Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bài tập lớn môn luật hình sự 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.35 KB, 11 trang )

ĐỀ BÀI: 05
K và H đã bàn bạc trước về việc chiếm đoạt tài sản của gia đình ông N
(giám đốc một doanh nghiệp). Chiều 07/02/2010, lợi dụng gia đình ông N đi sắm
tết, K và H mang theo một túi quà đến gõ cửa nhà ông N và nói với bà P (là người
giúp việc nhà ông N) là đến chúc tết gia đình. Không nghi ngờ gì, bà P đã mở cửa
cho K và H vào nhà. Sau khi vào nhà, chúng vờ xin nước uống rồi xông vào đe doạ
và định trói bà P. Bà P sợ hãi van xin K, H và nói: “Các anh lấy gì thì cứ lấy, tôi
chỉ là người giúp việc thôi”. K và H phá két sắt và lấy đi của nhà ông N 70 triệu
đồng, 47 chỉ vàng cùng một số ngoại tệ .Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 460
triệu đồng. Sau khi K, H lấy được tài sản và bỏ đi thì bà P mới chạy ra đường hô
hoán.Một tuần sau K và H bị công an bắt giữ.
Có 3 ý kiến khác nhau về tội danh của K và H:
a. K và H phạm tội lừa đảo chiến đoạt tài sản vì chúng có hành vi gian dối
đánh lừa người giúp việc.
b. K và H phạm tội trộn cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng lúc gia đình
ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà P chỉ là người giúp
việc, không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó.
c. K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công khai lấy tài
sản trước mắt người giúp việc.
Hỏi:
1. Hành vi của K và H cấu thành tội gì? Tại sao? (3 điểm)
2. Hãy phản bác ý kiến mà anh (chị) cho là sai. (4 điểm).
1
MỞ ĐẦU
Hiện nay tội phạm diễn ra phổ biến mỗi ngày một phức tạp, dưới nhiều hình
thức tinh vi và xảo quyệt, nhằm thực hiện vào mục đích tư lợi hoặc những mục
đích khác. Trong số đó không thể không kể đến tội cướp tài sản, đây đang là một
loại hành vi nguy hiểm cho xã hội và là vấn đề cấp thiết đang được quan tâm hiện
nay, bởi lẽ được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhằm chiếm đoạt tài
sản của chủ sở hữu.
NỘI DUNG


1. Định tội danh cho hành vi của K và H.
Theo em, K và H phạm tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS năm
1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).
Định tội danh có thể hiểu là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền, trên cơ sở pháp luật và xem xét vụ việc thực
tế để xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội là tội gì và phạm
điều luật nào được quy định trong BLHS. Để định tội danh đúng cho một hành vi
cần phải dựa vào những tình tiết trong vụ án đối chiếu với quy định của pháp luật
nhằm xác định tính chất nguy hiểm của hành vi và xác định TNHS đối với người
phạm tội.
Thứ nhất, xét về các dấu hiệu pháp lý:
* Xét về mặt khách thể của tội phạm: Hành vi cướp tài sản xâm hại đồng thời hai
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở
hữu, tức là người phạm tội có hành vi xâm phạm đến thân thể tự do của con người
qua đó mới xâm phạm được sở hữu. Và ở đây ta thấy K và H có hành vi đe dọa và
định chói bà P là người giúp việc, khiến cho bà P sợ hãi sau đó K và H mới lấy tài
sản. Tức là K và H đã xâm phạm tới thân thể của bà P (đe dọa định trói bà P nếu
bà P chống trọi ngay tức khắc bị K và H chói lại, đồng thời trong hoàn cảnh này
chỉ có một mình bà P), đã làm tê liệt ý trí của bà P và chiếm đoạt tài sản. Như vậy
hành vi của K và H đã thỏa mãn dấu hiệu về mặt khách thể được quy định tại Điều
133 BLHS.
2
* Xét về mặt khách quan của tội phạm: Theo quy định tại của điều luật thì có ba
dạng hành vi khách quan được coi là hành vi phạm tội cướp tài sản.
+ Hành vi dùng vũ lực: Được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất (có hoặc
không có công cụ, phương tiện phạm tội) tác động vào người khác làm đè bẹp hoặc
tê liệt sự chống cự của người này nhằm chiếm đoạt tài sản. Người bị tấn công có
thể là bất cứ người nào cản trở sự chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Những
hành vi này có thể được thể hiện dưới dạng như: đánh, chém, trói, nhốt
+ Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc: Là trường hợp người phạm tội bằng

lời nói hoặc cử chỉ (hoặc cả hai) dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại
việc chiếm đoạt tài sản của họ. Tức là người phạm tội đe dọa ngay tức khắc làm
cho người bị đe dọa tê liệt về ý trí, đồng thời cho thấy sự nhanh chóng về mặt thời
gian. Khiến người bị đe dọa không hoặc khó có điều kiện tránh khỏi. Phải dựa vào
sự tương quan lực lượng, hoàn cảnh bị đe dọa và trình tự lúc xảy ra hành vi. Dấu
hiệu ngay tức khắc chỉ đòi hỏi người phạm tội đã có hành vi, cử chỉ, thái độ thể
hiện ra bên ngoài là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc mà không đòi hỏi người phạm
tội phải có ý định sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc. Chỉ cần họ ra vẻ sẽ dùng vũ lực
ngay tức khắc nhưng không có ý định dùng hoặc không có điều kiện dùng cũng bị
coi là cướp tài sản.
+ Hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được: Ở dạng này tuy không phải dùng vũ lực cũng không phải lời đe dọa nhưng
có khả năng làm cho người bị tấn công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt
tài sản.
Đối chiếu với tình huống trên, K và H đã có hành vi đe dọa ngay tức khắc đối
với bà P. Cụ thể khi K và H giả vờ xin nước uống rồi xông vào đe dọa và có ý định
chói bà P. Hành vi xông vào đe dọa ở đây diễn ra một cách nhanh chóng về thời
gian và mãnh liệt , lúc này cho thấy bà P đã bị te liệt hoàn toàn ý chí. K và H đã
dùng lời nói cử chỉ đe dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu có sự chống cự lại của
bà P. Bằng lời nói, cử chỉ đe dọa đó của K và H bà P đã tin và sợ hãi sẽ bi nguy hại
đến sức khỏe nếu chống cự lại. Đồng thời chỉ có một mình bà P ở nhà gia đình ông
N đi sắm tết, lúc này K và H là hai tên cướp cho thấy sự đáng sợ khi chúng khi đe
dọa. Bà P trước tình hình đó nhận thức được rằng nếu chống cự lại, ngăn cản sự
chiếm đoạt tài sản của K và H thì ngay tức khắc sẽ bị họ tấn công và chói lại, nên
3
đã van xin. K và H đã xâm phạm quan hệ nhân thân (đe dọa sẽ chói bà P), sau đó
xâm phạm đến quan hệ sở hữu (tài sản 70 triệu đồng, 47 chỉ vàng và một số ngoại
tệ). Như vậy hành vi của K và H đã thỏa mãn các dấu hiệu về tội cướp tài sản.
* Chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý trực
tiếp. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội biết mình có hành vi dùng vũ

lực hoặc biết mình có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người bị
tấn công lâm vào tình trạng không thể kháng cự được. Nhưng vẫn mong muốn
hành vi đó đè bẹp hoặc làm te liệt sự kháng cự của người bị tấn công, để thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản. K và H có lỗi có ý trực tiếp, họ biết rất rõ việc dùng lời
nói cử chỉ đe dọa ngay tức khắc sẽ chói bà P nếu có sự kháng cự. Trog tình huống
trên hành vi của K và H đã đè bẹp sự kháng cự của bà P, để rồi K và H chiếm đoạt
tài sản của gia đình ông N. Đồng thời hành vi dùng lời nói, cử chỉ đe dọa đó của K
và H nhằm mục đích là chiếm đoạt tài sản, tiền bạc của gia đình ông N.
* Chủ thể tội phạm: Do tình huống không đề cập tới vấn đề độ tuổi cũng như năng
lực trách nhiệm hình sự của K và H nên ta mặc nhiên hiểu rằng K, H đủ dộ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự (điều 12 BLHS) và không thuộc tình trạng không có
năng lực trách nhiệm hình sự (điều 13 BLHS).
Hậu quả là K và H đã chiếm đoạt được tài sản là 70 tirệu đồng, 47 chỉ vàng
cùng một số ngoại tệ. Tổng số tiền chiếm đoạt được là 460 triệu đồng.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 133 BLHS năm 1999 (sửa
đổi bổ sung năm 2009) thì: “1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay
tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không
thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười
năm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười
hai năm đến hai mươi năm: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của
người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%; b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị
từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; c) Gây hậu quả rất nghiêm
trọng”. Trong tình huống trên thì hành vi của K và H đã thỏa mãn các dấu hiệu
quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 133 BLHS. Vì K và H đã đe dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc và tài sản chiếm đoạt là 460 triệu đồng.Đồng thời theo quy định tại
khoản 1 Điều 20 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) thì, “đồng phạm là
trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Trong tình
4
huống này K và H đã bàn bạc kỹ càng trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản, cùng nhau thực hiện. Cho thấy K và H đều nhận thấy hành vi của mình là

nguy hiểm cho xã hội nhưng mong muốn cùng thực hiện. Từ đó có thể thấy K và
H còn là đồng phạm về tội cướp tài sản.
Ngoài những dấu hiệu về tội cướp tài sản thì K và H còn có hành vi gian dối.
“K và H mang theo một túi quà đến gõ cửa nhà ông N và nói với bà P (là người
giúp việc nhà ông N) là đến để chúc tết gia đình” trên thực tế chỉ nhằm che giấu
tính chất phi pháp của hành vi phạm tội của mình. Lợi dụng sơ hở của gia đình ông
N (ông N đi vắng) và sự không hiểu biết, sơ hở của bà P mà H và K đã thực hiện
hành vi giả mạo người thân quen của ông N đến chúc Tết mà nhằm chiếm đoạt tài
sản. Thủ đoạn trên của H và K có tính chất công khai và có tính chất gian dối khi
thực hiện hành vi phạm tội, đó là hành vi cố ý đưa ra những thông tin không đúng
sự thật, giả mạo người thân quen của gia đình ông N, tuy nhiên đó chỉ là những thủ
đoạn xảo quyệt, gian dối nhằm giúp H và K dễ dàng để tiếp cận tài sản, tiếp cận
người quản lý tài sản, tạo ra sự sơ hở đối với người quản lý tài sản (Không nghi
ngờ gì, bà P đã mở cửa cho K và H vào nhà. Sau khi vào nhà, chúng vờ xin nước
uống rồi xông vào đe doạ và định chói bà P) để dễ chiếm đoạt tài sản đó tạo
thuận lợi để sau đó mới thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn cướp
tài sản.
Như vậy, có thể khẳng định K và H phạm tội cướp tài sản theo quy định tại
Điều 133 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) có tính chất đồng phạm.
Cụ thể là phạm tội cướp theo khoản 3 Điều 133 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung
năm 2009).
2. Phản bác các ý kiến cho là sai.
Theo em, cả ba ý kiến nêu trên đều sai, bởi vì:
a) K và H phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì chúng đã có hành vi gian dối
đánh lừa người giúp việc.
Đây là một ý kiến sai bởi vì: Hành vi của K, H không thỏa mãn các dấu hiệu
của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
* Về mặt khách thể của tôi lừa đảo chiếm đoạt tài sản: chỉ là quan hệ sở hữu về tài
sản. Nhưng ở đây K và H đã xâm hại tới hai quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự
5

bảo vệ đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu. Dấu hiệu này K và H đã không
thỏa mãn.
* Về mặt khách quan: Gồm có hai hành vi khách quan:
+ Hành vi chiếm đoạt: Là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang có
sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình. Và trong vụ án này K và H đã
chiếm đoạt được tài sản (thỏa mãn).
+ Hành vi lừa đảo: Là hành vi cố ý đưa ra những thông tin không đúng sự thật
nhằm để người khác tin đó là sự thật nhằm chiếm đoạt tài sản. Ở đây K và H có lừa
dối bà P người giúp việc nhưng không phải là lừa dối để chiếm đoạt tài sản mà lừa
dối để có thể vào nhà ông N một cách dễ dàng tạo điều kiện cho những hành vi kế
tiếp để chiếm đoạt tài sản (không thỏa mãn).
+ Giữa hành vi chiếm đoạt và hành vi lừa dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
có mối quan hệ chặt chẽ (liền kề, trực tiếp) với nhau: hành vi lừa dối phải là tiền đề
cho hành vi chiếm đoạt có thể xảy ra, hành vi chiếm đoạt phải là hậu quả ngay sau
đó của hành vi lừa dối. Trong tình huống trên thì hành vi lừa dối của K và H không
có mối quan hệ trực tiếp với nhau, hành vi lừa dối trong vụ án này chỉ là điều kiện
cho hành vi chiếm đoạt tài sản sau này. Tuy nhiên, trong tình huống này tài sản mà
Kvà H muốn chiếm đoạt chưa hề nằm trong tay K và H trước đó. Hành vi lừa dối
của K và H chỉ nhằm tiếp cận tài sản và tiếp cận người quản lý tài sản là bà P, chứ
không hề có mục đích nhờ vào những thông tin sai lệch, thủ đoạn xảo quyệt đó để
có thể làm cho bà P giao tài sản cho K và H. Bà P đã biết được hành vi phạm tội
cũng như thủ đoạn gian dối của họ trước khi họ chiếm đoạt được tài sản. Đồng thời
lúc này, chủ sở hữu là ông N đi vắng, cũng không thể biết được thủ đoạn cũng như
hành vi phạm tội của K và H diễn ra như thế nào.
+ Hậu quả: thủ đoạn gian dối phải xảy ra trước hành vi chiếm đoạt và tội phạm
hoàn thành khi người tội phạm chiếm đoạt được tài sản. Tuy nhiên không phải mọi
trường hợp có hành vi gian dối đều phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: ví dụ như
trong vụ án này hành vi lừa dối không phải vì mục đích chiếm đoạt tài sản mà là
lừa bà giúp việc để được vào nhà tiếp cận tài sản dễ dàng hơn (không thỏa mãn).
* Về mặt chủ quan: Lỗi trong tội này là cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức

được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hôi và mong muốn nó xảy ra, mong
hành vi lừa dối của mình sẽ dẫn tới kết quả là chiếm đoạt được ngay tài sản. Ở đây
6
K, H cũng có lỗi cố ý trực tiếp nhưng họ mong muốn hành vi gian dối của mình có
thể đánh lừa được bà P người giúp việc chứ không phải là chiếm đoạt luôn tài sản.
* Về mặt chủ thể: Do tình huống không đề cập về độ tuổi và năng lực trách nhiệm
hình sự nên ta hiểu rằng K và H thỏa mãn dấu hiệu này.
Như vậy, có thể khẳng định K và H không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản được quy định tại Điều 139 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009).
b) K và H phạm tội trộm cắp tài sản vì chúng có hành vi lợi dụng lúc gia đình
ông N đi vắng để lấy tài sản. Tuy bà P ở nhà nhưng bà chỉ là người giúp việc,
không phải là chủ sở hữu của những tài sản đó”.
Đây là một ý kiến sai bởi vì: Hành vi của K và H không thỏa mãn các dấu
hiệu của tội trộm cắp tài sản.
* Về mặt khách thể của tội trộm cắp tài sản: Là quan hệ sở hữu về tài sản. Nhưng
ở đây K và H xâm hại tới hai quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ: quan hệ sở
hữu và quan hệ nhân thân( không thỏa mãn).
* Về mặt khách quan: có hai dấu hiệu để phân biệt với các tội khác đó là:
+ Hành vi lén lút: Lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản
không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác nhằm tiếp
cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Tính chất lén lút, bí mật thể
hiện ở chỗ người phạm tội giấu diếm hành vi phạm tội của mình hoặc còn thể hiện
thông qua việc che giấu thân phận thật của mình với mọi người và với người quản
lý tài sản. Trong vụ án này K và H đã lợi dụng lúc nhà ông N đi vắng và đã lừa bà
P để che giấu thân phận thật của mình để vào nhà chiếm đoạt tài sản của ông N
(thỏa mãn). Việc lén lút đó còn được thể hiện ở chỗ khi thực hiện hành vi phạm tội
của mình người phạm tội lén lút giấu diếm với chủ tài sản hoặc người quản lý
(không cho họ biết là họ đang mất tài sản), nhưng ở đây K và H đã lấy tài sản trước
mặt bà P (không phải là chủ tài sản nhưng lúc bấy giờ bà được giao là người quản
lý tài sản giúp nhà ông N) nên không được coi là lén lút nữa (không thỏa mãn).

+ Thứ hai, là tài sản đang có chủ: Hành vi lấy tài sản của mình hoặc do mình
quản lý cũng như hành vi lấy tài sản không có hoặc chưa có chủ đều không phải là
hành vi trộm cắp tài sản. Ở đây Kvà H trộm cắp tài sản khi tài sản đó đang có chủ
(gia đình ông N là chủ tài sản), (thỏa mãn).
* Về mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản: Lỗi cố ý trực tiếp (K và H thỏa mãn
dấu hiệu lỗi này).
7
* Về mặt chủ thể: K và H là người có năng lực TNHS và đủ độ tuổi theo luật
định.
Giả sử bà P lợi dụng hoàn cảnh đó để lấy tài sản của chủ thì bà P sẽ bi coi là
phạm tội trộm cắp tài sản. Trong tình huống đó, hành vi lợi dụng tình trạng sơ hở
của chủ nhà cùng hành vi khách quan là lén lút cùng ý chí chủ quan muốn che giấu
hành vi, lợi dụng hành vi phạm tội đi liền trước của K và H và mục đích tư lợi thì
ta có thể kết luận hành vi pham tội của bà P cấu thành tội trộm cắp tài sản. Hành vi
phạm tội của P hoàn tòan tách biệt, đơn phương thực hiện nên không thể ghép
hành vi của bà P là hành vi đồng phạm với K và H được.
Như vậy, có thể khẳng định K và H không phạm tội trộm cắp tài sản theo quy
định tại Điều 138 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
c) K và H phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản vì chúng công khai lấy tài sản
trước mắt người giúp việc.
Đây là một ý kiến sai bởi vì: Hành vi của K và H không thỏa mãn các dấu
hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
* Về mặt khách thể của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản: là quan hệ sở hữu.
Trong vụ án này K và H xâm phạm đồng thời hai quan hệ xã hội đó là quan hệ sở
hữu và quan hệ nhân thân (không thỏa mãn).
* Về mặt khách quan: Được thể hiện qua hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản:
+ Là hành vi được thực hiện một cách công khai, người phạm tội không che giấu
hành vi phạm tội của mình, họ thực hiện hành vi bằng thủ đoạn lợi dụng sự sở hở
của người quản lý tài sản hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan( thiên tai, lũ
lụt ) để chiếm đoạt tài sản. Ở đây K và H cũng có hành vi lợi dụng sự sơ hở của

gia đình ông N nhưng không phải là để lấy tài sản mà là để vào được nhà ông N rồi
mới thực hiện những hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Và việc công khai
trước bà P ở đây cũng không thỏa mãn vì “công khai” trong tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản là người phạm tội không cần có những hành vi nào tác động tới người
quản lý tài sản mà chỉ lợi dụng sự không thể ngăn cản của người quản lý tài sản để
chiếm đoạt tài sản, nhưng ở đây K và H đã có hành vi là đe dọa định chói bà P để
bà không thể ngăn cản việc lấy tài sản của mình rồi mới công khai lấy tài sản (lấy
khi bà không còn khả năng chốn cự do sợ hãi).
Tính chất công khai trắng trợn của hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản thể hiện
ở chỗ người phạm tội không giấu diếm, che đậy hành vi phạm tội của mình, ý thức
8
bất chấp người khác chứ không phải dựa vào số đông để uy hiếp tinh thần của
người quản lý tài sản (ở đây là dựa vào số đông để uy hiếp tinh thần bà P nên
không thỏa mãn).
* Về mặt chủ thể: K và H thỏa mãn dấu hiệu này: là người có năng lực TNHS và
đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật.
* Về mặt chủ quan: K và H thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp (thỏa mãn).
Mặc dù hành vi của H và K diễn ra khá công khai trước mặt bà P, đồng thời
khiến cho bà P không làm gì được, không có điều kiện ngăn cản. Nhưng ở dấu hiệu
“người phạm tội không dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực hay uy hiếp tinh thần
nhanh chóng hay nhanh chóng chiếm đoạt và lẩn tránh”, trong tình huống này, K
và H đã có hành vi đe dọa, uy hiếp tinh thần nhanh chóng, mãnh liệt với bà P:
“xông vào đê dọa và định chói bà P”, làm cho bà P lâm vào trạng thái sợ hãi.
Như vậy, có thể khẳng định K và H không phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản theo quy định tại Điều 137 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
KẾT LUẬN
Tóm lại qua tình huống trên cho ta thấy hành vi phạm tội có rất nhiều dấu hiệu
phức tạp, đòi hỏi các nhà xét xử phải đánh đúng từng chi tiết của hành vi. Mới đưa
ra kết luận thì sẽ định tội danh đúng và đồng thời xử đúng tội, đúng người. Nhằm
đe dọa, ngăn ngừa các hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục người phạm tội trở lại

với cộng đồng. Thông qua còn răn đe những phần tử có ý định phạm tội hoặc đang
trong tiến trình có hành vi phạm tội dừng lại, nếu cố ý thực hiện sẽ bị trừng trị bởi
pháp luật.
9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật Hình sự Việt Nam tập 2 Nxb Công an nhân dân – Hà Nội - 2012.
2. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2009).
3. TTLT số 02/2001 ngày 25/12/2001 của TANDTC –VKSNHTC –BCA – BTP về
việc hướng dẫn một số quy định tại chương XIV “các tội xâm phạm sở hữu”.
4. Tội phạm và cấu thành tội phạm (Nguyễn Ngọc Hòa, NXB Công an nhân dân).
10
MỤC LỤC
11

×