Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đặc điểm kiến trúc Chăm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.78 MB, 16 trang )

Tháp Chàm, hay còn gọi là tháp Champa, là một dạng công trình thuộc thể
loại kiến trúc đền tháp Champa, thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc
Chàm (còn gọi là dân tộc Chăm), sinh sống ở miền Nam Trung Bộ Việt Nam ngày
nay. Vị trí phân bố các đền tháp là những nơi từng là nơi ở của người Champa,
Theo tiếng Chăm, các đền tháp Champa này được gọi là Kalan, nghĩa là "Lăng".
Các Lăng này được các đời Vua Chăm xây dựng để thờ cúng các vị Thần. Các vị
Thần được thờ phụng có thể là các vị thần Ấn Độ giáo tiêu biểu như Siva (thần
hủy diệt), Ganesha (phúc thần đầu người mình voi) hoặc đấy còn có thể là các vị
Phật. Điều này tùy thuộc vào lòng tin và kính mộ của mỗi vì vua ở các triều đại
khác nhau. Ở thánh địa Mỹ Sơn hiện nay phần lớn là công trình kiến trúc tôn giáo
thờ các vị thần thuộc Ấn Độ giáo và Bà La Môn giáo. Nhưng ở thánh địa Đồng
Dương (thuộc địa phận huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) đây là kinh đô Phật
giáo lớn nhất của Champa. Từ thế kỷ thứ IV, người Chăm pa đã xây dựng đền thờ
tại Mỹ Sơn nhưng không còn tới ngày nay. Các di tích đền tháp còn lại được phát
hiện có niên đại sớm nhất cũng là vào nửa sau của thế kỷ VII. Lịch sử xây dựng
các đền tháp Champa kéo dài từ cuối thế kỷ VII đến đầu thế kỷ XVII. Trong
khoảng thời gian này,những người Champa xưa đã để lại một số lượng lớn các
công trình kiến trúc đền tháp, thành luỹ, các tác phẩm điêu khắc. Hiện tại có trên
hai mươi cụm di tích kiến trúc đền tháp và rất nhiều phế tích kiến trúc.
( Quần thể tháp Chăm ở thánh địa Mỹ Sơn )
ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC CỦA CÁC NGÔI THÁP CHĂM :
1. Đặc trưng.
- Tháp Chàm là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm
lấy từ đất địa phương, phía trên mở rộng và thon vút hình bông hoa. Gạch
có màu đỏ hồng, đỏ sẫm, được nung trước với độ xốp cao, được xây không
có mạch vữa và có thể có điêu khắc trực tiếp trên gạch.
- Có chiều cao lớn hơn vài ba lần so với chiều ngang thân tháp. Tỷ lệ các
phần của tháp có tính nhân bản, nghĩa là nó được xuất phát từ con người.
Tháp có phần ngọn được thu nhỏ dần hoặc giật cấp.
- Các trang trí kiến trúc, điêu khắc có tính nhịp điệu, tính lặp lại và đồng
dạng, đăng đối.


- Mặt bằng tháp đa số là hình vuông có không gian bên trong chật hẹp
thường có cửa duy nhất mở về hướng Đông (hướng Mặt Trời mọc), các
phía còn lại là cửa giả, được bố trí đăng đối với cửa chính. Trần được cấu
tạo vòm cuốn
- Trong tháp theo nguyên mẫu có thờ thần Siva, biểu trưng là bộ ngẫu tượng
Yoni và Linga được làm bằng sa thạch.
- Tháp thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi cao, không gần chỗ
người dân sinh sống.
2. Các công đoạn xây dựng tháp:
- Chuẩn bị chất kết dính.
- Đúc gạch theo khuôn đã định sẵn. Nung gạch lần 1.
- Xếp gạch theo mô hình tháp bằng chất kết dính.
- Nung tháp.
- Gọt dũa, trang trí và điêu khắc và hoàn chỉnh toàn bộ khối tháp.
3. Vật liệu xây dựng Tháp.
Ngày 1 tháng 10 năm 2006, Trung tâm Quản lý di tích-di sản tỉnh Quảng
Nam chính thức công bố thông tin: các nhà khoa học của Đại học Milan, Ý khi
đang làm việc trùng tu nhóm tháp G-thuộc Thánh địa Mỹ Sơn đã nhận biết được
loại vật liệu kết dính để xây tháp Champa cách đây vài trăm năm. Đó là loại keo
được tinh chế từ một loài thực vật vốn có rất nhiều trong khu vực quanh di sản
Mỹ Sơn, mà người dân địa phương thường gọi là cây dầu rái. Ngoài ra, họ cũng
đã phát hiện ra một loại hợp chất có nguồn gốc từ thực vật bản địa nói trên có
trong gạch sử dụng để xây tháp. Trước đó, một người thợ thủ công tên là Lê Văn
Chỉnh (thuộc tỉnh Quảng Nam) cũng đã bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu phương
pháp xây dựng tháp Chăm đã phát hiện được hợp chất dầu rái trong gạch để xây
tháp và chất kết dính, nhưng chưa được ai quan tâm thừa nhận.
4. Đặc điểm kiến trúc :
Các Tháp Chăm được xây dựng cùng với tiến trình hình thành, phát triển và
suy tàn của các Vương triều Vua Chăm, nên cũng là một phần phản ánh tiến trình
lịch sử đó của Vương quốc Chămpa. Tháp Chăm được xây dựng nhằm thể hiện

lòng ngưỡng mộ, sự sùng bái tôn giáo của các Vua Chăm và người dân Chăm với
các thần có nguồn gốc từ Ấn Độ. Nghệ Thuật Kiến trúc Tháp Chăm là sự đan xen
của nghệ Thuật Phật giáo Ấn Độ, kiến trúc Khmer và sự giao thoa Văn hóa với
Đại Việt. Song tất cả đều được hòa quyện vào trong Tháp Chăm, mà khi nói tới
người ta biết ngay đó là của cộng đồng người Chăm, đã bằng chính trí tuệ và tài
hoa của mình tạo nên những ngọn tháp độc nhất vô nhị này. Tháp Chăm được xây
dựng vào từng giai đoạn lịch sử khác nhau, gắn liền với các triều Vua Chăm khác
nhau, cũng từ đó có những kiểu kiến trúc mang nét riêng cho từng khu vực, từng
giai đoạn, thể hiện rõ sự học hỏi ,giao lưu, sáng tạo trong mỗi phong cách.
• Phong cách Tháp thuộc Giai đoạn nghệ thuật miền bắc: Thế kỷ VII – XI.
Các ngôi đền tháp này thuộc thời gian này cho đến năm 980 đều thuộc cùng
một giai đoạn là giai đoạn nghệ thuật miền bắc. Các tháp thuộc giai đoạn này đều
đơn giản, làm bằng gạch nung màu đỏ, có chân đế là một khối hình chữ nhật, các
mặt tháp đều có bố trí mi cửa ẩn, trừ hướng có cửa chính, trên đó có nhiều hình
điều khắc của các vị thần. Mi cửa được đỡ bằng bộ khung các trụ bổ tường cao và
hẹp cùng các đầu cột xòe ngang. Cũng chính các trụ bổ tường này đỡ vòm cửa.
Trên vòm và trên các trụ bổ tường có chạm khắc các phù điêu theo thần thoại Ấn
độ, với các chạm khắc tập trung chính ở đầu cột. Mái tháp thường gồm ba tầng,
mỗi tầng đều có bao lơn nhỏ ở phía trên mi cửa. Bên trong tháp đều có bệ thờ với
hình ảnh triều đình theo kiểu Ấn độ. Theo các tác giả Philippe Stern (Nghệ thuật
Champa, 1942) and Jean Boisselier (Điêu khắc Champa, 1963) được nhà sử học
Jean-François Hubert tổng hợp thì có thể phân chia giai đoạn này thành các phong
cách sau:
- Phong cách Mỹ Sơn E1: Thế kỷ VII – VIII
Phong cách được xác định sớm nhất là Mỹ Sơn E1. Hay còn có tên là phong
cách Cổ, có niên đại ở thế kỷ 7 - thế kỷ 8, phong cách thời kỳ này phản ánh ảnh
hưởng từ bên ngoài của văn hóa tiền Angkor và cả nghệ thuật Dvaravati và miền
Nam Ấn độ.
Tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn E 1 là ở bệ thờ bên trong tháp làm bằng đá
cát kết có hình dạng linga tượng trưng cho dương vật của người đàn ông bến dưới

là bệ tương trương cho âm vật phụ nữ (linga,được dùng cho việc thờ cúng cầu cho
su sinh sôi nảy nở của người Chăm xưa), xung quanh có chạm các tu sĩ đang tu
luyện trong rừng núi hay hang động, với các hình dạng như đang chơi các loại
nhạc cụ khác nhau, đang giáo hóa cho các loài vật và cả đang thư giãn. Một công
trình tiêu biểu nữa là phù điêu ở trên lối vào chính chạm khắc buổi bình minh thời
đại theo thần thoại Ấn độ
Các tháp theo phong cách cổ: tháp Mỹ Sơn E1 (đã đổ nát), tháp Mắm (không
còn), tháp Phú Hài, tháp Damrei (di tích Chăm ở Campuchia)
Nhóm hình trên cácTháp tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn E1
(Tháp Chăm Pôshanư – Tháp Phú Hải )
Tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn E 1 là ở bệ thờ bên trong tháp làm bằng đá
cát kết có hình dạng linga tượng trưng cho ngọn núi là nhà của thần Si-va, xung
quanh có chạm các tu sĩ đang tu luyện trong rừng núi hay hang động, với các hình
dạng như đang chơi các loại nhạc cụ khác nhau, đang giáo hóa cho các loài vật và
cả đang thư giãn. Một công trình tiêu biểu nữa là phù điêu ở trên lối vào chính
chạm khắc buổi bình minh thời đại theo thần thoại Ấn độ. Thần Vishnu đang nằm
ngủ ở dưới đáy biển, trên giường là rắn thần Sesha. Một bông hoa sen từ từ mọc
lên từ rốn của thần. Thần Brahma từ từ đứng lên trong bông hoa Sen đó để tạo ra
cả vũ trụ này .
- Phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương: Thế kỷ IX – thế kỷ X.
Những ngôi đền tháp theo hai phong cách này có những hàng cột ốp và những
cửa vòm khoẻ khoắn. Những băng trang trí cho công trình có rất nhiều họa tiết.
Yếu tố tiêu biểu nhất cho phong cách Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ IX) là các vòm cửa
nhiều mũi tròn trùm lên các cửa thật, cửa giả và các khám. Các cột ở khung cửa
hình bát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường các hình lá uốn cong.
Khoảng giữa hai cột trụ ốp có trang trí hình thực vật. Ở bên dưới các cột trụ ốp là
các hình kiến trúc thu nhỏ trong đó có hình người đắp nổi. Tất cả tạo cho các tháp
Hoà Lai một vẻ đẹp trang trọng và tươi mát.
Có niên đại nửa đầu thế kỷ 9, với các vòm cửa nhiều mũi tròn với các trụ bổ
tường hình bát giác làm bằng đá cát kết với các trang trí hình lá uốn cong

Các tháp theo phong cách Hoà Lai: tháp Hòa Lai, tháp Po Dam, tháp Mỹ Sơn F3,
tháp Mỹ Sơn A2, tháp Mỹ Sơn C7

( Tháp Hòa Lai )
- Còn ở phong cách Đồng Dương (nửa sau thế kỷ IX) :
Các trang trí cây lá được biến thành những hình hoa hướng ra ngoài. Cái nhận
thức cổ điển của nét lượn và tỷ lệ ở phong cách Hoà Lai đã bị biến mất và các
tháp Đồng Dương trở nên mạnh mẽ hơn. Các vòm cửa nhiều mũi tròn với các trụ
bổ tường hình bát giác làm bằng đá cát kết với các trang trí hình lá uốn
cong.Nhóm Tượng trên Tháp tiêu biểu cho phong cách Đồng Dương. Đây cũng là
điểm khác biệt giữa phong cách Đồng Dương và Mỹ Sơn. Đỉnh cao của phong
cách là kiến trúc một tu viện Phật giáo vào cuối thế kỷ IX. Bức tường tu viện dài
đến một cây số và có rất nhiều tượng Phật. Rất tiếc là di tích đã bị phá hủy nhưng
nhiều học giả cho rằng khi còn nguyên vẹn, di tích này cũng giống như các tu viện
Phật giáo ở miền Bắc Ấn Độ. Một số hiện vật thuộc di tích còn được giữ lại ở các
bảo tàng cho thấy điêu khắc thời kỳ này có tính uyển chuyển, phong phú và thể
hiện những hình khắc gần gũi với chính nguời Chăm hơn là những ảnh tượng của
các vị thần. Các bức tượng có mũi và môi dày và không hề cười. Các đề tài là Đức
Phật, các vị sư, các hộ pháp dvarapalas, bồ tátAvalokiteshvara (Quán Thế Âm) và
nữ thần tình thương Tara, người được xem là vợ của Avalokiteshvara.
Các tháp theo phong cách Đồng Dương: tháp Đồng Dương, tháp Mỹ Sơn B2, tháp
Mỹ Sơn B4, tháp Mỹ Sơn A10, tháp Mỹ Sơn A11, tháp Mỹ Sơn A12, tháp Mỹ
Sơn A13

( Tháp Đồng Dương )
- Phong cách Mỹ Sơn A1: Thế kỷ X - thế kỷ XI.
Có niên đại vào thế kỷ 10 - thế kỷ 11, phong cách này các trụ bổ tường đứng
thành đôi một với bức tường hình người ở giữa như trong tháp Mỹ Sơn A1. Các
vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc. Thân tháp cao vút với
các tầng dần thu nhỏ lại. Đây là thời kỳ chịu ảnh hưởng của Java và cũng là thời

hoàng kim của Chăm Pa. Phong cách Mỹ Sơn A 1 có tính động, dường như đang
nhảy múa, với vẻ đẹp duyên dáng. Các vũ công là các họa tiết được ưa chuộng
của các nhà điêu khắc Chăm thời kỳ này. Bên cạnh đó các linh vật cả trong cuộc
sống thực lẫn từ thần thoại cũng là một chủ đề được ưa thích như voi, hổ, garuda
Ở phong cách này các trụ bổ tường đứng thành đôi một với bức tường hình
người ở giữa như trong tháp Mỹ Sơn A1. Các vòm cửa có hình dáng phức tạp
nhưng không chạm khắc. Thân tháp cao vút với các tầng dần thu nhỏ lại. Đây là
thời kỳ chịu ảnh hưởng của Java và cũng là thời hoàng kim của Chăm Pa. Phong
cách này đặt tên theo tòa tháp có cùng ký hiệu nhưng do hậu quả của chiến tranh
đến nay không còn. Các tháp thuộc nhóm B, C và D trong khu di tích thánh địa
Mỹ Sơn cũng thuộc phong cách này. Đến thời kỳ này, đối ngược với vẻ khỏe
khoắn và có phần dữ tợn của phong cách Đồng Dương, phong cách Mỹ Sơn A 1
có tính động, dường như đang nhảy múa, với vẻ đẹp duyên dáng. Các vũ công là
các họa tiết được ưa chuộng của các nhà điêu khắc Chăm thời kỳ này. Bên cạnh
đó các linh vật cả trong cuộc sống thực lẫn từ thần thoại cũng là một chủ đề được
ưa thích như Voi, Hổ, Garuda:
+ Thần Indra: Thường được thể hiện ở tư thế ngồi trên bệ với tay cầm lưỡi tầm
sét, chân xếp bằng và một con voi là vật cưỡi của thần đang phủ phục.
+ Bò Nan-din: Là vật cưỡi của thần Si-va thường thẻ hiện dưới tư thế nằm và
thuộc dạng tượng tròn.
+ Thần Indra: Thường được thể hiện ở tư thế ngồi trên bệ với tay cầm lưỡi tầm
sét, chân xếp bằng và một con voi là vật cưỡi của thần đang phủ phục.
+ Bò Nan-din: Là vật cưỡi của thần Si-va thường thẻ hiện dưới tư thế nằm và
thuộc dạng tượng tròn.
+ Ga-ru-da: Là linh vật mà thần Vis-nu thường cưỡi và là kẻ thù của rắn thần
Naga. Các phù điêu do vậy thường chạm hình chim thần Ga-ru-da đang nuốt hoặc
dẫm lên hoặc đạp rắn thần Naga.
+ Sư tử: Thường là sư tử đực ở tư thế ngồi với hai chân trước đứng.
+ Thần Siva: Thường đươc thờ dưới hình tượng Linga, hay với kiểu tóc búi
(Jatanlinga) hoặc trang trí mặt người (Kosa).

Cũng thuộc phong cách Mỹ Sơn A1 này còn có cả các nhóm tháp ở Khương Mỹ
và các di vật ở Trà Kiệu. Các công trình Khương Mỹ nằm trong giai đoạn chuyển
tiếp giữa Đồng Dương và Mỹ Sơn A1. Đồng thời chịu ảnh hưởng của Khmer và
Java . Nhiều di vật điêu khắc của Trà Kiệu vẫn được lưu giữ ở các viện bảo tàng
đặc biệt là bệ thờ Trà Kiệu. Bệ thờ làm gồm bệ đá với phù điêu và một khối
ligam. Các phù điêu chạm các giai đoạn khác nhau của cuộc đời Krisna.
Nhóm Tượng trên Tháp tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn A1, Khương Mỹ - Trà
Kiệu.
( Tháp Khương Mỹ - Trà Kiệu – Quảng Nam )
( Hình vẽ tháp Mỹ Sơn A1 )
Ở mỗi góc của bệ thờ có hình sư tử nâng đỡ cả khối kiến trúc nặng bên trên. Cũng
thuộc phong cách Trà Kiệu còn có bệ đá chạm vũ công có hình vuông mà mỗi mặt
đều có chạm hình vũ nữ apsara đang nhảy múa và các nhạc công gandharva đang
chơi nhạc. Bệ đặt trên nền có chạm hình đầu sư tử và hình con makara.
• Phong cách Tháp thuộc Giai đoạn nghệ thuật Miền Nam:Từ sau thế kỷ XI
– đến thế kỷ XV.
Giai đoạn này còn được gọi là phong cách Bình Định hay Tháp Mẫm. Khởi
đầu bằng các tháp ở Chánh Lộ có phong cách chuyển tiếp từ Mỹ sơn A1 sang
Tháp Mẫm. Một số hiện vật ở Tháp Mẫm vẫn còn dáng dấp cân đối, nhẹ nhàng
nhưng phần lớn các điêu khắc đã trở nên thô với hình khối tròn mang tính bản địa
dần dần chiếm lĩnh khắp các hình tượng Ấn giáo ở miền Nam. Các thiết kế kiến
trúc với các đường nét sắc sảo nhất là các đường tròn uốn lượn dần dần chuyển
sang phong cách mạnh mẽ với các hình khối ít chạm trổ cho thấy ấn tượng mạnh
mẽ nhưng dường như không còn nét tinh tế nếu so sánh với phong cách Mỹ Sơn
A1.
Có niên đại từ đầu thế kỷ 11 đến giữa thế kỷ 12, gồm có các tháp: tháp Bình Lâm,
tháp Mỹ Sơn E1, tháp Chiên Đàn, tháp Po Nagar, tháp Bánh Ít (tháp Bạc)
( Tháp Bình Lâm – Bình Định )
( Tháp Ponagar – Nha Trang )
Ở đây các vòm cửa thu lại và vút lên thành hình mũi giáo. Các tháp nhỏ trên các

tầng bên trên cuộn tròn lại thành các khối đậm nhưng khỏe. Các trụ bổ tường thu
hẳn vào trong tường thành một khối phẳng. Bề mặt tháp là các bức tường với
những đường gân sống. Chỉ có các hình linh vật là có thể so sánh được với phong
cách trước. Chạm khắc trong phong cách này đi vào chi tiết trang trí hơn là nhìn
vào tổng thể vẻ đẹp và tính động của hình tượng. Một trong các họa tiết của phong
cách Tháp Mẫm là chạm trên đá một hàng các bộ ngực phụ nữ xung quanh chân
đế của một bệ thờ. Họa tiết này đã thấy ở Trà Kiệu nhưng trở thành điển hình cho
phong cách Tháp Mẫm và là một họa tiết độc đáo trong nền nghệ thuật Đông Nam
Á. Nhóm Tượng trên Tháp tiêu biểu cho phong cách Bình Định hay Tháp Mắm

( Tháp Dương Long – Bình Định )
( Tháp Hưng Thạnh_ Bình Định )
- ĐẶC TRƯNG KIẾN TRÚC CHÍNH TIỂU BIỂU :
Thực ra, chúng luôn có một cụm, một tổng thể hoàn chỉnh phản ánh vũ trụ
quan Ấn Độ giáo. Quan niệm cổ xưa đó cho rằng thế giới có hình vuông, xung
quanh là núi và đại dương bao bọc, chính giữa là một trục xuyên đến mặt trời;
chúng được thể hiện trong kiến trúc Ấn Độ giáo với khuôn viên vuông vắn, tường
bao quanh xây cao, vuông góc với nhau tượng trưng cho núi. Các công trình trong
tổng thể một nhóm đền tháp Chăm Pa thường được bố cục theo một đường trục
chạy giữa với hướng chính của các công trình thường mở ở phía Đông - hướng
của thần thánh, của sự sinh sôi, nảy nở. Về đại thể, có thể chia bố cục các nhóm
đền tháp Chăm Pa theo hai dạng.
( Tháp chính nhìn từ tháp cổng )
Loại bố cục bộ ba song hành (kiến trúc có 3 Kalan)
Tiêu biểu cho loại này là những quần thể tháp Chiên Đàn, Khương Mỹ (Quảng
Nam), Dương Long, Hưng Thạnh (Bình Định), Hoà Lai (Ninh Thuận…). Quy
hoạch quần thể dạng này có phần kiến trúc chủ thể gồm ba ngôi đền – tháp đứng
song hàng theo trục Bắc – Nam, cùng quay mặt về hướng Đông. Tùy vị trí của
mỗi tháp mà chúng được gọi là những Kalan Nam, Kalan giữa hay Kalan Bắc,
tương ứng với ba vị thần được thờ là: Brahma, Siva và Visnu. Đặc điểm đó chứng

tỏ, trong buổi đầu tiếp xúc với Ấn Độ giáo, Chăm Pa tôn sùng cả ba vị thần. Tuy
nhiên, trong đời sống người Chăm khi đó cũng đã manh nha xuất hiện việc lựa
chọn vị thần chủ Siva cho mình. Vì thế, tháp thờ Siva (Kalan giữa) thường có kích
thước lớn hơn hai tháp kia. Ngoài kiến trúc chủ thể, vẫn có những kiến trúc phụ
xung quanh như một tổng thể hoàn chỉnh đã nói ở trên nhưng hầu hết các kiến trúc
phụ đó không được chú trọng nên độ bền không cao, đa phần bị huỷ hoại.
Loại bố cục có một tháp trung tâm (1 Kalan)
Tiêu biểu cho loại này là một loạt nhóm đền tháp trong khu thánh địa Mỹ Sơn
(Quảng Nam), Poklong Garai (Ninh Thuận), Po Nagar (Khánh Hoà)… Tháp trung
tâm là nơi thờ thần chủ Siva, cho thấy lúc này người Chăm đã lựa chọn song quốc
giáo cho riêng mình - Siva giáo. Nếu tháp bà Po Nagar thờ bà mẹ xứ sở, Quốc
mẫu của người Chăm dưới sự ảnh hưởng của Siva giáo cho thấy sự dung hội giữa
tín ngưỡng bản địa với Ấn Độ giáo, thì ngược lại, tháp Yang Prong (Easup - Đắk
Lắk) lại thờ thần Siva dưới dạng Mukhalinga, đã chứng minh mối quan hệ gần gũi
giữa tộc người Chăm với những bộ lạc sống trên cao nguyên phía Tây…
Đặc điểm :
Trừ một vài nhóm đền tháp, như tháp Bằng An (Điện Bàn - Quảng Nam),
tháp Hưng Thạnh (thành phố Quy Nhơn - Bình Định) có đặc điểm kiến trúc mang
phong cách Bắc Ấn, còn lại phần lớn các đền tháp Chăm hiện biết ở nước ta đều
mang phong cách Nam Ấn. Trong loại bố cục này, kiến trúc chủ thể (Kalan) luôn
được đặt ở trung tâm của bố cục với cửa mở hướng Đông. Phần kiến trúc phụ gồm
các tháp phụ thờ thần thứ yếu và các nhà phụ vây xung quanh: tháp Hoả (Kosa
grha), tháp Cổng (Gopura), Nhà khách thập phương (Mandapa), tháp Bia (Po
Sha), tường bao… Mỗi một hạng mục công trình này đều có đặc điểm kiến trúc
hay chức năng sử dụng riêng biệt Tuy nhiên, hiện nay, đa phần các nhóm đền
tháp này đã bị xuống cấp, sụp đổ, nhiều công trình phụ trợ chỉ còn lại phần nền
móng.
• Kalan:
Nằm ở trung tâm của một nhóm đền tháp, có mặt bằng cơ bản hình vuông, bốn
hướng có 4 cửa, nhưng chỉ có một cửa ra vào mở ra theo hướng chính, các hướng

còn lại là cửa giả, xây nhô ra ngoài mặt tường. Một Kalan thường có 3 phần cơ
bản hàm chứa ý nghĩa triết học rất sâu sắc: Phần đế tháp (Jagati) tượng trưng cho
thế giới trần tục. Phần thân (Bhuwarloke) tượng trưng cho thế giới tâm linh, nơi
con người đã tự thanh tịnh và gột rửa mọi bụi trần để đến gần tổ tiên hơn. Mái
tháp (Swarloka) tượng trưng cho thế giới thần linh, thường có 3 tầng và một chóp
bịt kín phần đỉnh tháp. Mỗi tầng đều mang đầy đủ đặc điểm kiến trúc của một
thân tháp thờ với cửa giả, trụ áp tường, diềm mái… nhưng được giản lược và thu
dần vào khi lên cao.
Trong lòng Kalan, chính giữa đặt một đài thờ đá, xung quanh là một lối đi hẹp có
vẻ mang dáng dấp một đường chạy đàn trong kiến trúc Phật giáo Đài thờ có khi
là hình tượng của một vị thần nhưng phổ biến là bộ Linga – Yoni; gồm 3 phần:
phần đế, phần bệ Yoni (có vòi luôn quay về hướng Bắc bởi theo triết lý Ấn Độ,
hướng Bắc tượng trưng cho nước và cũng là hướng của thần Tài Lộc - Kuvera);
phần trụ Linga (một biểu tượng chính của thần Siva). Một số đài thờ (tiêu biểu
như đài thờ Mỹ Sơn E1) đã được chạm khắc rất sinh động, thể hiện sự tài hoa
khéo léo của các nghệ nhân xưa; trên thân đài thờ là hoạt cảnh thể hiện đời sống
của các tu sĩ Bà La Môn; họ đang trầm mặc dưới gốc cây, cầu nguyện, chơi nhạc,
luyện thuốc, giảng đạo. Trên chiếc Linga đôi khi người ta có thể chạm mặt thần
Siva hay vị vua mà họ tôn thờ (Mukkalinga), tiêu biểu như Linga ở tháp Poklong
Garai (Ninh Thuận)
• Tháp cổng Gopura:
Công trình này luôn nằm trên thân tường bao, phía trước Kalan và cũng có
phần không gian nội thất gồm một phòng vuông nhưng hoàn toàn để trống, phần
tiền sảnh ở hai nhánh Đông - Tây trở thành một hành lang hẹp và rất ngắn.
Gopura cũng có vòm mái dật cấp nhỏ dần. Chiều cao chân tháp thay đổi tuỳ theo
phần chân đó nằm bên trong hay bên ngoài tường bao chung của cả nhóm. Phần
chân nằm phía bên ngoài tường bao thường lớn hơn phía bên trong, cũng có nghĩa
mặt sân phía trong sẽ cao hơn mặt sân phía ngoài và tín đồ đến hành hương cúng
thần sẽ được dẫn dắt theo chiều hướng lên cao dần. Thân và mái của Gopura có
mô hình và cấu trúc như tháp thờ Kalan: cũng cửa giả, vòm cuốn, trụ ốp, cũng các

tầng, diềm trang trí góc, các khung cửa và trụ đá… nhưng quy mô và kích thước
thì nhỏ hơn.
• Tháp hoả - Kosagrha:
Kosagrha là tên gọi của một kiến trúc đặc biệt trong tổng thể một nhóm đền -
tháp Chăm. Công trình này cũng được Việt hoá bằng nhiều tên gọi khác nhau:
ngôi nhà Nam, ngôi nhà mái hình thuyền, tháp kho hay tháp hoả, tháp thờ thần
hỏa (Ahni) Kosagrha luôn nằm trong vòng tường bao, tại vị trí góc Đông Nam
tường bao (cho nên với những nhóm đền tháp truyền thống, cửa luôn mở hướng
Đông thì Kosagrha sẽ nằm trước Kalan còn với một số nhóm đền tháp đặc biệt thì
công trình này nằm phía sau Kalan). Kiến trúc này có mặt bằng hình chữ nhật, nội
thất rộng rãi, có tường ngăn chia thành 2 phòng. Cửa ra vào luôn được mở ra
hướng Bắc (hướng thần Tài Lộc - Kuvera) nhưng thường lệch về phía Tây chứ
không nằm ở chính giữa mặt tường. Mặt tường Đông - Tây trổ hai cửa sổ có chấn
song con tiện bằng đá; mặt tường Nam được xây kín, trang trí bằng những trụ áp
tường. Kosaghra chỉ có hai tầng: với mái cong hình thuyền úp vươn cao khiến nó
dễ gây chú ý trong tổng thể cả nhóm. Phần chân đế được trang trí bằng các lá nhĩ
nhỏ ở vị trí chuyển tiếp của các chân cột.
Trên các cửa sổ của Kosaghra cũng có vòm cuốn, bên trong được chạm khắc một
đề tài nào đó. Tiêu biểu nhất là bức chạm cảnh hai con voi đấu vòi vào nhau trên
vòm cửa bức tường Đông - Tây của Kosaghra Mỹ Sơn B5. Cặp voi này liên quan
đến nữ thần Gajalaskmi. Theo tiếng Phạn thì Gaja là con voi còn Laskmi là vợ của
Visnu và phải chăng trong giai đoạn này các đền tháp Chăm Pa cũng có liên quan
tới việc thờ thần Visnu trong bức tranh hỗn dung tôn giáo của quốc gia này…
(Họa tiết hoa văn trên mái tháp cổng)
• Nhà khách thập phương - Mandapa:
Nằm trên đường đồng trục với Kalan và Gopura, Mandapa là nơi mọi người
chuẩn bị những nghi thức tế tự trước khi vào hành lễ tại đền thờ chính. Mandapa
là một kiến trúc có mặt bằng hình chữ nhật, với cạnh dài thường gấp nhiều lần
cạnh ngắn, nội thất rộng, thoáng, hai cửa ra vào được mở ở hai hướng Đông - Tây.
Trên mặt tường Bắc và Nam mở nhiều cửa sổ. Tất cả các Mandapa hiện còn đều

không giữ được mái ngói, nhưng trên tường vẫn còn thấy được dấu vết của điểm
đặt cấu kiện gỗ lợp mái ngói.
Phần lớn các Mandapa nằm ngoài tường bao nhưng nhiều khi do mặt bằng hạn
chế, người ta đã xây ở giữa Kalan và Gopura (H2 - Mỹ Sơn, ở Poklong Garai.)
Mandapa Po Nagar là một dạng khá đặc biệt với những hàng trụ gạch đỡ mái,
không có tường bao và được xây ở một mặt bằng khác thấp hơn mặt bằng chung
của cả nhóm.
Ngoài ra nhiều nhóm đền tháp còn có một số kiến trúc phụ trợ khác, như tháp Bia
(Posah), tháp B6 (trong nhóm B - khu di tích Mỹ Sơn) chứa một bể cạn đựng
nước Thánh tẩy; các tháp từ A2 đến A7 (trong nhóm A - khu di tích Mỹ Sơn)
cùng với cửa chính A1 thờ các vị thần phương hướng.
Như vậy có thể thấy rằng trong quy hoạch tổng thể, sự đan cài giữa tư
tưởng Ấn Độ giáo và tín ngưỡng bản địa lại cùng nhau tìm đến một giải pháp
dung hoà ở hầu hết mọi khía cạnh: quy mô, bố cục, phương hướng, góc nhìn…
Kiến trúc đền tháp Chăm Pa là nơi ghi nhận và thể hiện rõ nét những triết lý sâu
đậm của nghệ thuật Ấn Độ giáo sau khi đã thẩm thấu qua bàn tay tài hoa của các
nghệ nhân Chăm xưa.
Bên cạnh đặc điểm về kiến trúc, các thánh thần và điển tích Ấn Độ giáo đã
trở thành nguồn đề tài phong phú cho các mảng chạm khắc, trang trí trên kiến trúc
và đồ thờ phụng trong đền tháp Chăm Pa. Tuy nhiên, với lòng sùng kính, với tâm
hồn và bàn tay tài hoa, những hình tượng gắn liền với kiến trúc, tôn giáo Ấn Độ
đã được bản địa hoá để có được bố cục, đường nét, quy mô biểu cảm rất riêng
biệt; đơn giản.
5. Giá trị của kiến trúc đền tháp Champa:
Các đền tháp Champa phản ánh đầy đủ và chân thực hoàn cảnh văn hoá
Champa từ giai đoạn đầu tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cho đến
giai đoạn thích nghi, tiếp biến và trỗi dậy mạnh mẽ tính bản địa và sự giao lưu
thường xuyên về mặt văn hóa bên cạnh các mặt kinh tế - chính trị với các dân tộc
liền kề.
Giá trị nghệ thuật của các hình điêu khắc, ngoài việc giúp cho các đền tháp đẹp

hơn còn có ý nghĩa văn hóa đặc biệt, giúp cho việc nghiên cứu sâu hơn về niên
đại, phong cách và chức năng của các đền tháp.ng vẫn sinh động và giàu ý nghĩa.

×