ngữ hệ:Nhiều ý kiến cho rằng các ngữ hệ ra đời là do sự

chia nhỏ các thị tộc-bộ lạc và sự thiên di của học đến nơi khác nhau,cuộc thiên di này
có thể bắt đầu từ thời đồ đá cũ,chủ yếu là để kiếm ăn.Cùng với sự phát triển của công
cụ sản xuất,quá trình đó ngày càng phát triển nhất là từ thời kì kim khí.Đồng thời với
sự phân chia này của các tập thể người,dần dần các ngôn ngữ khác nhau cách biệt
với sự lâu dài với ngôn ngữ gốc.Có nhiều quan điểm khác nhau khi nói về sự hình
thành các ngữ hệ.Thế kỉ XIX,có nhiều nhà bác học cho rằng “các ngôn ngữ đã ra đời
từ một ngữ hệ,không tùy thuộc vào thời gian hình thành chúng”Nhà ngôn ngữ học
Maro(Nga)ngữ hệ được hình thành trên một phạm vi rộng lớn và do sự kết hợp khác
nhau.Quan điểm của Tonxtop(Liên Xô cũ)lại cho rằng ngữ hệ hình thành trên cơ sở
tập trung dần dần các ngôn ngữ trên một vùng rộng lớn như Ôxtrâylia,có hàng trăm
ngôn ngữ nhưng lại khó tách biệt chúng rõ rệt.
Tóm lại:sự hình thành các ngữ hệ giống với nguyên nhân sinh ra ngữ hệ.Đó là do sự
phân chia các khối cộng đồng người,nên đồng thời cũng phân chia luôn các nhóm
ngôn ngữ khác nhau,song có quan hệ nguồn gốc với nhau.
Câu 9:Anh hay chị hãy trình bày các ngữ hệ chính ở Đông Nam Á và Việt Nam.
Đối với Đông Nam Á:Hiện nay Đông Nam Á có 4 ngữ hệ.
-Ngữ hệ Nam Á:
+Nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer gồm các ngôn ngữ của người Môn sinh sống ở
Miama,Tây Nam Thái Lan,người Khmer ở Campuchia và Việt Nam-ở Việt Nam còn
có cư dân Môn-khmer sinh sống rải rác ở cả 3 vùng Tây Bắc,Trường Sơn và Tây
Nguyên.
+Nhóm ngôn ngữ Việt-Mường:phân bố chủ yếu ở Việt Nam.
+Nhóm ngôn ngữ Hmông-Dao:phân bố ở nhiều nước như Thái Lan,Lào,Miama,Việt
Nam,
9
-Ngữ hệ Thái:Gồm các ngôn ngữ Thái,Lào-Thay,Tày-Thái, ở Thái
Lan,Lào,Miama,Việt Nam,
-Ngữ hệ Nam Đảo:Tập trung đông nhất ở các nước
Philippin,Inđônêxia,Malaixia,một số ở Campuchia,Việt Nam và Singapo.Nhóm
Polinedia chủ yếu ở đại lục Úc và các đảo Nam Thái Bình Dương.

-Ngữ hệ Hán-Tạng:
+Nhóm ngôn ngữ Hán:phân bố ở nhiều nước Đông Nam Á,đông nhất là Singapo và
Inđônêxia ngoài ra còn phân bố ở các nước như Việt
Nam,Lào,Campuchia,Inđônêxia,Philippin.
+Nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến:phân bố rải rác ở các nước Mianma,Thái Lan,Lào và
Việt Nam.
Đối với Việt Nam:Ở Việt Nam tồn tại cả 4 ngữ hệ phân bố ở Đông Nam Á trong đó
ngữ hệ Nam Á là lớn nhất.Ngữ hệ này bao gồm ngôn ngữ của các cư dân có địa bàn
sinh tụ từ miền núi đến đồng bằng,từ Nam ra Bắc.Ngữ hệ Thái và ngữ hệ Hán-
Tạng,về mặt lịch sử chủ yếu là phân bố ở miền Bắc,ngữ hệ Nam đảo bao gồm một số
ngôn ngữ ở miền Trung Tây Nguyên.
-Ngữ hệ Nam Á:32 ngôn ngữ.
+Nhóm Việt-Mường(4 ngôn ngữ):Việt,Mường,Thổ,Chứt.
Người Mường có dân số hơn 1 triệu người,cư trú ở các tỉnh Hòa Bình,Thanh
Hóa,Phú Thọ.Họ được coi là cư dân có nguồn gốc từ người Việt,được gọi là nhóm
tiền Việt-Mường.Lúc đầu gọi là cư dân Lạc Việt.
Người Thổ ở Việt Nam có khoảng 60.000 người cư trú chủ yếu ở Nghệ An là một
trong những cư dân nằm trong khối tiền Việt-Mường được tách ra.
Người Chứt có khoảng 2500 người,sinh sống ở Minh Hóa,Bố Trạch của Quảng Bình
và Hương Khê ở Hà Tĩnh.Họ chủ yếu sống bằng nương rẫy là chính có nguồn gốc từ
khối tiền Việt Mường.
+Nhóm Môn-Khmer(21 dân tộc):
*Ở vùng Tây Bắc bao gồm các tộc người:Máng,Kháng,Khơ-mú,Xinh-mun,Ơ-đu.
Người Máng có dân số khoảng 2600 người,cư trú ở một số huyện của tỉnh Lai Châu
như Mường Tè,Phong Thổ,Sìn Hồ,Mường Lay.Họ sống bằng kinh tế nương lẫy,du
canh du cư,cuộc sống bấp bênh,mất mùa quanh năm,chăn nuôi và thủ công chưa phát
triển.
Người Kháng có dân số khoảng trên 10.000 người,tập trung chủ yếu ở các tỉnh như
Lai Châu,Sơn La.Đây được coi là cư dân có lịch sử cư trú ở Tây Bắc rất lâu đời,họ
rất giỏi trong việc làm thuyền độc mộc.

Người Khơ-mú có dân số khoảng 50.000 người,cư trú ở Tây Bắc rất lâu đời ở các
tỉnh như Lai Châu,Điện Biên,Sơn La,Yên Bái,Thanh Hóa và đông nhất là ở Nghệ
An.Họ được coi là cư dân “xá ăn lửa”,có truyền thống du canh du cư.
Người Xinh-mun có khoảng 18.000 người,cư trú dọc khu vực Tây Bắc biên giới
Việt lào.Đây là cư dân chuyên canh tác nương rẫy,nghề đan lát phát triển bị ảnh
hưởng bởi văn hóa Thái rất nhiều.
Người Ơ-đu dân số ít,có khoảng 300 người,cư trú tại xã Kim Đa-Tương Dương-
Nghệ An.Nhà cửa,ngôn ngữ bị ảnh hưởng bởi van hóa Thái.
10
*Ở vùng Trường Sơn Tây Nguyên bao gồm các tộc người:Bru-Vân Kiều,Cơ-tu,Tà
ôi,cư trú ở miền núi Quảng Trị,miền tây Quảng Bình,Thừa Thiên Huế,Quảng Nam.
Trung trường sơn tây nguyên:Đăk Lăk.Đăk Nông,Kon Tum,Gia Lai,Lâm Đồngbao
gồm các tộc người Bana,Mnông,Giẻ Triêng,Mạ,Cơ-ho,Brâu,Rơmăm khoảng từ vài
nghìn đến chục nghìn người.Sống theo làng,đất đai là tài sản chung,các thành viên
trong làng có quyền khai thác tài nguyên của làng,làng có ranh giới.Có hội đồng già
làng,có quyền quyết định rất lớn đối với công việc chung của làng.Nhà Rông là trung
tâm của làng có ý nghĩa quan trọng như làng người Việt đó là nơi diễn ra các sinh
hoạt văn hóa tâm linh của làng,trụ sở của già làng,họp bàn các công việc công
ích,công bố các công việc liên quan đến vận mệnh của làng,
*Ở Nam Bộ:Chủ yếu là tộc người Khơme sinh sống,là cư dân có quá trình sinh sống
lâu dài có số lượng dân số đông nhất trong nhóm Môn-Khơme.Có trình độ kinh tế-
văn hóa mạnh nhất,biết canh tác lúa nước từ rất lâu đời,tập trung ở các tỉnh Trà
Vinh,Sóc Trăng.
+Ngữ hệ Hmông-Dao bao gồm:Hmông,Dao,Pà Thẻn.
Người Hmông có lịch sử cư trú ở Việt Nam khá muộn trong vòng khoảng 300 năm
trước.Có nhiều nhóm Hmông khác nhau:xanh,đỏ,đen,
Cư trú ở các tỉnh miền núi phía bắc,di cư mạnh vào khu vực Tây nguyên trong những
năm gần đây.
Người Pà thẻn có dân số khoảng 6000 người cư trú ở Bắc Kạn,Cao Bằng,Tuyên
Quang,Hà Giang.

+Ngữ hệ Tày-Thái bao gồm 8 ngôn ngữ:
Người Thái có dân số khoảng 1,5 triệu người.Ở tây bắc có thái trắng và thái đen cư
trú Lai Châu,Sơn La,Hòa Bình.
Người Tày dân cư đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam,dân số hơn 1,6
triệu người có chữ Nôm tày có tục thờ cúng tổ tiên là chính.Cư trú ở Cao Bằng,Lạng
Sơn,Thái Nguyên,Bắc Kạn,Lào Cai,Bắc Giang.
Người Nùng có dân số hơn 1 triệu người cư trú ở Lạng Sơn,Cao Bằng,Thái
Nguyên,Bắc Giang,Lào Cai.Có chữ Nôm nùng,có tục thờ cúng tổ tiên.
Người Lào có dân số khoảng 5000 người ở Sơn La,Lai Châu sinh sống ở các bản
làng.
Người Lự cư trú ở Sìn Hồ của tỉnh Lai Châu,di cư từ Trung Quốc sang Việt
Nam,canh tác nương rẫy,các bản làng sống cạnh bờ suối,làm ruộng nước.
Người Bố Y cư trú ở Hà Giang,Lào Cai có dân số khoảng 2.300 người được coi là
cư dân cổ đại ở Quý Châu(Trung Quốc).
Người Giáy di cư vào Việt Nam rất muộn khoảng 200 năm.Cư trú ở Lào Cai,Lai
Châu,Hà Giang có khoảng 60.000 người.
+Ngữ hệ Nam Đảo bao gồm 5 ngôn ngữ:
Người Chăm có dân số khoảng 160.000 người,có trình độ phát triển kinh tế xã hội
cao nhất,theo chế độ mẫu hệ đậm nét.Tập trung đông nhất ở Bình Thuận,Ninh
Thuận,Phú Yên-Duyên hải Nam trung bộ,vùng An Giang,Thành phố HCM.
Người Chu-ru có dân số gần 20.000 người cư trú ở Lâm Đồng,Ninh Thuận,Bình
Thuận,theo chế độ mẫu hệ.
11
Người Ê-đê cư dân có mặt lâu đời ở Tây Nguyên,có dấu vết nguồn gốc Nam Đảo
khá rõ rệt,thể hiện ở sử thi,kiến trúc, có dân số khoảng 300-400 nghìn người.Cư dân
bảo lưu đậm nét chế độ mẫu hệ.
Người Gia-rai có sự phân hóa giai cấp khá rõ rệt,có dân số hơn 400.000 người sinh
sống chủ yếu ở Gia Lai,Đăk Lăk và Kon Tum.
Người Đắc-lay có dân số khoảng 122.000 người cư trú chủ yếu ở Phú Yên,Bình
Định,Khánh Hòa,Lâm Đồng.

+Ngữ hệ Hán-Tạng:Tạng Miến,Hán-Hoa.
*Tạng Miến:
Người Cống có dân số hơn 2000 người sinh sống ở huyện Mường Tè của tỉnh Lai
Châu phụ thuộc vào tự nhiên.
Người Hà Nhì có dân số 21.700 người(2009) là cư dân quần cư ở biên giới Việt-
Lào,Việt-Trung,biết đến trồng lúa nước ở ruộng bậc thang.
Người La Hủ có dân số khoảng 9.600 ngưới sinh sống ở Mường Tè(Lai Châu) điển
hình trong canh tác du canh du cư,cư dân rất nghèo.
Người Lô Lô có dân số khoảng 4.500 người gồm Lô Lô Hoa,Lô Lô Đen sinh sống ở
Hà Giang,Lào Cai và Cao Bằng,có nghề làm trống.
Người Phủ Lá,Si La sinh sống ở Lai Châu,Điện Biên giỏi săn bắn,người Phủ Lá có
thể tạo ra thuốc độc.
*Hán Hoa:
Người Hoa định cư ở Việt Nam rất lâu đời rất giỏi buôn bán
Người Ngái,Sán Dìu sinh sống ở vùng núi Đông Bắc( Quảng Ninh,Bắc Giang,Thái
Nguyên,Lạng Sơn.
Ngoài ra còn có các tộc người thuộc nhóm Kađai,là Thái-Kađai gồm La Chí,La
La,Cờ Lao,Pu Péo sinh sống ở các tỉnh vùng núi phía Bắc:Lào Cai,Điện Biên,Sơn
La.Hà Giang,Lai Châu.Đời sống kinh tế rất khó khăn chủ yếu làm nương rẫy.
Câu 12:Anh hay chị hãy trình bày điều kiện tự nhiên nơi sinh sống của các tộc người
thiểu số ở Việt Nam.
Địa bàn dân tộc thiểu số Việt Nam chiếm ¾ diện tích tự nhiên. Đồng bào DTTS
cư trú chủ yếu ở 52 tỉnh, thành phố, thuộc các vùng Trung du và miền núi
phía Bắc, Trung bộ, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ - còn gọi là vùng Đồng bằng
sông Cửu Long. Vùng dân tộc thiểu số, miền núi có vị trí chiến lược đặc biệt
quan trọng về phát triển kinh tế. Nhưng cho đến nay, vùng DTTS vẫn là vùng
có tỷ lệ nghèo cao, là vùng khó khăn nhất của cả nước trong phát triển kinh tế
- xã hội.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng này phải kể đến là do có những khó
khăn về điều kiện tự nhiên, nhất là về điều kiện địa hình và khí hậu thủy văn. Do

địa hình núi cao hiểm trở, lại bị chia cắt mạnh, có độ dốc lớn cùng với chế độ mưa
phân bố không đều trong năm, mưa lớn tập trung vào một số tháng đã gây nên lũ lụt
trong mùa mưa, hạn hán trầm trọng trong mùa khô, có nơi hạn hán xảy ra ngay cả
12
trong mùa mưa, hạn hán còn gây thiếu cả nước sinh hoạt, thậm chí không có cả
nước uống.
Về địa hình
Vùng trung du và miền núi phía Bắc có địa hình rất phức tạp và phân hóa mạnh với
nhiều dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, hệ thống sông suối dày
đặc sen kẽ với các thung lũng và cao nguyên. Tiểu vùng núi cáo và cao nguyên đá
vôi (độ cao trên 2000m) là vùng địa hình dốc, bị chia cắt lớn với những dải núi đá
tai mèo sắc nhọn, những khe núi sâu và hẹp, nhiều vách núi dựng đứng, rất khó
khăn cho sản xuất, đời sống và trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng.
Vùng trung bộ (gồm Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung) là vùng có diện tích
hẹp ngang theo chiều Đông – Tây, độ dốc cao, phía Tây là núi xen kẽ giữa các sườn
núi dốc là các thung lũng sâu và hẹp. Phía Đông là biển, có địa hình đồi núi, đồng
bằng và bờ biển xâm nhập lẫn nhau; dọc theo bờ biển là các đồng bằng nhỏ. Đa số
các nhóm DTTS đều sống ở những địa bàn núi cao trong vùng nên điều kiện sinh
sống của họ gặp nhiều khó khăn hơn so với vùng đồng bằng và vùng ven biển.
Vùng Tây Nguyên có địa hình là một sơn nguyên, gồm một quần thể các cao
nguyên đá hoa cương và bazan liền kề bao gồm các dãy núi cao trên 2.000 m, tiếp
đến là các dãy núi thấp dưới 2.000 m và các cao nguyên với độ cao từ 300 - 800 m
thoải dần về phía Tây, Tây Nam và Nam. Là vùng cao nguyên, lại có vị trí địa lý
nằm xa các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, xa các cảng biển, các đầu mối giao
thông lớn nên không thuận lợi cho thu hút đầu tư phát triển kinh tế gây hạn chế
nhiều đến phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Vùng Tây Nam Bộ có vị trí như một bán đảo với 3 mặt Đông, Nam và Tây Nam
giáp biển (có đường bở biển dài 700km), phía Tây có đường biên giới giáp với
Campuchia và phía Bắc giáp với vùng kinh tế Đông Nam Bộ - vùng kinh tế lớn
nhất của Việt Nam hiện nay. Nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng với mạng

lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày thuận lợi cho giao thông thủy vào bậc
nhất ở nước ta. Điều kiện địa hình của khu vực này thuận lợi hơn cho sản xuất và
đời sống so với những vùng DTTS khác trong cả nước.
Về khí hậu và thủy văn
Khí hậu giữa các vùng DTTS có sự khác biệt nhưng nhìn chung thuộc 2 loại chính:
nhiệt đới gió mùa và cận nhiệt đới. Sự phân chia các mùa trong năm tương đối rõ
rệt: ở miền Bắc và Bắc trung bộ chia hai mùa lạnh và nóng, ở Nam trung bộ và
miền Nam là mùa khô và mùa mưa. Những điểm không thuận lợi về thời thiết và
địa hình tác động không nhỏ đến đời sống và phát triển kinh tế, đặc biệt là sản xuất
nông nghiệp của các vùng.
13
Đối với vùng Trung du và miền núi phía Bắc có khí hậu nhiệt đới gió mùa được
chia làm hai mùa rõ rệt: mùa mưa không khí nóng ẩm, mưa nhiều kéo dài từ tháng
5 đến tháng 9 hàng năm; mùa khô kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, thời tiết
khô hanh, ít mưa, lạnh, kèm theo các đợt gió mùa Đông Bắc. Tiểu vùng Tây Bắc có
kiểu thời tiết khô nóng vào thời kỳ đầu mùa hạ do hiệu ứng “Phơn” của các dãy núi
thượng Lào đối với gió mùa từ phía Tây thổi sang thúc đẩy tình trạng khô nóng đạt
mức không thua kém, thậm chí có nơi còn trầm trọng hơn cả Bắc Trung Bộ
Vùng Trung Bộ có khí hậu của vùng tương đối khắc nghiệt, ảnh hưởng bởi cả loại
hình nhiệt đới gió mùa và cận nhiệt đới cùng khí hậu khô, nóng của Lào. Khí hậu
vùng Trung Bộ được chia ra làm hai tiểu vùng khí hậu là Bắc Trung Bộ và Duyên
Hải Nam Trung Bộ. Vùng Bắc Trung Bộ về mùa đông do bị ảnh hưởng gió mùa
đông bắc cộng thêm bị dãy núi Trường Sơn tương đối cao ở phía Tây (Phong Nha –
Kẻ Bàng) và phía Nam (tại đèo Hải Vân trên dãy Bạch Mã) chắn ở cuối hướng gió
mùa Đông Bắc nên vùng này thường lạnh nhiều vào mùa đông và thường kèm theo
mưa nhiều, do gió mùa thổi theo đúng hướng Đông Bắc mang theo hơi nước từ
biển vào, hơi khác biệt với thời tiết khô hanh của miền Bắc cùng trong mùa đông.
Về mùa hè, lúc này do không còn hơi nước nên gió mùa Tây Nam, gọi là gió Lào,
gây ra thời tiết khô nóng (có khi tới trên 40°C), độ ẩm không khí thấp. Vùng Duyên
hải Nam Trung Bộ có khí hậu nóng quanh năm.

Mùa mưa lũ ở Bắc Trung Bộ thường xảy ra từ tháng 7 đến tháng 10, ở vùng Duyên
hải Nam Trung Bộ thường xảy ra từ tháng 10 đến tháng 12. Lượng mưa trung bình
hàng năm là 1.900 mm, năm cao nhất là 3.500 mm. Mùa khô kéo dài 4-6 tháng và
chỉ chiếm 15-20% lượng mưa của năm. Với lượng mưa chiếm 68 - 75% lượng mưa
trong năm, vào mùa mưa thường phát sinh lũ lụt lớn.
Vùng Tây Nguyên có khí hậu vùng này ít biến động trong năm. Tuy nhiên, trên địa
bàn vùng Tây Nguyên có sự phân bố không đồng đều về nguồn nước theo lãnh thổ
và theo mùa: sáu tháng mùa mưa có khi chiếm gần 90% lượng mưa trong năm,
cộng với địa hình đất dốc nên diện tích đất đang bị xói mòn, rửa trôi, dẫn đến sa
mạc hoá còn lớn. Mùa khô ở Tây nguyên kéo dài khoảng 6 tháng (từ tháng 11 năm
trước đến tháng 4 năm sau), lượng mưa chỉ chiếm dưới 25% lượng mưa năm, nhiều
tháng gần như hoàn toàn không có mưa. Đây là giai đoạn khó khăn nhất cho sản
xuất nông nghiệp ở Tây nguyên.
Vùng Tây Nam Bộ có một nền nhiệt độ cao và ổn định trong toàn vùng. Nhiệt độ
trung bình 28
o
C. Tổng hoà những đặc điểm khí hậu đã tạo ra cho vùng TNB các lợi
thế riêng biệt mà các nơi khác khó có thể có được cho sự phát triển của các sinh
vật. Tuy nhiên trên cùng địa bàn, nhất là vùng tập trung nhiều đồng bào DTTS, vẫn
thường gặp phải các hiện tượng khí hậu bất lợi. Hơn 90% lượng mưa tập trung vào
mùa mưa, từ tháng V – XI, đã gây nên ngập úng và tăng mức ngập lũ cho nhiều
vùng. Mùa mưa lũ kéo dài 6 tháng thường gây ra hiện tượng sụt lở đất, tốc mái, đổ
14
nhà, chết cây trồng vật nuôi, mất tư liệu sản xuất, không có việc làm. Lượng mưa
trong mùa khô chỉ chiếm dưới 10%, các tháng I, II, III và đầu tháng IV hầu như
không có mưa gây nên tình trạng khô hạn nghiêm trọng.
Về đất đai
Vùng Trung du và miền núi phía Bắc có tổng diện tích 95.338,8 km2 chiếm 28,8%
tổng diện tích tự nhiên của cả nước. Đây là vùng có chất đất rất đa dạng phức tạp có
thể phát triển nhiều loại cây trồng khác nhau. Đất đai rộng lớn với khoảng 34 loại

đất chính chia thành 12 nhóm, trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm tỷ lệ lớn nhất
(63,29% tổng diện tích tự nhiên). Đây là nhóm đất thuận lợi cho phát triển nhiều
loại cây lâu năm có khả năng hàng hoá và hiệu quả kinh tế cao. Những vùng đất
cao nguyên và các vùng đất đồi thấp phù hợp với các loại cây ăn quả, cây chè. Các
vùng đất khe núi và các vùng thung lũng đất bằng, vùng ven sông phù hợp cho phát
triển các loại cây lương thực có hạt và cây trồng ngắn ngày. Những vùng núi cao
hiểm trở, đất đai nhỏ hẹp, phân tán, đất bị xói mòn rửa trôi cùng với điều kiện khí
hậu khô hạn, thiếu nước trầm trọng, chỉ phù hợp phát triển cây rừng và các loại cây
dược liệu với điều kiện canh tác hết sức khó khăn nên đời sống của đồng bào DTTS
ở đây còn rất nghèo
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có tổng diện tích tự nhiên là 95.885,1
km2, chiếm 28,96% tổng diện tích của cả nước. Ở tiểu vùng Bắc trung bộ, đất đai
có phần tương đồng với vùng trung du miền núi và phía bắc, nên sản xuất nông
nghiệp cũng rất đa dạng. Vùng Duyên hải miền trung đất đai rộng và bằng phẳng
hơn nhưng về chất đất lại kém hơn, chủ yếu là những vùng cát trắng bạc màu, khô
hạn, canh tác nông nghiệp rất khó khăn.
Vùng Tây Nguyên có tổng diện tích tự nhiên 54.640,6 km2, chiếm 16,51% tổng
diện tích tự nhiên của cả nước. Diện tích đất bazan của vùng Tây Nguyên có trên
1,3 triệu ha. Với đặc điểm đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500 - 600 m so với mặt
biển, Tây Nguyên rất phù hợp với những cây công nghiệp như cà phê, ca cao, hồ
tiêu, dâu tằm. Cây điều và cây cao su cũng đang được phát triển. Cà phê là cây
công nghiệp quan trọng số một ở Tây Nguyên. Tây Nguyên cũng là vùng trồng cao
su lớn thứ hai sau vùng Đông Nam Bộ. Nhìn chung, đây là vùng đất có tiềm năng
phát triển các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao; là cơ hội tốt để đồng bào
các DTTS trong vùng phát triển sản xuất hàng hóa lớn. Từng bước xóa đói giảm
nghèo và làm giàu dựa vào tài nguyên đất.
Vùng Tây Nam bộ là vùng đất màu mỡ ở phía Tây Nam Việt Nam, có diện tích
40.518,5 km2, chiếm 12,24% diện tích cả nước. Đất đai chủ yếu là đất phù sa với
khoảng 1.800.000 ha, đất phèn 1.100.000 ha, đất mặn 320.000 ha. Nói chung, là
vùng có chủng loại đất phong phú, phì nhiêu. Có khoảng 65% diện tích đất được

dùng để sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Tuy nhiên, đối với các vùng
15
đất chua, phèn, mặn, độ phì thấp gây nhiều khó khăn cho phát triển sản xuất nông
nghiệp.
Câu 13:Anh hay chị hãy trình bày sự hiểu biết của mình về các tộc người ở Việt
Nam.
Cộng đồng người Việt Nam có 54 thành phần dân tộc khác nhau. Trong đó dân tộc
Kinh (Việt) chiếm gần 90% tổng số dân cả nước hơn 10% còn lại là dân số của 53
dân tộc.
Trải qua bao thế kỷ, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã gắn bó với nhau trong suốt
quá trình lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi, giành tự do, độc
lập và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc hầu như có tiếng nói, chữ viết và bản sắc
văn hoá riêng.
Bản sắc văn hoá của các dân tộc thể hiện rất rõ nét trong các sinh hoạt cộng đồng
và trong các hoạt động kinh tế. Từ trang phục, ăn, ở, quan hệ xã hội, các phong tục
tập quán trong cưới xin, ma chay, thờ cúng, lễ tết, lịch, văn nghệ, vui chơi của mỗi
dân tộc lại mang những nét chung. Đó là đức tính cần cù chịu khó, thông minh
trong sản xuất; với thiên nhiên - gắn bó hoà đồng; với kẻ thù - không khoan
nhượng; với con người - nhân hậu vị tha, khiêm nhường Tất cả những đặc tính đó
là phẩm chất của con người Việt Nam.
* 54 dân tộc sống trên đất Việt Nam có thể chia thành 8 nhóm theo ngôn ngữ như
sau:
- Nhóm Việt - Mường có 4 dân tộc là: Kinh (Việt), Chứt, Mường, Thổ.
- Nhóm Tày - Thái có 8 dân tộc là: Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày,
Thái.
Nhóm Môn - Khmer có 21 dân tộc là: Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Chơ Ro, Co,
Cơ Ho, Cờ Tu, Giẻ Triêng, Hrê, Kháng, Khmer, Khơ Mú, Mạ, Mảng, M'Nông, Ơ
Đu, Rơ Măm, Tà Ôi, Xinh Mun, Xơ Đăng, Xtiêng.
- Nhóm Mông - Dao có 3 dân tộc là: Dao, Mông, Pà Thẻn.
- Nhóm Kadai có 4 dân tộc là: Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo.

- Nhóm Nam Đảo có 5 dân tộc là: Chăm, Chu Ru, Ê Đê, Gia Rai, Ra Glai.
- Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa, Ngái, Sán Dìu.
- Nhóm Tạng có 6 dân tộc: Cống, Hà Nhì, La Hủ, Lô Lô, Phù Lá, Si La.
Nghiên cứu cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung hay văn hoá các dân tộc nói
riêng là những công việc không có giới hạn. Càng nghiên cứu, tìm hiểu ta càng thấy
say mê, cuốn hút và ta càng thấy thêm yêu đất nước Việt Nam hơn.
Khai thác những nét đặc sắc của nền văn hoá truyền thống các dân tộc là một tiềm
năng to lớn cho sự phát triển của ngành Du lịch Việt Nam.
Câu 13:Anh hay chị hãy trình bày đặc điểm chính của các dân tộc thiểu số ở Việt
16
Nam là gì?
Cả nước hiện có 54 dân tộc anh em. Trong số 54 dân tộc, có những dân tộc vốn
sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thửa ban đầu, có những dân
tộc từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta giao lưu hết sức thuận
lợi nên nhiều dân tộc ở các nước xung quanh vì nhiều nguyên nhân đã di cư từ Bắc
xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, chủ yếu từ Bắc xuống, rồi định cư trên lãnh thổ
nước ta. Những đợt di cư nói trên kéo dài mãi cho đến trước Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, thậm chí có bộ phận dân cư còn chuyển đến nước ta sau năm 1945.
Ðây là những đợt di cư lẻ tẻ, bao gồm một số hộ gia đình đồng tộc.
1.Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất không đều nhau,
có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái nhưng cũng có dân tộc
chỉ có vài trăm người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu Trong đó, dân tộc Kinh là dân
tộc đa số, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao hơn,
là lực lượng đoàn kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh lâu
dài dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và phát
triển cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như anh em
một nhà, quý trọng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Ở nước ta không có tình trạng dân
tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng không có

tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu cầu phát
triển mới của đất nước, các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát huy truyền
thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam
độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh dựng nước
và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhiều dân tộc có chung cội nguồn. Nói về
nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã có nhiều truyền thuyết như truyện "Quả bầu mẹ"
giải thích các dân tộc có chung nguồn gốc; truyện "Ðôi chim" đẻ ra hàng trăm,
hàng ngàn trứng nở ra người Kinh, người Mường, người Thái, người Khơ-mú ;
truyện của dân tộc Ba-na, Ê-đê kể rằng người Kinh, người Thượng là anh em một
nhà; đặc biệt là truyện Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra
trăm người con, một nửa theo cha xuống biển trở thành người Kinh, một nửa theo
mẹ lên núi thành các dân tộc thiểu số. Vua Hùng được coi là Tổ tiên chung của cả
17
nước.
Còn các tài liệu lịch sử cũng cho thấy, người Việt, người Mường là con cháu của
người Lạc Việt, là chủ nhân của nền văn hoá Ðông Sơn. Theo nhiều nhà nghiên
cứu, việc tách nhóm Việt -Mường thành các dân tộc là một quá trình lâu dài, bắt
đầu vào cuối thiên niên kỷ I, đầu thiên niên kỷ II sau công nguyên. Người Tày,
Thái, Nùng là những bộ phận của người Tày, Thái cổ, trong quá trình lịch sử đã
tách thành các dân tộc Tày, Thái, Nùng. Người H'mông, Dao xưa kia có cùng
nguồn gốc, sau tách thành các dân tộc H'mông, Dao và Pà Thẻn.
Cũng có những dân tộc khác nhau về nguồn gốc lịch sử như các dân tộc La Hủ, Lô
Lô, Vân Kiều, Sán Dìu
Các dân tộc có cùng nguồn gốc lịch sử, có nhiều điểm tương đồng là điều kiện
thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với nhau. Song dù cùng hoặc không cùng một nguồn
gốc sinh ra, có sự khác nhau về tâm lý, phong tục, tập quán thì đều là người trong
một nước, con trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với nhau, các dân tộc nước ta luôn

kề vai sát cánh bên nhau, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Nước ta ở khu vực địa lý có nhiều thuận lợi song điều kiện tự nhiên cũng rất khắc
nghiệt. Do nắng lắm mưa nhiều nên hàng năm thường bị hạn hán, lũ lụt. Do yêu cầu
tồn tại và phát triển ở một nước nông nghiệp, trồng lúa nước là chính, cư dân ở Việt
Nam phải liên kết nhau lại, hợp sức để khai phá đất hoang, chống thú dữ, xây dựng
các hệ thống thuỷ lợi (mương, phai), đê, đập, nhằm đảm bảo phát triển sản xuất.
Trải qua nhiều thế kỷ dựng nước và giữ nước, sự gắn bó, giúp đỡ nhau trong lao
động sản xuất của đồng bào các dân tộc đã được coi như một tiêu chuẩn đạo đức.
Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính toàn cầu, càng
đòi hỏi nhân dân các dân tộc nước ta chung lòng hợp sức phòng tránh, giảm nhẹ
thiên tai cũng như khắc phục hậu quả do bão lụt, hạn hán gây ra. Cuộc đấu tranh
chinh phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của khối đoàn kết
dân tộc và thông qua cuộc đấu tranh đó, đại gia đình các dân tộc Việt Nam càng
thêm gắn bó chặt chẽ.
Cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta còn có lịch sử chống giặc
ngoại xâm vô cùng oanh liệt. Ðất nước ta ở vào nơi thuận tiện trên trục đường giao
thông Bắc - Nam, Ðông - Tây của thế giới, có tài nguyên thiên nhiên phong phú và
vị trí địa lý - chính trị có tính chiến lược. Do đó, các thế lực bành trướng và xâm
lược luôn nhòm ngó và tìm cách thôn tính nước ta. Ðặc điểm nổi bật của lịch sử
Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong đó có nhiều cuộc
đấu tranh chống lại những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu có và hung bạo nhất
18
thế giới. Chính vì vậy mà cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn sát cánh bên nhau,
liên tục đứng lên chống giặc ngoại xâm, đánh thắng quân xâm lược.
Ðoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là truyền thống nổi bật nhất của các dân
tộc Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử. Trong sự nghiệp cách mạng
do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc được phát huy
cao độ, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước
ta.
Những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới rất to lớn và đáng tự hào cho

thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu mới, là
động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho thế và lực của cách
mạng nước ta ngày càng được tăng cường.
Tuy vậy, bên cạnh mặt đoàn kết là cơ bản, có nơi, có lúc vẫn xẩy ra những va chạm
trong quan hệ dân tộc, còn có những biểu hiện mặc cảm, thành kiến dân tộc. Chính
vì thế ở một số nơi, các lực lượng thù địch đã lợi dụng để kích động chia rẽ dân tộc.
Do đó việc tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu
và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của mỗi người
dân Việt Nam.
3. Các dân tộc ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau.
Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn chung
các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một số
nước trên thế giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển và
trung du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng cao,
một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. Các dân
tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những khu
vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện, xã và
các bản mường. Cách đây chưa lâu (khoảng bốn, năm chục năm), Tây Nguyên nói
chung, Ðắc Lắc nói riêng, hầu hết cư dân vẫn là người tại chỗ, mỗi dân tộc đều có
khu vực cư trú riêng, ranh giới giữa các tộc người, giữa các bản làng còn rõ ràng thì
nay tình hình đã khác xa và xu hướng này còn tiếp tục gia tăng. Hiện nay dân tộc
Kinh cư trú ở Ðắc Lắc chiếm tỷ lệ khá lớn. Cùng với người Kinh, các dân tộc ít
người miền Bắc gần đây cũng di chuyển vào khu vực này ( kể cả di chuyển theo kế
hoạch và không kế hoạch) với số lượng khá lớn. Tới nay, ở miền núi hầu như
không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân tộc cư trú. Nhiều tỉnh có tới trên 20 dân
tộc cư trú như Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Lâm Ðồng
Phần lớn các huyện có từ 5 dân tộc trở lên cư trú. Nhiều xã, bản có tới 3-4 dân tộc
19
cùng sinh sống.
Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước ta, một mặt có điều kiện

để tăng cường hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần nhau; mặt khác cần đề phòng
trường hợp do chưa thật hiểu nhau, khác nhau về phong tục tập quán nên xuất hiện
mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, dẫn đến va chạm giữa
những người thuộc các dân tộc cùng sống trên một địa bàn. Ngày nay, tình trạng cư
trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao lưu kinh tế - văn hoá giữa các
dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa
thanh niên nam nữ thuộc các dân tộc khác nhau ngày càng phổ biến, càng có thêm
điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa các dân tộc anh em.
4. Các dân tộc ít người ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi, có vị trí
quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái.
Phần lớn các dân tộc ít người ở nước ta cư trú ở miền núi, chiếm 3/4 diện tích cả
nước. Ðây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn mà trước hết là tiềm lực
về tài nguyên rừng và đất rừng. Không những thế, miền núi còn có vai trò đặc biệt
quan trọng về môi trường sinh thái đối với cả nước như điều hoà khí hậu, điều tiết
nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu trong mùa mưa lũ.
Vị trí chiến lược quan trọng của miền núi đã được thực tế lịch sử khẳng định. Từ
xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để xâm
lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp, Nhật,
Mỹ. Trong giai đoạn hiện nay, miền núi - biên giới là thành luỹ vững chắc của Tổ
quốc, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ vững chắc chủ
quyền quốc gia, chống âm mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ sự nghiệp
hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc của các nước láng
giềng, nên khách quan có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa
giữa các dân tộc ở hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Ðảng và Nhà
nước ta không chỉ vì lợi ích các dân tộc ít người mà còn vì lợi ích của cả nước,
không chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, không chỉ về kinh tế -xã hội, mà cả về
chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia.
5. Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau.

Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân tộc ở Việt
20
Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân tộc sống ở
vùng thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc ít người sống ở
vùng sâu, vùng xa, vùng cao.
Có những dân tộc ít người có đời sống kinh tế - xã hội còn thấp kém. Nhiều dân tộc
cư trú trên địa bàn có điều kiện tự nhiên hết sức khó khăn, khắc nghiệt. Ðiều kiện
canh tác nương rẫy không ổn định nên đời sống của đồng bào thường bấp bênh.
Cuộc sống du canh, du cư thường dẫn tới đói nghèo, bệnh tật.
Bên cạnh nguyên nhân lịch sử và hoàn cảnh tự nhiên, còn có nguyên nhân chủ yếu
là do hậu quả của sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến và đất nước
phải liên tục đối phó với chiến tranh xâm lược trong nhiều năm. Ðây là những
nguồn gốc của sự không bình đẳng giữa các dân tộc trên thực tế. Giải quyết hậu quả
lịch sử này phải có quá trình phấn đấu tích cực, bền bỉ, lâu dài mới làm cho các dân
tộc từng bước tiến kịp trình độ chung.
6. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc anh
em có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng.
Cùng với nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều có
một nền văn hoá mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền thống, lịch sử và
niềm tự hào dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc là tất cả những giá trị vật chất và tinh
thần, bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm lý,
tình cảm, phong tục, tập quán, tín ngưỡng được sáng tạo trong quá trình phát triển
lâu dài của lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá mỗi dân tộc càng làm
phong phú nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thống nhất trong đa
dạng là nét riêng, độc đáo của nền văn hoá các dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới phải hướng vào việc củng
cố và tăng cường sự thống nhất, nhân lên sức mạnh tinh thần chung của toàn dân
tộc. Ðồng thời phải khai thác và phát triển mọi sắc thái và giá trị văn hoá của các
dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần ngày càng cao và nhu cầu phát triển
từng dân tộc.

Câu 15:Anh hay chị hãy trình bày bức tranh về hoạt động kinh tế cổ truyền của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam?
Hoạt động kinh tế truyền thống là một trong nhiều nội dung quan trọng của toàn bộ
đời sống quá khứ của bất kỳ dân tộc nào.
Trong thang bậc của sự phát triển xã hội thì những tiến bộ về kinh tế để đáp ứng
các nhu cầu về ăn, ở, mặc là sự phản ánh quan trọng nhất của sự tiến bộ lịch sử loài
21
người. Từ hoạt động chỉ dựa vào khai thác tự nhiên chuyển sang nền kinh tế nông
nghiệp và chăn nuôi, dù mới chỉ là sơ khai cũng đã là một mốc cắm rất quan trọng.
Đến khi thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp thì sự kiện này được ghi nhận là
một trong 3 cuộc đại phân công lao động xã hội. Hiện đại hơn là sự phát triển của
nền kinh tế công nông rồi hậu công nghiệp đều là các mốc đánh dấu bước tiến vượt
bậc của nhân loại.
- Hoạt động kinh tế nông nghiệp:
+ Sự ra đời của nông nghiệp ở Việt Nam:
Con người trong cuộc sống của mình luôn luôn chịu sự tác động của môi trường
xung quanh, cùng trở về quá khứ xa xưa thì sự chi phối của tự nhiên đối với bản
thân con người càng lớn. Sự chi phối này không chỉ giới hạn trong đời sống thường
ngày mà hơn thế nó tác động đến cả những thành tựu trong sáng tạo, phát minh.
Những sự phát minh ra nông nghiệp với các dạng thức khác nhau, với thời gian
sớm muộn không đồng nhất một phần rất quan trọng là do môi trường quy định.
Trong quá trình sinh tồn, con người luôn tác động đến ngoại cảnh làm thay đổi
ngoại quan, thay đổi cả môi trường, làm thay đổi cà mối liên hệ trong hệ sinh thái
và có thể dẫn đến kết quả là làm thay đổi cả hệ sinh thái được thể hiện rõ từ khi con
người tiến đến các ngành kinh tế sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi: mối quan hệ của
con người với hệ sinh thái là 2 chiều: Càng trở về quá khứ thì hệ sinh thái tác động
lên con người càng lớn. Sự hoạt động này để lại dấu ấn trong toàn bộ hoạt động của
con người thời tiền sử, tạo ra các đặc điểm riêng của con đường pơt văn hoá - kinh
tế của các cư dân khác nhau của hành tinh.
Các cư dân cổ đại Việt Nam hướng công việc săn bắn, hái lượm của mình vào

nhiều loài, mỗi loài một ít kiểu săn bắn hái lượm như vậy được gọi là săn bắn hái
lượm theo phổ rộng được biểu hiện cả trong hoạt động săn bắn và cả trong hoạt
động hái lượm. Như vậy hoạt động hái lươm theo phổ rộng chiếm ưu thế trong đời
sống của các cư dân tiểu nông nghiệp Việt Nam và Đông nam á, do đó nông nghiệp
Việt Nam và Đông Nam á đã nảy sinh từ hoạt động hái lượm theo phổ rộng.
+ Các phương thức canh tác: trồng trọt truyền thống.
Các phương thức canh tác là sự phản ánh khả năng khai thác. Các điều kiện tự
nhien, đất dâi, nước) và là sự thích nghi với các điều kiện môi trường (khí hậu, thời
tiết…). Từ cổ xưa, các cư dân ở Việt Nam và Đông Nam Á đã biết đến các phương
thức canh tác: canh tác nương rẫy và canh tác ruộng nước.
22
Canh tác nương rẫy: là loại hình canh tác trên đất khô, chủ yếu là các vùng đồi núi.
Chặt cây đốt rừng là điểm nổi bật của phương thức canh tác này.
Phương thức phát đốt mảnh đất canh tác có một thời gian cách quãng (có thời gian
nghỉ). Những rừng mọc lại trên mảnh nương cũ là rừng tái sinh nên mức độ dầy
rậm kém hơn nhiều so với rừng nguyên sinh. Do đó, người ta cần có những mảnh
đất để canh tác ngay và mặt khác phải có các mảnh dự trữ. Nhưng để rừng có thể
mọc lại, để hạn chế bào mòn tầng canh tác, việc sử dụng các công cụ truyền thống
là rất hữu hiệu.
Hiện nay, chúng ta vẫn còn gặp một dạng công cụ nguyên thuỷ là cây gậy chọc lỗ
được sử dụng trong công việc gieo hạtà hạn chế bào mòn,
Năng suất cây trông trên nương rẫy thường không ổn định à phụ thuộc hoàn toàn
vào điều kiện tự nhiên, con người chỉ phát đốt và làm cỏ. Do đó, người dân phải
sống phân tán và dẫn đến du danh du cư.
+ Canh tác ruộng nước: là loại hình canh tác phổ biến ở những vùng của Châu Á
với nhiều dân tộc thuộc các ngôn ngữ khác nhau. Người ta thấy ruộng nước có mặt
trên các sườn núi đã được cải tạo thành ruộng bậc thang mà tiêu biểu nhất loại
ruộng này là ruộng của người Iphugao ở Philipin, ở các vùng thung lũng hẹp thì
hình thành nên các cánh động lúa nước, có diện tích phổ biến là từ vài chục đến vài
trăm hécta như các cánh đồng của người Thái, Tày, Mường à hợp thành những cánh

động thẳng cánh cò bay như các vùng châu thổ sông Hồng, Mê Kông, các tỉnh ven
biển miền Trung của người Việt, người Khmer, người chăm.
Người ta phân ruộng nước ra làm nhiều loại: theo địa lí địa hình ruộng nước miền
chân núi, ruộng nước vùng đầm lầy, ruộng bằng phẳng, bậc thang, theo chế độ phủ
nước, ruộng ngậm nước, ruộng chờ mưa…
Có 2 giai đoạn ké tiếp nhau trong canh tác nông nghiệp là: nông nghiệp cuốc (giai
đoạn trước) và nông nghiệp cày (giai đoạn sau). Tiến trình này phù hợp với người
canh tác trên khô.
+ Chăn nuôi truyền thống.
Chăn nuôi của Việt Nam cũng rất đa dạng và phong phú về giống, loài. Gia súc:
trâu, bò, voi, lợn. Gia cầm: gà, vịt, ngan… đó là những động vật được nuôi từ rất
lâu đời, nó cung cấp cho con người về sức kéo và thịt ăn hàng ngày, ngoài ra còn
phục vụ cho nhu cầu tôn giáo của mỗi giai đoạn và của cả cộng đồng.
Mặc dù chăn nuôi xuất hiện sớm các động vật nuôi dù đa dạng, phong phú thì nó
23
vẫn chỉ là một phần bổ trợ cho nông nghiệp trồng trọt và trước hết nó phục vụ cho
nông nghiệp trồng trọt. Trong các con vật nuôi, con trâu là chiếm vị trí đặc biệt là
trợ thủ đắc lực của con người, là vật ngang giá.
Phương thức chăn nuôi truyền thống là chăn thả tự nhiên. Đàn trâu được thả trong
rừng quanh năm, con trâu được con người yêu quý và vai trò của nó nổi bật trong
đời sống tâm linh của nhiề dân tộc là vị trí không thể thay thế của nó trong đời sống
vật chất, hoạt động nông nghiệp của đại bộ phận các cư dân Việt Nam vẫn coi nghề
nông trồng lúa là phương tiện sinh tồn quan trọng nhất. Bên cạnh con trâu là con
voi, voi giúp con người làm những công việc nặng nhọc (chuyển gỗ…) voi là vật
ngang giá của cả thế giới.
Như vậy, chăn nuôi truyền thống, vật nuôi truyền thống không chỉ có ý nghĩa đơn
thuần về phương diện kinh tế mà nó còn có vị trí xác định trong đời sống tinh thần
và trong các sh văn hoá của nhiều cư dân.
+ Nghề làm vườn:
Sự xuất hiện mảnh vườn và nghề làm vườn ở Việt Nam là khá muộn. Sự xuất hiện

và phát triển của nghề làm vườn cho một loạt kết quả quan trọng.
+ Nó tạo điều kiện khai khẩn có hiệu quả vùng đồi núi với đất sỏi tương đối nghèo
nàn, ít thuận lợi cho việc gieo trồng câyhoà thảo.
+ Đối với cây trồng ở vườn cần ít đất hơn so với cây hoà thảo, giúp cho việc tiết
kiệm đất canh tác còn tăng trưởng mật độ cư dân.
+ Cho phép thu hoạch trong thời gian nhiều năm, con người ta định cư lâu dài hơn,
phát triển sở hữu riêng à sự tư hữu với đất đai.
- Nghề thủ công nghiệp: có từ thời nguyên thuỷ, con người đã phát minh ra lửa
bằng phương pháp sử dụng ma sát, từ đó lửa đã tham gia vào quá trình hình thành
hoạt động sáng tạo mới: lửa kết hợp với chiếc rìu đá tạo ra chiếc thuyền độc mộc
đầu tiên. Lừa có vai trò quyết định trong việc mang đồ gốm nấu chảy quặng, đồng,
sắt, kim loại. Kim loại được nấu chảy giúp cho nghề rèn phát đạt chiếc cày xuất
hiện với việc sử dụng sức kéo gia súc.
Bên cạnh nghề rèn, hàng loạt nghề khác cũng xuất hiện thịnh vượng: cối xay tay,
bàn xoay đồ gốm, sản xuất dầu thực vật… nghề thủ công ngày càng trở thành một
bộ phận không thể tách rời của văn hoá văn minh của người dân tộc và nhiều quốc
gia các nghề thủ công càng phát triển thì ngày càng tách khỏi nhau, ngày càng được
chuyên hoá. Sản phẩm nhiều, loại hình đa dạng, đó cũng là cơ sở để thủ công tách
24
khỏi nông nghiệp, thực hiện cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ 2 của nhân
loại./.

25

×