Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa om 6976 vụ hè thu năm 2012 tại xã đại hải, huyện kế sách, tỉnh sóc trăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 53 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG





NGUYỄN DUY HIẾN





ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 6976 VỤ HÈ THU NĂM 2012
TẠI XÃ ĐẠI HẢI, HUYỆN KẾ SÁCH,
TỈNH SÓC TRĂNG





Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC










Cần Thơ, 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG





LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NÔNG HỌC




Tên đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 6976 VỤ HÈ THU NĂM 2012
TẠI XÃ ĐẠI HẢI, HUYỆN KẾ SÁCH,
TỈNH SÓC TRĂNG





Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
GS.TS Nguyễn Bảo Vệ Nguyễn Duy Hiến

ThS Trần Thị Bích Vân MSSV: 3103459
Lớp: NH K36


Cần Thơ, 2013

i
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
 O 


Luận văn tốt nghiệp kỹ sƣ ngành Nông Học

ĐỀ TÀI:
“ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 6976 VỤ HÈ THU NĂM 2012
TẠI XÃ ĐẠI HẢI HUYỆN KẾ SÁCH
TỈNH SÓC TRĂNG”


Sinh viên thực hiện: NGUYỄN DUY HIẾN
Kính trình lên hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xem xét.



Cần Thơ, ngày… tháng… năm 2013
Cán bộ hƣớng dẫn




GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ ThS. Trần Thị Bích Vân

ii
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP VÀ SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
 O 

Hội đồng khoa học chấm luận văn tốt nghiệp với đề tài:
“ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 6976 VỤ HÈ THU NĂM 2012
TẠI XÃ ĐẠI HẢI, HUYỆN KẾ SÁCH,
TỈNH SÓC TRĂNG”

Do sinh viên NGUYỄN DUY HIẾN thực hiện và bảo vệ trƣớc hội đồng.
Ý kiến hội đồng:
…………………………………………………………………………………………

… ……………………………………………………………………………………
……… ………………………………………………………………….……………
…………
Luận văn đã đƣợc hội đồng đánh giá ở mức: ……………
Cần Thơ, ngày……tháng… năm 2013
Thành viên Hội đồng






DUYỆT KHOA
Trƣởng Khoa Nông Nghiệp & SHƢD


iii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả đƣợc trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào trƣớc đây.




Tác giả luận văn



Nguyễn Duy Hiến

















iv
CẢM TẠ

Kính dâng
Cha mẹ đã tận tụy nuôi dƣỡng và tạo điều kiện cho tôi đƣợc học tập và rèn luyện.
Chân thành cảm tạ
Thầy Nguyễn Bảo Vệ và cô Trần Thị Bích Vân đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo và
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành nghiên cứu.
Chân thành cảm ơn
Quý thầy cô của Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng, Trƣờng Đại học Cần
Thơ đã truyền đạt những kiến thức quý báu cho tôi trong quá trình học tập và rèn
luyện tại trƣờng.
Các bạn sinh viên ngành Nông học, Khóa 36 đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình
học tập và thực hiện đề tài.




















v
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP

LÝ LỊCH SƠ LƢỢC
Họ và tên: Nguyễn Duy Hiến
Ngày sinh: 16/ 05/ 1986
Nơi sinh: Đại Hải, Kế Sách, Sóc Trăng
Dân tộc: Kinh
Chổ ở hiện nay: 137/1 ẤP Trung Hải, Đại Hải, Kế Sách, Sóc Trăng
Điện thoại: 01682549513
E- mail:
QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
Năm 1997 tốt nghiệp tiểu học.
Năm 2002 tốt nghiệp trung học cơ sở.
Năm 2005 tốt nghiệp trung học phổ thông.
Năm 2010-2013 là sinh viên nghành Nông học khóa 36, Trƣờng Đại học Cần Thơ.

















vi
NGUYỄN DUY HIẾN “ Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa
OM6976 vụ Hè Thu năm 2012 tại Xã Đại Hải, Huyện Kế Sách, Tỉnh Sóc
Trăng ”. Luận văn tốt nghiệp đại học, Khoa Nông nghiệp và Sinh học Ứng dụng,
trƣờng Đại học Cần Thơ. Cán bộ hƣớng dẫn: GS. TS Nguyễn Bảo Vệ và ThS. Trần
Thị Bích Vân.

TÓM LƢỢC
Đề tài “Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến năng suất giống lúa OM 6976
vụ Hè Thu 2012 tại huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng” đƣợc thực hiện nhằm mục
tiêu xác định mật độ gieo sạ thích hợp để làm tăng năng suất lúa và hiệu quả kinh tế
cao nhất trong sản xuất ở vùng nghiên cứu. Thí nghiệm đƣợc tiến hành trong vụ Hè
Thu năm 2012-2013 tại xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Thí nghiệm
đƣợc bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên, ba lần lặp lại, bao gồm các
nghiệm thức: sạ ở mật độ 200 kg/ha, sạ ở mật độ 150 kg/ha, sạ ở mật độ 100 kg/ha.
Kết quả thí cho thấy trong vụ Hè Thu năm 2012 với mật độ sạ 100 kg/ha và
150 kg/ha giúp giảm đƣợc một lƣợng giống đáng kể, ngoài ra còn giúp giảm đƣợc
thiệt hại do sâu và bệnh hại gây ra so với mật độ sạ 200 kg/ha. Bên cạnh đó cũng
giúp giảm đƣợc thiệt hại do đổ ngã, đảm bảo đƣợc năng suất sau này. Các thành
phần năng suất nhƣ số hạt/bông số hạt chắc trên bông, tỷ lệ hạt chắc, năng suất,… ở

nghiệm thức sạ 100 kg/ha và sạ 150 kg/ha tƣơng đƣơng với sạ 200 kg/ha. Hiệu quả
kinh tế của nghiệm thức sạ 150kg/ha là cao nhất khi có lợi nhuận tăng thêm
1.940.000 đồng/ha.


vii
MỤC LỤC

Trang phụ bìa i
Lời cam đoan iii
Cảm tạ iv
Quá trình học tập v
Tóm lƣợc vi
Mục lục vii
Danh mục bảng x
Danh mục hình xi
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: LƢỢC KHẢO TÀI LỆU 2
1.1 NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI CÂY LÚA…………………………………………. 2
1.1.1 Nguồn gốc cây lúa……………………………………………………………… 2
1.1.2 Phân loại cây lúa theo đặc tính thực vật học……………………………………. 2
1.2 THỜI KỲ SINH TRƢỞNG CỦA CÂY LÚA……………………………………….…… 3
1.2.1 Giai đoạn tăng trƣởng.…………………………………………………………… 3
1.2.2 Giai đoạn sinh sản …………………………………………………………….… 4
1.2.3 Giai đoạn chín.………………………………………………………………… ….4
1.3 CÁC THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT …………………………………………………… 5
1.3.1 Số bông trên mét vuông 6
1.3.2 Số hạt trên bông …………………………………………………………….… 7
1.3.3 Tỷ lệ hạt chắc… ……………………………………………………………… … 8
1.3.4 Trọng lƣợng 1000 hạt 9

1.4 NHU CẦU SINH THÁI CỦA CÂY LÚA…… ……………………………………….….9
1.4.1 Điều kiện đất đai ………………………………………………………………… 9
1.4.2 Nhiệt độ…. ………………………………………………………………………….10
1.4.3 Ánh sáng… …………………………………………………………………………10

viii
1.4.4 Lƣợng mƣa……………………………………………………………… …10
1.4.5 Gió………………………………………………………………………… 11
1.5 PHƢƠNG PHÁP GIEO SẠ……………………………………………………….11
1.5.1 Sạ lan………………………………………………….…………………… 11
1.5.1.1 Sạ ƣớt ………………………………………………………………………11
1.5.1.2 Sạ khô.……………………………………………………………………….11
1.5.1.3 Sạ ngầm……………………………………………… …………………….12
1.5.1.4 Sạ chay 12
1.5.1.5 Sạ gởi 12
1.5.2 Sạ hàng 12
1.5.3 Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến sinh trƣởng và năng suất lúa cao sản 13
1.5.3.1 Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến sự sinh trƣởng của lúa 13
1.5.3.2 Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến năng suất lúa 13
1.6 NGHIÊN CỨU MẬT ĐỘ SẠ 14
CHƢƠNG 2 PHƢƠNG TIỆN VÀ PHƢƠNG PHÁP 16
2.1 ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 16
2.1.1 Thời gian 16
2.1.2 Địa điểm 16
2.2 VẬT LIỆU THÍ NGHIỆM 16
2.3 PHƢƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM 17
2.3.1 Bố trí thí nghiệm 17
2.3.2 Kỹ thuật canh tác 18
2.3.3 Phƣơng pháp đánh giá chỉ tiêu nông học 18
2.3.3.1 Chiều cao cây 18

2.3.3.2 số chồi m
2
18
2.3.3.3 chiều dài bông 18
2.3.4 Đánh giá về chỉ tiêu thành phần năng suất 18
2.3.5 Đánh giá chỉ tiêu về năng suất 19
2.3.6 Đánh giá khả năng phản ứng với một số sâu bệnh hại chính 20

ix
2.3.6.1 Sâu cuốn lá 20
2.3.6.2 bệnh đạo ôn 20
2.3.6.3 Rầy nâu 20
2.4 PHÂN TÍCH SỐ LIỆU 21
CHƢƠNG 3 KẾT LUẬN VÀ THẢO LUẬN 22
3.1 NGHI NHẬN TỔNG QUÁT 22
3.1.1 Tình hình đất đai và khí hậu 22
3.1.2 Tình hình phát triển của cây lúa 22
3.1.3 Tình hình sâu bệnh hại. 22
3.2 ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN SỰ SINH TRƢỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CÂY LÚA 23
3.2.1 Chiều cao cây. 23
3.2.2 Số chồi trên đơn vị diện tích 24
3.2.3 Chiều dài bông 25
3.3 THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT 26
3.3.1 Số bông trên mét vuông 26
3.3.2 Số hạt trên bông 27
3.3.3 Số hạt chắc trên bông 27
3.3.4 Tỷ lệ hạt chắc 27
3.3.5 Trọng lƣợng 1000 hạt 28
3.4 NĂNG SUẤT 28

3.4.1 Năng suất lý thuyết 28
3.4.2 Năng suất thực tế 29
3.5 ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ 29
CHƢƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ. 31
4.1. KẾT LUẬN 31
4.2. ĐỀ GHỊ 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
PHỤ CHƢƠNG

x
DANH MỤC BẢNG
Bảng
Tựa bảng
Trang
2.1
Sơ đồ bố trí thí nghiệm
21
3.1
Ghi nhận tình hình sâu bệnh hại chung của các
nghiệm thức.
27
3.2
Chiều cao cây (cm) của giống lúa OM 6976 đƣợc
thí nghiệm ở các mật độ khác nhau tại huyện kế
sách, tỉnh sóc trăng vụ Hè Thu 2012.
27
3.3
Số chồi/m
2
của giống lúa OM 6976 đƣợc thí nghiệm

ở các mật độ khác nhau tại huyện kế sách, tỉnh sóc
trăng vụ Hè Thu 2012.
29
3.4
Chiều dài bông (cm) của giống lúa OM 6976 đƣợc
thí nghiệm ở các mật độ khác nhau tại huyện kế
sách, tỉnh sóc trăng vụ Hè Thu 2012.
29
3.5
Thành phần năng suất của giống lúa OM 6976 đƣợc
thí nghiệm ở các mật độ khác nhau tại huyện kế
Sách, tỉnh Sóc Trăng vụ Hè Thu 2012.
31
3.6
6 năng suất lý thuyết và năng suất thực tế của giống
lúa OM 6976 đƣợc thí nghiệm ở các mật độ khác
nhau tại huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng vụ Hè Thu
2012.
33

3.7
Hiệu quả kinh tế của giống lúa OM 6976 đƣợc thí
nghiệm ở các mật độ khác nhau tại huyện Kế Sách,
tỉnh Sóc Trăng vụ Hè Thu 2012.
35




xi

DANH MỤC HÌNH
Hình
Tên hình
Trang
2.1
Bản đồ hành chính huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng
19





1
MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, Cây lúa chiếm 80% tổng sản lƣợng lƣơng thực, trong đó vùng
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng sản xuất lúa gạo trọng điểm, chiếm
48% diện tích sản xuất lúa, 50% sản lƣợng lúa cả nƣớc và chiếm khoảng 90% lƣợng
gạo xuất khẩu hằng năm (Nguyễn Thành Hối, 2011).
Theo Yoshida (1981) khi sạ thẳng ở lƣợng hạt thƣờng dùng, khả năng đâm
chồi ít ảnh hƣởng đến năng suất hạt vì tổng số bông trên mét vuông tùy thuộc vào
thân chính hơn số chồi. Ở mật độ cây cao, nhƣng cây lúa đa thân sẽ không đâm
chồi hoặc chỉ cho số chồi hạn chế, nhƣ vậy sẽ dẫn đến quần thể cây đơn thân. Ở lúa
cấy, khoảng 10-30 chồi có thể đƣợc sinh ra trong khoảng cách hợp lý, nhƣng chỉ 2-
5 chồi đƣợc hình thành trong lúa sạ thẳng.
Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997) cho rằng, trong điều kiện quần thể, do gieo
cấy dày nên số nhánh thực tế có hạn. Sau một thời gian đẻ nhánh, số nhánh tăng
lên, trong quần thể ruộng lúa có hiện tƣợng tự điều tiết, do sự cạnh tranh về ánh
sáng và dinh dƣỡng nên số nhánh không tăng lên nữa. Tuy nhiên, ngƣời dân có tập
quán truyền thống gieo sạ với mật độ cao khoảng 200 kg/ha, nhƣng trong thực tế
lúa là loại cây có khả năng tự điều chỉnh trong quần thể, nếu sạ với mật độ quá cao

cây lúa sẽ đẻ nhánh ít hoặc không đẻ nhánh, tỉ lệ chồi vô hiệu cao, thậm chí cây bị
chết do cạnh tranh sinh tồn, cùng với đó là việc bón nhiều phân đạm dẫn đến sâu
bệnh phát triển mạnh và làm giảm năng suất (Nguyễn Trƣờng Giang, 2010).
Do đó, đề tài “Ảnh hƣởng của mật độ gieo sạ đến năng suất giống lúa OM 6976
vụ Hè Thu năm 2012 tại xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng” đƣợc
thực hiện nhằm tìm ra mật độ gieo sạ thích hợp đến năng suất lúa OM 6976 để làm
cơ sở khuyến cáo cho nông dân trong canh tác lúa.










2
CHƢƠNG 1
LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 NGUỒN GỐC VÀ PHÂN LOẠI CÂY LÚA
1.1.1 Nguồn gốc cây lúa
Nguyễn Đình Giao và ctv. (1997) cho rằng, về nguồn gốc xuất xứ cây lúa
cũng có nhiều ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng cây lúa đƣợc hình thành đầu
tiên ở vùng Tây Bắc Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan, Lào, Nam Trung Quốc, Việt
Nam. Một số tác giả cho rằng cây lúa bắt nguồn từ Ấn Độ (Wantt, 1908, Vavilop,
1926). Một số tác giả khác coi Nam Trung Quốc là vùng xuất hiện cây lúa đầu tiên
(Candolle, 1885). Lại có ngƣời cho rằng cây lúa có nguồn gốc ở Việt Nam,
Campuchia (Chevaliev, 1937, Komarov 1938, Erughin, 1950),… cũng có ý kiến
cho rằng quê hƣơng cây lúa là vùng đầm lầy Đông Nam Á.

Những căn cứ vào các tà liệu lịch sử, di tích khảo cổ, đặc điểm sinh thái học
của cây lúa trồng và cho rằng nguồn gốc cây lúa là vùng đầm lầy Đông Nam Á, rồi
từ đó lan dần đi nơi khác. Thêm vào đó, sự kiện thực tế là cây lúa và nghề trồng lúa
đã có từ rất lâu ở vùng này, lịch sử và đời sống của các dân tộc Đông Nam Á lại gắn
liền với lúa gạo đã minh chứng nguồn gốc của lúa trồng (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.1.2 Phân loại cây lúa theo đặc tính thực vật học
Lúa là cây hằng niên có tổng số nhiễm sắc thể 2n = 24. Về mặt phân loại thực
vật, cây lúa thuộc họ hòa thảo (Gramineae), chi Oryza. Trong chi Oryza có nhiều
loài, sống một năm hoặc nhiều năm, trong đó chỉ có 2 loài lúa trồng, còn lại là lúa
hoang. Loài thích nghi rộng rãi và chiếm đại bộ phận diện tích lúa trên thế giới là
Oryza sativa L. ,loài này hầu nhƣ có mặt khắp nơi từ đầm lầy đến sƣờn núi, từ vùng
xích đạo, nhiệt đới đến ôn đới, từ khắp vùng phù sa nƣớc ngọt đến vùng đất cát sỏi
ven bển nhiễm mặn, phèn…, có nhiều giống có đặc tính tốt cho năng suất cao. Một
loài lúa trồng nữa là Oryza Glaberrima Steud., hạt nhỏ năng suất thấp, chỉ trồng
trên diện tích nhỏ ở một số quốc gia Tây Phi, và hiện đang bị thay thế dần bởi
Oryza sativa L. (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008; Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Hai cây
lúa này có điểm khác nhau về hình thái. Lá còn có những lông tơ cứng ở hai rìa hai
bên. Lúa trồng Châu Phi có mặt lá và vỏ trấu không có lông tơ, lá láng trơn (Bùi
Huy Đáp, 1999). Nguyễn Văn Hiển (2000) cho rằng, đến nay nhiều nhà phân loại
học trên thế giới công bố nhiều bảng phân loại dựa trên những quan điểm khác nhau
nhƣ quan điểm hình thái học, quan điểm tế bào học và sự phân tích genome …


3
1.2 THỜI KỲ SINH TRƢỞNG CỦA CÂY LÚA
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) đời sống cây lúa bắt đầu từ khi hạt nảy mầm cho
đến khi lúa chín. Có thể chia làm ba giai đoạn chính: giai đoạn tăng trƣởng (sinh
trƣởng dinh dƣỡng), giai đoạn sinh sản (sinh dục) và giai đoạn chín.
Với giống có thời gian sinh trƣởng là 120 ngày, trong điều kiện nhiệt đới, thời
kỳ sinh trƣởng dinh dƣỡng là 60 ngày, làm đòng 30 ngày và chín 30 ngày. Thời kỳ

sinh trƣởng dinh dƣỡng thƣờng biến động mạnh nhất, thời kỳ làm đòng thƣờng biến
động trong khoảng 30-40 ngày tùy theo giống ngắn hay dài ngày. Thời kỳ chín biến
động chủ yếu theo nhiệt độ. Sự khác biệt và biến động về thời lƣợng trong các thời
kỳ sinh trƣởng dinh dƣỡng phụ thuộc vào giống và điều kiện ngoại cảnh. Những
giống chín sớm có thời kỳ sinh trƣởng dinh dƣỡng ngắn, chúng có thể làm đòng
trƣớc khi đạt số nhánh tối đa. Ngƣợc lại, ở giống dài ngày thƣờng đạt số nhánh tối
đa trƣớc làm đòng (Nguyễn Đình Giao và ctv, 1997).
1.2.1 Giai đoạn tăng trƣởng
Bắt đầu từ khi hạt nảy mầm đến khi cây bắt đầu phân hóa đòng (Nguyễn Ngọc
Đệ, 2008). Trong thời kỳ này, cây lúa chủ yếu hình thành và phát triển các cơ quan
dinh dƣỡng nhƣ ra lá, phát triển rễ, đẻ nhánh và một phần thân (Vũ Văn Hiển và
Nguyễn Văn Hoan, 1999). Giai đoạn dinh dƣỡng biểu hiện sự đâm chồi tích cực, sự
tăng dần chiều cao cây, và sự ra lá đều đặn. Cây ra lá ngày càng nhiều và kích thƣớc
lá ngày càng lớn giúp cây lúa nhận nhiều ánh sáng mặt trời để quang hợp, hấp thụ
dinh dƣỡng, gia tăng chiều cao, nở bụi và chuẩn bị cho các giai đoạn sau. Sự đâm
chồi có thể bắt đầu từ khi thân chính phát triển lá thứ 5 hoặc lá thứ 6 (Yoshida,
1981; Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Cần có sự cân đối giữa sự sinh trƣởng nhánh và
sinh trƣởng lá sao cho số nhánh mới sinh ra đều có khả năng ra đƣợc số lá gần với
tổng lá vốn có của giống. Các nhánh ra muộn số lá ít sẽ không có khả năng chuyển
sang thời kỳ sinh trƣởng sinh dục và trở thành nhánh vô hiệu (Vũ Văn Hiển và
Nguyễn Văn Hoan, 1999).
Theo Đinh Thế Lộc (2006) việc đẻ nhánh của cây lúa phụ thuộc vào nhiều
điều kiện: ngoại cảnh, môi trƣờng, các biện pháp kỹ thuật tác động, và có mối quan
hệ chặt chẽ với sự ra lá. Cùng với sự đẻ nhánh, cây lúa có quá trình ra lá của cây mẹ
và của các nhánh. Cây lúa kết thúc đẻ nhánh khi bƣớc vào thời kỳ làm đốt (lóng) để
phát triển thân.
Thời kỳ đẻ nhánh là thời kỳ quyết định đến sự phát triển diện tích lá và số
bông. Do đó, cần chú ý đến các biện pháp kỹ thuật nhằm làm tăng diện tích lá để

4

tăng khả năng quang hợp và tăng số bông là yếu tố quan trọng để tăng năng suất lúa
(Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
1.2.2. Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn này của cây lúa bắt đầu từ lúc phân hóa đòng đến khi lúa trổ bông.
Giai đoạn này kéo dài khoảng 27-35 ngày, trung bình 35 ngày và giống lúa dài ngày
hay ngắn ngày thƣờng không khác nhau nhiều. Lúc này số chồi vô hiệu giảm nhanh,
chiều cao tăng lên rõ rệt do sự vƣơn dài của 5 lóng trên cùng. Đòng lúa hình thành
và phát triển qua nhiều giai đoạn, cuối cùng thoát ra khỏi bẹ của lá cờ và trổ bông
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Nguyễn Đình Giao và ctv., (1997) cho rằng, quá trình làm đòng là quá trình
phân hóa và hình thành cơ quan sinh sản, có ảnh hƣởng trực tiếp đến quá trình hình
thành năng suất lúa. Ở thời kỳ này, cây lúa có những thay đổi rõ rệt về mặt hình
thái, màu sắc lá, hoạt động sinh lý, khả năng chống chịu ngoại cảnh …
Theo Yoshida (1981) thời kỳ trổ bông đƣợc xác định vào lúc 50% số bông
thoát ra ngoài lá đòng. Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho rằng, cây lúa
hình thành hoa, tập hợp nhiều hoa thành bông lúa.
Sau khi hoàn thành việc trổ bông, các hoa lúa sẽ bắt đầu nở hoa trong khoảng
thời gian từ 8 giờ sáng đến 13 giờ chiều và sự thụ tinh cũng sẽ kết thúc trong vòng
5-6 giờ sau khi nở hoa. Trên cùng một bông các hoa lúa phải mất 7-10 ngày mới nở
hết và hầu hết các hoa nở trong vòng 5 ngày (Yoshida, 1981). Nếu chăm sóc chu
đáo, thời kỳ thứ nhất đã đẻ nhánh, thời tiết thuận lợi thì số hoa của bông lúa sẽ đƣợc
hình thành tối đa, là tiền đề để có nhiều hạt trên một bông (Vũ Văn Hiển và Nguyễn
Văn Hoan, 1999).
1.2.3 Giai đoạn chín
Bắt đầu từ lúc trổ bông đến lúc thu hoạch (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Sự chín
theo sau sự thụ tinh. Giai đoạn chín đƣợc đặt trƣng bởi sự sinh trƣởng hạt, sự tăng
kích thƣớc và trọng lƣợng, sự đổi màu của hạt và sự hóa già của lá. Ở giai đoạn sớm
của sự chín hạt màu lục, chúng chuyển sang màu vàng khi trƣởng thành. Cơ cấu của
hạt thay đổi từ trạng thái sữa, sáp sang chất cứng. Dựa vào các thay đổi này, giai
đoạn chín đƣợc chia nhỏ thành chín sữa, chín sáp, chín vàng và chín. Trong lúc hạt

sinh trƣởng mạnh, cả trọng lƣợng tƣơi và khô của hạt đều tăng. Tuy nhiên, gần
trƣởng thành, trọng lƣợng khô tăng chậm nhƣng trọng lƣợng tƣơi giảm do sự mất
nƣớc (Yoshida, 1981).

5
Ở các hoa lúa đƣợc thụ tinh xảy ra quá trình tích lũy tinh bột và sự phát triển
hoàn thiện của phôi. Nếu dinh dƣỡng đủ, không bị sâu bệnh phá hại, thời tiết thuận
lợi thì các hoa đã đƣợc thụ tinh sẽ phát triển thành hạt chắc, sản phẩm chủ yếu của
cây lúa (Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan, 1999). Tuy nhiên, nếu đất ruộng có
nhiều nƣớc, thiếu lân, thừa đạm, trời mƣa ẩm, ít nắng trong thời gian này, thì giai
đoạn chín sẽ kéo dài hơn và ngƣợc lại (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Yoshida (1981) thì
cho rằng, thời gian chín của lúa chịu ảnh hƣởng nhiều bởi nhiệt độ. Đinh Thế Lộc
(2006) cho rằng, trong giai đoạn này gặp điều kiện thuận lợi (ngoại cảnh, dinh
dƣỡng,…) thì sẽ giảm tỷ lệ hạt lép, tăng tỷ lệ hạt chắc (tăng số hạt trên bông) và
nhất là tăng khối lƣợng hạt.
1.3 CÁC THÀNH PHẦN NĂNG SUẤT
Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho rằng, năng suất lúa đƣợc quyết
định bởi các yếu tố: số bông trên mét vuông (N), số hạt trên bông (n), tỷ lệ hạt chắc
(F) và khối lƣợng 1000 hạt (w). Mối quan hệ phụ thuộc trên có thể biểu diễn bằng
công thức sau:
Y = N x n x W x F x 10
-5

Trong đó:
Y: Năng suất (tấn/ha)
N: Số hạt/m
2
F: Tỷ lệ hạt chắc
W: Trọng lƣợng 1000 hạt (g)
n: Số hạt trên bông

Các yếu tố năng suất có liên quan với nhau. Số bông trên mét vuông phụ thuộc
vào tỷ lệ đẻ nhánh, phụ thuộc vào mật độ cấy. Khi cây đẻ nhánh mạnh thì số bông
trên mét vuông sẽ tăng. Khi số bông trên mét vuông tăng quá cao thì bông lúa sẽ bé
đi, số hạt trên bông giảm, tỷ lệ hạt chắc trên bông cũng giảm. Tỷ lệ hạt chắc và
khối lƣợng hạt cũng giảm. Tỷ lệ hạt chắc và khối lƣợng hạt phụ thuộc vào số hạt
trên bông (Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan, 1999).
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) tổng hợp tất cả các thành phần năng suất đóng
góp khoảng 81,4% biến động của năng suất lúa. Trong đó, riêng số hạt trên mét
vuông chiếm (60,2%), tỷ lệ hạt chắc và trọng lƣợng hạt hợp lại chiếm 21,2%, số hạt
trên mét vuông và phần trăm hạt chắc đóng góp 75,7% và số hạt trên mét vuông
cộng với trọng lƣợng hạt đóng góp đến 78,5% năng suất lúa. Nếu sự góp phần của
tất cả các thành phần năng suất là 100%, thì sự đóng góp của số hạt trên mét vuông
sẽ là 74% và sự góp phần của phần trăm hạt chắc với trọng lƣợng 1000 hạt là 26%,

6
kết hợp số hạt trên mét vuông và phần trăm hạt chắc đóng góp 93% và số hạt trên
mét vuông cộng với trọng lƣợng hạt đóng góp đến 96% năng suất lúa.
Số hạt trên bông quá cao thì tỷ lệ hạt chắc, khối lƣợng hạt sẽ giảm. Để đảm
bảo năng suất cao cần điều khiển sao cho ruộng lúa có số bông trên mét vuông tôi
ƣu, bảo đảm số hạt trên bông nhiều, tỷ lệ hạt chắc cao và khối lƣợng hạt lớn (Vũ
Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan, 1999).
Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho rằng, năng suất lúa trên đơn
vị diện tích là kết quả tƣơng tác giữa nhiều yếu tố. Do đó căn cứ vào điều kiện khí
hậu, đất đai, phân bón, giống lúa mà quyết định mật độ cấy, tỷ lệ đẻ nhánh vì hai
yếu tố này ảnh hƣởng đến số bông, tỷ lệ hạt chắc, khối lƣợng hạt và cuối cùng là
năng suất hạt.
Muốn nâng cao năng suất lúa cần hiểu đƣợc quá trình hình thành các yếu tố
năng suất, trƣớc hết là thời gian, các điều kiện ảnh hƣởng đến các yếu tố đó. Trên
cơ sở đó mới có thể áp dụng các biện pháp kỹ thuật đúng lúc và đúng cách (Nguyễn
Đình Giao và ctv., 1997).

1.3.1 Số bông trên mét vuông
Trong 4 yếu tố tạo thành năng suất lúa thì số bông là yếu tố có tính chất quyết
định nhất và sớm nhất. Số bông có thể đóng góp 74% năng suất, trong khi số hạt và
trọng lƣợng hạt đóng góp 26% ( Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Số bông trên mét vuông đƣợc quyết định vào giai đoạn sinh trƣởng ban đầu
của cây lúa, nhƣng chủ yếu là giai đoạn đẻ nhánh. Thời kỳ đẻ nhánh từ lúc lúa bén
rễ, hồi xanh đến lúc phân bón hóa đòng, trong đó quan trọng nhất là thời kỳ đẻ
nhánh hữu hiệu. Đẻ nhánh hữu hiệu kết thúc trƣớc đẻ nhánh tối đa khoảng 10-12
ngày. Những nhánh đẻ trong thời gian này đều có khả năng thành bông (Nguyễn
Đình Giao và ctv., 1997). Số bông trên mét vuông tùy thuộc vào mật độ sạ, cấy, khả
năng nở bụi của lúa, điều kiện đất đai, thời tiết, lƣợng phân bón nhất là phân đạm và
chế độ nƣớc. Số bông trên mét vuông có ảnh hƣởng thuận với năng suất (Nguyễn
Ngọc Đệ, 2008).
Theo Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) số bông trên đơn vị diện tích
đƣợc quyết định bởi 2 yếu tố: mật độ cấy và tỷ lệ đẻ nhánh. Trong phạm vi nhất
định, cấy dầy lúa đẻ nhánh ít, cấy thƣa lúa đẻ nhánh nhiều cuối cùng cũng đạt đƣợc
số bông trên đơn vị diện tích nhƣ nhau.
Đối với giống lúa ngắn ngày, thấp cây, nở bụi ít, đất xấu, nhiều nắng nên cấy
dày để tăng số bông trên mét vuông. Ngƣợc lại, trên đất giàu hữu cơ, thời tiết tốt,

7
lƣợng phân bón nhiều (nhất là N) và giữ nƣớc thích hợp thì lúa nở bụi khỏe có thể
sạ cấy thƣa hơn. Các giống lúa cải thiện thấp cây có số bông trên mét vuông trung
bình phải đạt 500-600 bông/m
2
đối với lúa sạ, hoặc 350-450 bông/m
2
đối với lúa
cấy, mới có thể có năng suất cao (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho rằng, mật độ cấy và tỷ lệ đẻ

nhánh cũng có tác động quan trọng đến sự hình thành bông. Đối với những giống
lúa có 17-18 lá, những nhánh đẻ từ lá thứ 12 trở về trƣớc có khả năng cho bông,
những nhánh đẻ từ lá thứ 14 trở về sau phần lớn là vô hiệu, những nhánh đẻ từ lá
thứ 12-14 có thể cho bông và cũng có thể không cho bông.
1.3.2 Số hạt trên bông
Số hạt trên bông nhiều hay ít tùy thuộc vào số gié, hoa phân bón cũng nhƣ số
gié, hoa thoái hóa. Các quá trình này nằm trong thời kỳ sinh trƣởng sinh dục từ lúc
làm đòng đến trổ bông (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Số hạt trên bông đƣợc
quyết định từ lúc tƣợng đến cổ bông đến 5 ngày trƣớc khi trổ, nhƣng quan trọng
nhất là thời kỳ phân hóa hoa và giảm nhiễm tích cực. Ở giai đoạn này, số hạt trên
bông có ảnh hƣởng thuận đối với năng suất lúa do ảnh hƣởng đến số hoa đƣợc phân
hóa. Sau giai đoạn này, số hạt trên bông đã hình thành có thể bị thoái hóa có ảnh
hƣởng âm (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Theo Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) số hạt trên bông là số lƣợng
hoa phân hóa và hình thành trên bông, số hạt trên bông do tổng số hoa phân hóa và
số hoa thoái hóa quyết định, số hoa phân hóa càng nhiều, số hoa thoái hóa càng ít
thì số hạt trên bông sẽ nhiều.
Nguyễn Ngọc Đệ (2008) cho rằng, số hạt trên bông tùy thuộc vào số hoa đƣợc
phân hóa và số hoa bị thoái hóa. Hai yếu tố này bị ảnh hƣởng bởi giống lúa, kỹ
thuật canh tác và điều kiện thời tiết. Đối với những giống lúa bông to, kỹ thuật,
canh tác tốt, bón phân đầy đủ, chăm sóc đúng mức, thời tiết thuận lợi thì số hoa
phân hóa càng nhiều, số hoa thoái hóa càng ít. Nên số hạt cuối cùng trên bông cao.
Ở các giống lúa cải thiện, số hạt trên bông từ 80 -100 hạt đối với lúa sạ hoặc 100 -
120 hạt đối với lúa cấy là tốt trong điều kiện Đồng bằng sông Cửu Long.
Ngƣời ta thấy rằng bón đón đòng cho lúa vào giai đoạn phân hóa đòng đến giai
đoạn phân hóa hoa có tác dụng làm số lƣợng hoa phân hóa một cách rõ rệt. Bón
phân vào giai đoạn phân hóa hoa còn có tác dụng phòng ngừa hoa thoái hóa. Bón
thúc vào giai đoạn bắt đầu phân hóa đòng còn có tác dụng làm tăng quá trình phân
hóa gié. Số gié cấp 1 đặc biệt là số gié cấp 2 nhiều thì số hoa trên bông cũng nhiều.
Số hoa trên bông nhiều là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho số hạt trên bông cũng


8
nhiều. Số hoa trên bông nhiều là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho số hạt trên
bông lớn (Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan, 1999).
1.3.3 Tỷ lệ hạt chắc
Tỷ lệ hạt chắc là tỷ lệ phần trăm của các hạt có tỷ trọng trên 1,06. Tỷ lệ hạt
chắc có ảnh hƣởng đến năng suất lúa rõ rệt. Số hạt chắc ít, số hạt lép nhiều thì năng
suất sẽ giảm (Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan, 1999).
Tỷ lệ hạt chắc đƣợc quyết định từ đầu thời kỳ phân hóa đòng đến khi lúa vào
chắc nhƣng quan trọng nhất là các thời kỳ phân bào giảm nhiễm, trổ bông, phơi
màu, thụ phấn, thụ tinh và vào chắc (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Nguyên nhân hạt lép
là do quá trình thụ phấn thụ tinh không thuận lợi, khi ra hoa gặp rét hoặc nóng quá,
ẩm độ không khí quá thấp hoặc quá cao, làm cho hạt phấn mất khả năng nảy mầm,
hoặc trƣớc đó nhị và nhụy phát triển không hoàn toàn, tế bào mẹ hạt phấn bị hại,
(Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Hạt lép nhiều nhất ở phía cuối bông nhất là đối
với những giống lúa trổ giấu bông, một số gié cuối cùng không ra khỏi bẹ lá (Bùi
Huy Đáp, 1980). Nguyễn Thành Hối (2003) cho rằng, lúa Hè Thu xuống giống
muộn sẽ gặp bất lợi nhiều về điều kiện thời tiết lúc lúa trổ, do lúc này mƣa dầm nên
vũ lƣợng cao, mƣa kéo dài và đặc biệt la trời hay mƣa vào buổi sáng nên bông lúa
khó thụ phấn, thụ tinh và hạt bị lép nhiều.
Tăng tỷ lệ hạt chắc hay nói cách khác là giảm tỷ lệ hạt lép trên bông. Tỷ lệ hạt
chắc tăng làm trọng lƣợng bông tăng nên năng suất cuối cùng tăng. Tỷ lệ hạt lép
trên bông có thể thay đổi trong phạm vi tƣơng đối rộng, ít nhất là 2-5%, thông
thƣờng là 5-10%, cũng có khi 20-30% hoặc thậm chí còn cao hơn (Nguyễn Đình
Giao và ctv., 1997).
Theo Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) tỷ lệ hạt chắc còn phụ thuộc
vào tinh bột tích lũy trong cây, phụ thuộc vào đặc điểm giải phẩu của cơ thể. Trƣớc
khi trổ bông nếu cây lúa sinh trƣởng tốt, quang hợp thuận lợi làm lƣợng tinh bột
đƣợc tích lũy và vận chuyển lên hạt nhiều thì tỷ lệ hạt chắc cao. Mạch dẫn phát triển
tốt thì quá trình vận chuyển tinh bột tích lũy trong cây đến hạt đƣợc tốt, kết quả là

tỷ lệ hạt chắc sẽ cao.
Nguyễn Ngọc Đệ (2008) cho rằng, tỷ lệ hạt chắc tùy thuộc vào đặc tính sinh
lý của cây lúa và chịu ảnh hƣởng lớn của điều kiện ngoại cảnh. Thƣờng số hoa trên
bông quá nhiều dễ dẫn đến tỷ lệ hạt chắc thấp. Các giống lúa có khả năng quang
hợp, tích lũy và chuyển vị các chất mạnh, cộng với cấu tạo mô cơ giới vững chắc
không đổ ngã sớm, lại trổ và tạo hạt trong điều kiện thời tiết tốt, dinh dƣỡng đầy đả
thì tỷ lệ hạt chắc sẽ cao và ngƣợc lại.

9
1.3.4 Trọng lƣợng 1000 hạt
Trọng lƣợng 1.000 hạt là yếu tố cuối cùng tạo năng suất lúa. So với các yếu
tố khác thì trọng lƣợng 1000 hạt tƣơng đối ít biến động. Nó phụ thuộc chủ yếu vào
giống. Trọng lƣợng 1.000 hạt do 2 bộ phận cấu thành, trọng lƣợng vỏ trấu và trọng
lƣợng hạt gạo. Trọng lƣợng vỏ trấu thƣờng chiếm 20% và trọng lƣợng hạt gạo
chiếm 80% trọng lƣợng toàn hạt. Muốn có trọng lƣợng hạt gạo cao phải tác động
vào cả 2 yếu tố này (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997). Theo Nguyễn Ngọc Đệ
(2008) trọng lƣợng hạt đƣợc quyết định ngay từ thời kỳ phân hóa hoa đến khi lúa
chín, nhƣng quan trọng nhất là các thời kỳ giảm nhiễm tích cực và vào chắc rộ.
Trọng lƣợng hạt tùy thuộc vào cỡ hạt và độ mẩy của hạt lúa. Đối với lúa,
ngƣời ta thƣờng biểu thị trọng lƣợng hạt bằng trọng lƣợng của 1000 hạt với đơn vị
là gram (g). Ở phần lớn các giống lúa, trọng lƣợng 1000 hạt thƣờng biến thiên tập
trung trong khoảng 20-30g. Trọng lƣợng 1000 hạt của cây lúa trong ruộng là một
đặc tính ổn định (Yoshida, 1981), chủ yếu do đặc tính di truyền của giống quyết
định vì kích thƣớc hạt bị kiểm tra chặt chẽ bởi kích thƣớc vỏ trấu, điều kiện môi
trƣờng có ảnh hƣởng một phần vào thời kỳ giảm nhiễm (18 ngày trƣớc khi trổ) trên
cỡ hạt; cho đến khi vào chắc rộ (15-20 ngày sau khi trổ) trên độ mẩy của hạt
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Vũ Văn Hiển và Nguyễn Văn Hoan (1999) cho rằng, vào giai đoạn phân bào
giảm nhiễm nếu điều kiện ngoại cảnh và điều kiện dinh dƣỡng thuận lợi thì hạt
đƣợc hình thành với kích thƣớc lớn. Sau khi trổ bông nếu dinh dƣỡng kém, thiếu

ánh sáng ảnh hƣởng đến quang hợp, quá trình vận chuyển các chất về hạt bị cản trở
sẽ làm giảm khối lƣợng hạt. Để tăng khối lƣợng hạt, trƣớc lúc trổ bông cần bón thúc
nuôi đòng để làm tăng kích thƣớc vỏ trấu. Sau khi trổ bông cần tạo điều kiện cho
cây sinh trƣởng tốt để quang hợp đƣợc tiến hành mạnh mẽ, tích lũy đƣợc nhiều tinh
bột thì khối lƣợng hạt sẽ cao.
Nguyễn Đình Giao và ctv., (1997) ngoài ánh sáng, yếu tố nhiệt độ, nhất là biên
độ chệnh lệch ngày - đêm, có ảnh hƣởng rõ rệt đến quá trình quang hợp, tích lũy,
vận chuyển vật chất về hạt. Vì vậy, giữ cho lá lúa xanh lâu, quang hợp vận chuyển
tốt là yếu tố quan trọng tác động đến trọng lƣợng hạt.





10
1.4 NHU CẦU SINH THÁI CỦA CÂY LÚA
1.4.1 Điều kiện đất đai
Cây lúa đƣợc trồng nhiều trên các loại đất khác nhau: đất ngập nƣớc, đất trũng,
đất cao, đất đồi nƣơng, đất chua phèn, đất nhiễm mặn nhẹ,…trong điều kiện khí hậu
và thủy văn khác nhau nên phạm vi phân bố đất ruộng lúa rất rộng. Do đó, đất trồng
lúa có sự khác nhau rất lớn về mặt hóa học, địa lý, thổ nhƣỡng và sinh học giữa các
khu vực, các vùng.
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) đất trồng lúa cần giàu dinh dƣỡng, nhiều hữu
cơ, tơi xốp, thoáng khí, khả năng giữ nƣớc, giữ phân tốt, tầng canh tác dầy để bộ rễ
ăn sâu, bám chặt vào đất và huy động nhiều dinh dƣỡng nuôi cây. Loại đất thịt hay
đất thịt pha sét, ít chua hoặc trung tính (pH = 5,5-7,5) là thích hợp đối với cây lúa.
Tuy nhiên, muốn trồng lúa đạt năng suất cao, đất ruộng cần bằng phẳng và chủ
động đƣợc nguồn nƣớc tƣới. Trong thực tế, có những giống lúa có thể thích nghi
đƣợc trong những điều kiện khắc nghiệt nhƣ: phèn, mặn, khô hạn, ngập úng,…
1.4.2 Nhiệt độ

Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) nhiệt độ có tác dụng quyết định đến tốc độ sinh
trƣởng của cây lúa nhanh hay chậm, tốt hay xấu. Trong phạm vi giới hạn (20-
30
o
C), nhiệt độ càng tăng cây lúa phát triển càng mạnh. Nhiệt độ trên 40
o
C hoặc
dƣới 17
o
C cây lúa tăng trƣởng chậm lại. Dƣới 13
o
C cây lúa ngừng sinh trƣởng, nếu
kéo dài 1 tuần cây lúa sẽ chết. Phạm vi nhiệt độ mà cây lúa có thể chịu đựng đƣợc
và nhiệt độ tối hảo thay đổi tùy theo giống lúa, giai đoạn sinh trƣởng, thời gian bị
ảnh hƣởng là tình trạng sinh lý của cây lúa.
1.4.3 Ánh sáng
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2008) ánh sáng có ảnh hƣởng rất lớn đến sinh trƣởng,
phát triển và phát dục của cây lúa trên 2 phƣơng diện: cƣờng độ ánh sáng và độ dài
chiếu sáng trong ngày (quang kỳ). Thông thƣờng, cây lúa chỉ sử dụng đƣợc khoảng
65% năng lƣợng ánh sáng mặt trời chiếu tới ruộng lúa. Theo Nguyễn Thành Hối
(2011) cƣờng độ ánh sáng thích hợp cho cây lúa là 250-300 cal/cm
2
/ngày và quang
kỳ thích hợp là 7-8 giờ/ngày (mùa nắng) và 5-6 giờ/ngày (mùa mƣa). Thời kỳ trổ
thiếu ánh sáng thì quá trình thụ phấn, thụ tinh bị trở ngại làm tăng tỷ lệ hạt lép, giảm
tỷ lệ hạt chắc và hạt tăng không đều. Giai đoạn lúa chín nếu ruộng thiếu nƣớc, nhiệt
độ không khí cao, ánh sáng chiếu mạnh thì lúa chín mạnh hơn và tập trung, ngƣợc
lại thời gian chín sẽ kéo dài ra (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).



11
1.4.4 Lƣợng mƣa
Trong điều kiện thủy lợi chƣa hoàn chỉnh, lƣợng mƣa là một yếu tố khí hậu có
tính chất quyết định đến việc hình thành các vùng trồng lúa và các vụ lúa trong
năm. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, lƣợng mƣa hàng năm trung bình từ 1200- 2000
mm nhƣng phân phối không đồng đều, gây ngập úng giữa mùa mƣa ở nhiều nơi,
mùa khô lại không đủ nƣớc tƣới. Mƣa nhiều, trời âm u, gió nhiều, ít nắng cây lúa
phát triển không tốt. Mƣa còn tạo điều kiện ẩm độ thích hợp cho sâu bệnh phát triển
(Nguyễn Ngọc Đê, 2008).
1.4.5 Gió
Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, một năm
có hai mùa rõ rệt trùng với hai mùa: mƣa và mùa khô. Mùa khô (từ tháng 12-04
dƣơng lịch), hƣớng gió chính là gió đông bắc lạnh và khô. Mùa mƣa (từ tháng 5-11
dƣơng lịch) hƣớng gió chính là hƣớng Tây-Nam nóng ẩm, mƣa nhiều ảnh hƣởng
xấu đến sự sinh trƣởng của cây lúa. Gió lớn có thể làm cho cây lúa đổ ngã, thân lá
bị tổn thƣơng tạo điều kiện cho mầm bệnh xâm nhập, nhất là bệnh cháy bìa lá. Ở
giai đoạn làm đòng và trổ, gió lớn gây ảnh hƣởng đến quá trình hình thành và phát
triển của đòng lúa, sự trổ bông, thụ phấn, thụ tinh, tăng tỷ lệ hạt lép, hạt lửng làm
giảm năng suất lúa (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.5 PHƢƠNG PHÁP GIEO SẠ
1.5.1 Sạ lan
1.5.1.1 Sạ ướt
Đất đƣợc chuẩn bị trong điều kiện ƣớt, xong rút cạn nƣớc và gieo hạt giống
đã ngâm ủ cho nảy mầm trên đất đã đánh bùn nhuyễn. Đây là hình thức sạ phổ biến
ở những nơi có nƣớc đủ để làm đất và chủ động nƣớc. Sạ ƣớt có thể áp dụng cho tất
cả các vụ Hè Thu, Thu Đông hay Đông Xuân (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
Đây là phƣơng pháp sạ phổ biến, vì phần lớn diện tích lúa đã trồng bằng các
giống lúa cao sản ngắn ngày, cần cho lúa mọc tốt ngay từ giai đoạn mạ, để có cơ sở
ban đầu cho sinh trƣởng phát triển đạt năng suất cao và cây lúa không có thời gian
hồi phục nhƣ đối với lúa mùa dài ngày (Nguyễn Văn Luật, 2001).

1.5.1.2 Sạ khô
Kiểu sạ khô đã đƣợc thực hiện từ lâu ở vùng lúa nổi với các giống lúa địa
phƣơng. Tuy nhiên, sạ khô lúa cao sản có yêu cầu cao hơn. Sạ khô nhằm tăng thêm
một vụ lúa ngắn ngày tại những vùng đất bị nhiễm mặn hoặc canh tác nhờ nƣớc
trời, bằng cách tận dụng lƣợng nƣớc mƣa đầu mùa để cho lúa phát triển, tranh thủ

12
thời vụ, đảm bảo năng suất vụ sau. Đất đƣợc chuẩn bị trong điều kiện khô và hạt
giống khô, không ngâm ủ. Sạ khô chỉ đƣợc thực hiện trong vụ Hè Thu sớm
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2008). Theo Nguyễn Văn Luật (2001) gieo thẳng khô thƣờng
phải gieo với lƣợng hạt giống rất cao để phòng hờ và cạnh tranh với cỏ dại, độ 250-
300 kg/ha. Tốn công, tốn thuốc trừ cỏ và công dậm nên lúa chết mất khoản.
1.5.1.3 Sạ ngầm
Sạ hạt giống đã nảy mầm trong ruộng ngập nƣớc. Kỹ thuật này thƣờng đƣợc
áp dụng trong vụ Thu Đông hoặc Đông Xuân ở những chân ruộng trũng nƣớc ngập
sâu và không có điều kiện thoát nƣớc hoặc để tranh thủ mùa vụ xuống giống sớm
hơn, giảm đƣợc công bơm tƣới về sau. Sạ ngầm có điều kiện tiên quyết là nƣớc phải
trong nhanh sau khi sạ (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.5.1.4 Sạ chay
Là biện pháp sạ lúa không làm đất, sử dụng hạt giống không hoặc đã ngâm 24
giờ, sạ vào ruộng đã đƣợc phơi khô và đốt đồng, sau đó bơm nƣớc vào hoặc bơm
nƣớc vào ruộng rồi mới sạ. Nƣớc đƣợc giữ lại trong ruộng 1 ngày để ngâm đất và
cho hạt lúa hút nƣớc đầy đủ. Sau đó rút nƣớc ra chỉ giữ ẩm để hạt lúa mọc mầm nhƣ
đối với trƣờng hợp sạ ƣớt (Nguyễn Ngọc Đệ, 2008).
1.5.1.5 Sạ gởi
Hạt giống của cây lúa ngắn ngày đƣợc trộn lẫn với hạt lúa mùa dài ngày theo
một tỷ lệ nhất định tùy yếu tố đất đai và đặc tính giống. Sạ cùng một lúc hai loại
giống bằng phƣơng pháp sạ ƣớt hoặc khô tùy điều kiện từng nơi. Sau khi thu hoặc
vụ lúa ngắn ngày ngƣời ta tiếp tục chăm sóc cho trà lúa mùa phát triển tốt để thu
hoặch vào cuối mùa mƣa, khi nguồn nƣớc ngọt đã cạn và ruộng khô. Phƣơng pháp

này thƣờng đƣợc áp dụng ở những vùng lúa nƣớc trời, nhiễm mặn, phèn, nơi mà
thời gian có thể trồng đƣợc rất ngắn (5-6 tháng) trong mùa mƣa; hoặc ở những vùng
trũng, nƣớc ngập sâu không có thủy lợi tốt để có thể trồng hai vụ lúa thuận lợi. Đây
là những vùng đất khó khăn, trƣớc đây chỉ trồng đƣợc một vụ lúa mùa. Tăng thêm
một vụ lúa ngắn ngày tại đây là một vấn đề không đơn giản (Nguyễn Ngọc Đệ,
2008).
1.5.2 Sạ hàng
Sạ hàng là phƣơng pháp sạ cải tiến từ phƣơng pháp sạ lan ƣớt, có nhiều ƣu điểm
nhƣ: tiết kiệm đƣợc vật tƣ chủ yếu là giống và phân bón, tạo điều kiện thuận lợi để
thâm canh dễ dàng chăm sóc và quản lý dịch hại, giảm đƣợc thiệt hại do sâu bệnh
và tăng năng suất so với phƣơng pháp sạ lan. Về mặt gieo sạ thì sạ theo hàng có ƣu

×