Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
MỤC LỤC
MỞ BÀI…………………………………… ………………………… 1
NỘI DUNG CHÍNH………………………… ………………………… 2
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự, hãy phân loại tội phạm đối
với tội trộm cắp tài sản? 2
2. Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của
tội phạm được cấu thành tội phạm phản ánh, hãy xác định loại cấu thành tội
phạm đối với tội trộm cắp tài sản? 3
a) Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản:………………… …….3
b) Hậu quả nguy hiểm cho xã hội:………………………………… … 4
c) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả:……… ……………5
3. Hãy chỉ ra khách thể và đối tượng tác động của tội phạm mà V đã thực
hiện? 5
4. Giả sử V và P bàn nhau rạch túi hành khách để chiếm đoạt tài sản. P
đứng canh gác, còn V trực tiếp rạch túi của chủ tài sản. V đã rạch túi và lấy
được chiếc điện thoại nói trên, P có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Giải thích rõ tại sao? 6
5. Giả sử V 20 tuổi, V dụ dỗ P rạch túi hành khách để chiếm đoạt tài
sản( P12 tuổi). V có phải là người đồng phạm với vai trò xúi dục không? Giải
thích rõ tại sao? 7
KẾT BÀI……………………………………………… ………………… 8
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………… ………… 9
1
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
MỞ BÀI
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta có nhiệm vụ bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước cũng như của nhân dân. Với vai trò là
nền tảng kinh tế xã hội của quốc gia, chế độ sở hữu là một trong những vấn đề
trọng yếu được Nhà nước bảo vệ bằng mọi biện pháp trong đó biện pháp pháp lý
hình sự thể hiện kiên quyết nhất ý chí quyền lực Nhà nước trong xử lý các hành
vi xâm phạm tới chế độ sở hữu. Trong số các tội xâm phạm sở hữu, tội trộm cắp
tài sản là tội xâm phạm trực tiếp tới quyền sở hữu tài sản, nó xảy ra khá phổ
biến. Ở mỗi giai đoạn phát triển, Nhà nước đều có những quy định về tội trộm
cắp tài sản và biện pháp xử lý nhằm đấu tranh loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã
hội.
Tuy nhiên, để quán triệt vấn đề này là một việc làm hết sức khó khăn vì hiện
nay tội trộm cắp tài sản là một tội khá phổ biến. Nó có mặt hầu như ở khắp các
nhà ga, các địa điểm công cộng, thậm chí nó diễn ra thường nhật trong cuộc
sống hằng ngày. Vậy, chúng ta đã có những hiểu biết gì về loại tội phạm này?
Để nêu lên những hiểu biết của bản thân, em xin đi vào phân tích một tình
huống cụ thể:“ V không có việc làm ổn định và chuyên sống bằng nghề trộm cắp
tài sản tại nhà ga( V đã có 4 tiền án về hành vi chiếm đoạt tài sản). Một lần, V
rạch túi của một hành khách và lấy được một chiếc điện thoại di động trị giá 5
triệu đồng. Trong khi đang tìm cách tiêu thụ chiếc điện thoại đó, V bị bắt. Hành
vi của V được xác định là phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ
luật hình sự”.
2
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
NỘI DUNG CHÍNH
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự, hãy phân loại tội phạm
đối với tội trộm cắp tài sản?
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Theo khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự quy định:“ Tội phạm ít nghiêm trọng
là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
đến bảy năm tù; Tội phạm rất nghiệm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm
tù; Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm
tù, tù trung thân hoặc tử hình ”.
Còn đối với tội trộm cắp tài sản thì Điều 138 Bộ luật hình sự quy định:
“ 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng
đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị
kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị
cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức.
b) Có tính chất chuyên nghiệp.
c) Tái phạm nguy hiểm.
3
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm.
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm
triệu đồng.
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm.
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm
triệu đồng.
b) Gây hậu quả nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù trung thân.
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi
triệu đồng ”.
Như vậy, theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự thì mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản là ba năm tù; căn cứ vào khoản 3
Điều 8 Bộ luật hình sự thì ta thấy tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1
Điều 138 thỏa mãn với tội phạm ít nghiêm trọng. Theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật
hình sự thì mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản là bảy
năm tù; căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì ta thấy tội trộm cắp tài sản
được quy định tại khoản 2 Điều 138 thỏa mãn với tội phạm nghiêm trọng. Theo
khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự thì mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội trộm cắp tài sản là 15 năm tù; căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì
ta thấy tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 3 Điều 138 Bộ luật hình sự
thỏa mãn với tội phạm rất nghiêm trọng. Theo khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự
thì mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản là hai mươi
năm tù hoặc tù trung thân; căn cứ vào khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự thì ta thấy
tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 4 Điều 138 Bộ luật hình sự thỏa
mãn với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Với tội trộm cắp tài sản được quy định
tại khoản 5 Điều 138 Bộ luật hình sự thì ta không phải phân loại tội phạm vì
khoản này quy định hình phạt bổ xung.
4
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
2. Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan
của tội phạm được cấu thành tội phạm phản ánh, hãy xác định loại cấu
thành tội phạm đối với tội trộm cắp tài sản?
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc
trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự.
Căn cứ vào các đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan
của tội phạm được cấu thành tội phạm phản ánh người ta có thể chia cấu thành
tội phạm thành cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình thức. Để
nhận biết tội trộm cắp tài sản thuộc loại nào ta tìm hiểu các dấu hiệu thuộc mặt
khách quan của tội này:
a) Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản:
Do đặc điểm của tội trộm cắp tài sản nên người phạm tội chỉ có một hành vi
khách quan duy nhất là“ chiếm đoạt” nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén lút,
với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản lý tài sản, không
trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như chen lấn,
xô đẩy nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà người quản lý
tài sản không biết.
Đặc trưng lén lút của hành vi chiếm đoạt trong tội trộm cắp tài sản cũng chỉ
đòi hỏi phải có ý thức của người phạm tội. Nếu người phạm tội mong muốn che
giấu hành vi bất hợp pháp của mình thì vẫn được coi là phạm tội trộm cắp tài
sản. Thông thường kẻ trộm cắp cũng muốn che giấu hành vi để tránh việc bị phát
hiện hoặc chỉ che giấu tính chất phi pháp của hành vi nhưng điều này không ảnh
hưởng đến việc định tội, điều quan trọng là xác định được ý thức che giấu đối với
người có trách nhiệm quản lý tài sản dù rằng thực tế y không che giấu được.
Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội nào cũng giống nhau, thực tiễn
xét xử cho thấy có nhiều trường hợp dễ nhầm lẫn với các loại tội phạm khác. Để
xác định hành vi trộm cắp tài sản và phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số loại
tội phạm khác gần kề. Chúng ta có thể nhận đinh một số dạng trộm cắp tài sản có
tính chất đặc thù.
- Người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối tiếp cận tài sản để đến khi
có điều kiện sễ lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản.
5
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
- Người phạm tội lợi dụng chỗ đông người để chen lấn, xô đẩy hòng thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác.
- Người phạm tội lợi dụng người quản lý tài sản không có mặt ở nơi để tài
sản hoặc tài sản không có người trực tiếp quản lý( tài sản công cộng) nên đã thực
hiện hành vi chiếm đoạt.
b) Hậu quả nguy hiểm cho xã hội:
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là những thiệt hại do người
phạm tội gây ra hoặc đe dọa gây ra cho khách thể của tội phạm. Tội trộm cắp tài
sản xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu của người chủ tài sản. Đó là các quyền:
Chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản.
Trong mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản thì dấu hiệu hậu quả nguy
hiểm cho xã hội là dấu hiệu có tính chất bắt buộc. Điều đó có nghĩa là chúng phải
xảy ra trong thực tiễn, được khẳng định và chứng minh bằng các chứng cứ cụ thể
khi xem xét hành vi của người lấy tài sản của người khác đã có đầy đủ các dấu
hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản hay chưa. Xét dưới góc độ các giai đoạn
thực hiện tội phạm, khi có hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì tội trộm cắp tài sản
được coi là hoàn thành. Thực tiễn xét xử hiện nay thừa nhận hậu quả nguy hiểm
cho xã hội khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản của người khác.
Để xác định nội dung này cần thiết phải xem xét vị trí, địa điểm cất giữ, bảo
quản tài sản. Đối với loại tài sản không có nơi bảo quản riêng biệt thì thời điểm
được coi là chiếm đoạt tài sản là khi người phạm tội đưa tài sản ra khỏi vị trí cất
giữ ban đầu. Đối với loại tài sản có nơi cất giữ riêng biệt thì cần thiết phải xác
định đó là loại tài sản nhỏ gọn, dễ cất giấu hay tài sản to lớn. Đới với tài sản có
kích cỡ nhỏ thì thời điểm được coi là chiếm đoạt được tài sản là là khi người
phạm tội lấy tài và giấu chúng vào trong người hoặc đồ vật mang theo người. Đối
với loại tài sản to lớn thì khi người lấy tài sản chuyển chúng ra khỏi khu vực cất
giữ hoặc bảo quản thì mới được coi là đã chiếm đoạt tài sản.
c) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả:
Ngoài hai dấu hiệu hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm thì mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản còn có dấu hiệu thứ ba,
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm. Trong mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản cần phải chứng
6
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
minh hậu quả gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu phải là kết quả của hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản người khác. Trong thực tiễn, người chủ sở hữu có thể bị mất
tài sản do nhiều nguyên nhân rất khác nhau. Chỉ khi hiện tượng mất tài sản xuất
phát từ hành vi trộm cắp tài sản thì mới có cơ sở khẳng định sự tồn tại của mối
quan hệ nhân quả giữa hậu quả gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và hành vi phạm
tội.
Trong quan hệ nhân quả của mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản thì
hành vi phạm tội được coi là nguyên nhân và thiệt hại gây ra cho người sở hữu
tài sản được coi là hậu quả của tội phạm. Quan hệ nhân quả có hai dạng chính là
quan hệ nhân quả đơn trực tiếp và quan hệ nhân quả kép trực tiếp. Trường hợp
trộm cắp tài sản chỉ do một người gây phạm tội ra thì đó là quan hệ nhân quả đơn
trực tiếp còn trường hợp nhiều người tham gia vào việc phạm tội thì quan hệ là
quan hệ nhân quả kép trực tiếp.
Khi xác định quan hệ nhân quả trong mặt khách quan của tội phạm cần thiết
phải phân biệt nguyên nhân và điều kiện gây ra hậu quả của tội trộm cắp tài sản
để xác định chính xác trách nhiệm hình sự người phạm tội trộm cắp tài sản.
3. Hãy chỉ ra khách thể và đối tượng tác động của tội phạm mà V đã
thực hiện?
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại.
Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương tự như tội có tính chất chiếm
đoạt khác nhưng tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà
chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một đặc điểm khác với các tội
cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cướp giật tài sản. Xét
trường hợp phạm tội của V ta thấy trong trường hợp này khách thể của tội trộm
cắp tài sản mà V đã thực hiện chính là quan hệ sở hữu của chủ tài sản( chủ chiếc
điên thoại) đối với tài sản( chiếc điện thoại bị V lấy cắp).
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị
hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Theo lý luận về luật hình sự, để gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm thì
người phạm tội phải tác động đến một hoặc nhiều bộ phận cấu thành nên khách
7
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
thể của tội phạm. Để gây thiệt hại đến các quyền sở hữu tài sản, người phạm tội
trộm cắp tài sản phải tác động đến tài sản của người chủ sở hữu. Xét trường hợp
phạm tội của V ta thấy đối tượng tác động trong trương hợp này chính là tài sản
mà V lấy cắp( chiếc điện thoại trị giá 5 triệu đồng).
4. Giả sử V và P bàn nhau rạch túi hành khách để chiếm đoạt tài sản. P
đứng canh gác, còn V trực tiếp rạch túi của chủ tài sản. V đã rạch túi và lấy
được chiếc điện thoại nói trên, P có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Giải thích rõ tại sao?
Giả sử V và P bàn nhau rạch túi hành khách để chiếm đoạt tài sản. P đứng
canh gác, còn V trực tiếp rạch túi của chủ tài sản. V đã rạch túi và lấy được chiếc
điện thoại nói trên, P có thể phải chịu trách nhiệm hình sự cũng có thể không
phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm là người có đầy đủ năng
lực trách nhiệm hình sự và đạt đến độ tuổi luật định khi thực hiện hành vi phạm
tội. Năng lực trách nhiệm và độ tuổi luật định là hai dấu hiệu của chủ thể của tội
phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Theo đó, chủ thể của phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mình phạm. Hay nói cách khác, người phạm
tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội họ phạm khi họ có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng của một người vào thời điểm
thực hiện hành vi phạm tội có thể nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội và điều khiển được hành vi đó. Khi thực hiện tội phạm bằng hình thức
đồng phạm, người phạm tội không những thấy hành vi của mình nguy hiểm cho
xã hội, họ còn thấy hành vi của những người đồng phạm khác cũng nguy hiểm
cho xã hội và có quan hệ chặt chẽ với hành vi của họ, cùng góp phần gây thiệt
hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Trong tình huống trên, P và V
có sự bàn bạc với nhau về cách thức thực hiện hành vi phạm tội. P sẽ đứng canh
gác còn V trực tiếp rạch túi lấy tài sản của người chủ sở hữu. Sự bàn bạc với
nhau về cách thức phạm tội đã chứng minh được việc phạm tội của V và P có sự
cố ý phạm tội, thể hiện năng lực hành vi của cả hai người. P và V khi thực hiện
hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản người khác, họ nhận thức được rằng hành vi
của họ nằm ngoài chuẩn mực xã hội, trái pháp luật và sẽ bị xã hội lên án. Họ
8
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
cũng nhận thức được rằng tài sản bị chiếm đoạt là tài sản của người khác và
thông qua hành vi phạm tội, họ tuy có được tài sản nhất định nhưng cũng làm
mất đi tài sản của người khác. Trong tình huống này, cả P và V đều thể hiện năng
lực trách nhiệm hình sự của mình trong việc trộm cắp tài sản. Vậy trong tình
huống này, việc P có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không phụ thuộc vào
việc P có đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay không.
Năng lực trách nhiệm hình sự của một người không thể có ngay khi
người đó được sinh ra, cùng với sự phát triển về thể chất, trí tuệ, sự giáo dục và
tích luỹ kinh nghiệm sống của mỗi người khi đạt đến độ tuổi nhất định, người ta
mới có thể nhận thức được các đòi hỏi và chuẩn mực của xã hội. Khi đó, họ mới
có khả năng điều khiển hành động của mình theo chuẩn mực xã hội. Khi quy
định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 bộ luật Hình sự năm 1999,
Nhà nước chính thức thừa nhận một người khi đạt độ tuổi này mới có năng lực
trách nhiệm hình sự: “ 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chiu trách nhiệm hình
sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”.
Trong tình huống này không nói rõ tuổi của P nên ta chia thành 3 trường
hợp về tuổi của P để xem xét việc P có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không:
Trường hợp thứ nhất là P dưới 14 tuổi: Căn cứ vào Điều 12 quy định đổ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì P sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự bởi P
chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp thứ hai là P từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng dưới 16 tuổi: Căn
cứ theo Điều 12 thì P sẽ phải chịu trác nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Theo phần a phân loại tội
phạm với tội trộm cắp tài sản thì tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 là tội
phạm ít nghiêm trọng. Vì thế, trong trường hợp này, P vẫn không phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản đã thực hiện cùng với V.
Trường hợp thứ ba là P trên 16 tuổi: Khi này, theo Điều 12 thì P phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội mà mình phạm phải. Vì vậy, trong trường
hợp này, P phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản.
9
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
Vậy trong tình huống này, P có thể bị chịu trách nhiệm hình sự cũng có thể
không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản.
5. Giả sử V 20 tuổi, V dụ dỗ P rạch túi hành khách để chiếm đoạt tài
sản( P12 tuổi). V có phải là người đồng phạm với vai trò xúi dục không?
Giải thích rõ tại sao?
Khái niệm đồng phạm được quy định tại khoản 1 Điều 20 bộ luật hình sự:
“đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm”. Theo khái niệm này thì đồng phạm phải có những dấu hiệu cụ thể về mặt
khách quan cũng như mặt chủ quan của tội phạm. Về mặt khách quan, đồng
phạm đòi hỏi có hai dấu hiệu: có từ hai người trở lên và những người này có đủ
điều kiện của chủ thể của tội phạm; những người này phải cùng thực hiện tôi
phạm (cố ý). Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi những người phạm tội đều có
lỗi cố ý. Ngoài ra, đối với tội có dấu hiệu mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt
buộc, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện phải có cung mục đích
phạm tội đó.
Theo những dấu hiệu về mặt khách quan của đồng phạm thì những người
cùng tham gia phạm tội phải là chủ thể cua tội phạm nghĩa là phải có đầy đủ
năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Trong
tình huống trên, P mới 12 tuổi, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Bởi xét về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 quy định:
“ 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.”
Tức là chủ thể tham gia phải có đầy đủ điều kiện về năng lực trách nhiệm
hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Ở tình huống này, P chưa đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự nên không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm
cắp tài sản. Vì vậy, P và V không phải là đồng phạm. Hay nói cách khác trong
trường hợp này, V không phải là đồng phạm với vai trò xúi giục.
10
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
KẾT LUẬN
Trong tình hình hiện nay khi đất nước đang trên đà phát triển và tăng
cường hội nhập quốc tế thì hiện tượng tội phạm ở nước ta cũng ngày càng gia
tăng với hành vi phạm tội ngày càng tinh vi và trở thành một vấn đề nan giải cần
được nhanh chóng giải quyết . Trong lời nói đầu của Bộ luật Hình sự Việt Nam
đã viết:“ Luật Hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức, góp phần duy trì trật tự, an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh tế đảm bảo
cho mọi người được sống trong môi trường xã hội và sinh thái an toàn, lành
mạnh, mang tính nhân văn cao. Đồng thời, pháp luật Hình sự góp phần tích cực
loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh”. Điều đó cho chúng ta thấy vai trò của luật Hình sự hết sức
quan trọng và ngày càng được đề cao hơn trong việc đấu tranh và phòng chống
tội phạm.
11
Trường Đại Học Luật Hà Nội Bài Học Kì Luật Hình Sự
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hình sự Việt Nam- Trường Đại học Luật Hà Nội tập I-
Nxb. CAND, Hà Nội, 2010.
2. Từ điển pháp luật Hình sự- PGS TS. Nguyễn Ngọc Hoà, PGS TS. Lê
Thị Sơn- Nxb Tư pháp Hà Nội, 2006.
3. Bình luận khoa học bộ luật Hình sự Việt Nam, tập II- Đinh Văn Quế-
Nxb. TPHCM, 2003.
4. Bình luận khoa học bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999- Viện khoa học
pháp lý- Nxb. CTQG, 2001.
5. Luận án tiến sĩ luật học, “Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng
chống tội phạm này ở Việt Nam”- Hoàng Văn Hùng- Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2007.
6. Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999.
7. Website:
8. Website:
9. Website:
12