Tải bản đầy đủ (.pdf) (247 trang)

Phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 247 trang )









































BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ




VŨ HOÀI NAM



Phát triển y đức của người thầy thuốc
quân đội hiện nay



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN




Vũ Hoài Nam




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
5
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Y ĐỨC VÀ PHÁT TRIỂN Y ĐỨC
CỦA NGƯỜI THẦY THUỐC QUÂN ĐỘI


27
1.1
Những vấn đề lý luận về y đức
27
1.2
Những vấn đề lý luận về phát triển y đức của người thầy
thuốc quân đội trong bối cảnh hiện nay
41
1.3
Nội dung phát triển y đức và tiêu chí đánh giá sự phát triển y
đức của người thầy thuốc quân đội
53
Chương 2

CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
Y
ĐỨC CỦA
NGƯỜI THẦY THUỐC QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
61
2.1
Phương pháp khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển y đức
của người thầy thuốc quân đội
61
2.2
Tình hình phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội
hiện nay
64
2.3
Những bài học kinh nghiệm về phát triển y đức của người
thầy thuốc quân đội
100
Chương 3
BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN
Y
ĐỨC CỦA NGƯỜI THẦY
THUỐC QUÂN ĐỘI
HIỆN NAY

104
3.1
Xu hướng phát triển y đức và những vấn đề đang đặt ra đối
với người thầy thuốc quân đội hiện nay
104
3.2

Yêu cầu và các biện pháp phát triển y đức của người thầy
thuốc quân đội
106
Chương 4
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
136
4.1
Những vấn đề chung về thực nghiệm sư phạm
136
4.2
Tổ chức thực nghiệm sư phạm
137
4.3
Đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm
147
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
167
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
170
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
172
PHỤ LỤC
179


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
CHỮ VIẾT TẮT

Bác sĩ nội trú
BSNT
Đạo đức cách mạng
ĐĐCM
Độ lệch chuẩn
ĐLC
Đối chứng
ĐC
Đơn vị quân y
ĐVQY
Điểm trung bình
ĐTB
Kinh tế thị trường
KTTT
Phát triển y đức
PTYĐ
Thầy thuốc quân đội
TTQĐ
Thực nghiệm
TN
Trung bình chung
TBC
Tư bản chủ nghĩa
TBCN
Xã hội chủ nghĩa
XHCN





DANH MỤC BẢNG
TT
TÊN BẢNG
Trang
Bảng 2.1
Các đối tượng khảo sát
62
Bảng 2.2
Kết quả khảo sát vai trò của y đức đối với người TTQĐ
65
Bảng 2.3
Lý do trở thành người TTQĐ
67
Bảng 2.4
Thực trạng về niềm tin y đức của người TTQĐ
68
Bảng 2.5
Thực trạng ý chí y đức của người TTQĐ
69
Bảng 2.6
Thực trạng mức độ phát triển ý thức y đức của người TTQĐ
70
Bảng 2.7
Thực trạng thái độ y đức của người TTQĐ với NB
73
Bảng 2.8
Thực trạng thái độ y đức với đồng nghiệp và với bậc thầy
75
Bảng 2.9
Thực trạng thái độ y đức của người TTQĐ với xã hội, cộng đồng

77
Bảng 2.10
Thực trạng thái độ y đức với công việc, với chính bản thân
78
Bảng 2.11
Thực trạng phát triển thái độ y đức của người TTQĐ
79
Bảng 2.12
Thực trạng hành vi y đức đối với quá trình tự bồi dưỡng, tự
rèn luyện y đức của người TTQĐ
80
Bảng 2.13
Thực trạng hành vi y đức trong chấp hành các qui định, điều
lệnh và pháp luật của người TTQĐ
81
Bảng 2.14
Thực trạng hành vi y đức trong giao tiếp, ứng xử của người TTQĐ
83
Bảng 2.15
Thực trạng hành vi y đức về lương tâm và trách nhiệm trong
học tập, công tác và điều trị
84
Bảng 2.16
Thực trạng phát triển hành vi y đức của TTQĐ
86
Bảng 2.17
Thực trạng phát triển y đức của người TTQĐ hiện nay
87
Bảng 2.18
Thực trạng chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo

dục, bồi dưỡng y đức và môi trường y đức của người TTQĐ
89
Bảng 4.1
Lượng hoá các tiêu chí đánh giá sự phát triển về ý thức y đức
139
Bảng 4.2
Lượng hoá các tiêu chí đánh giá sự phát triển về thái độ y đức
141
Bảng 4.3
Lượng hoá các tiêu chí đánh giá sự phát triển hành vi y đức
143
Bảng 4.4
Kết quả kiểm tra đầu vào về ý thức y đức
148
Bảng 4.5
Kết quả kiểm tra đầu vào về thái độ y đức
148
Bảng 4.6
Kết quả kiểm tra đầu vào về hành vi y đức
149
Bảng 4.7
Các tham số về ý thức y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 1
149
Bảng 4.8
Các tham số về thái độ y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 1
150


Bảng 4.9
Các tham số về hành vi y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 1

151
Bảng 4.10
Các tham số về ý thức y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 2
153
Bảng 4.11
Các tham số về thái độ y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 2
154
Bảng 4.12
Các tham số về hành vi y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 2
155
Bảng 4.13
Các tham số về ý thức y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 3
156
Bảng 4.14
Các tham số về thái độ y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 3
157
Bảng 4.15
Các tham số về hành vi y đức của nhóm TN và ĐC giai đoạn 3
158
Bảng 4.16
Kết quả tổng hợp của nhóm TN và ĐC
164

DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
TT
TÊN BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1
Thực trạng phát triển ý thức y đức của người TTQĐ
71

Biểu đồ 2.2
Thực trạng phát triển thái độ y đức của người TTQĐ
80
Biểu đồ 2.3
Thực trạng phát triển hành vi y đức của người TTQĐ
87
Biểu đồ 2.4
Thực trạng phát triển y đức của người TTQĐ
88
Biểu đồ 4.1
Kết quả ý thức y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 1
150
Biểu đồ 4.2
Kết quả thái độ y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 1
151
Biểu đồ 4.3
Kết quả hành vi y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 1
152
Biểu đồ 4.4
Kết quả ý thức y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 2
153
Biểu đồ 4.5
Kết quả thái độ y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 2
154
Biểu đồ 4.6
Kết quả hành vi y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 2
155
Biểu đồ 4.7
Kết quả ý thức y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 3
156

Biểu đồ 4.8
Kết quả thái độ y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 3
157
Biểu đồ 4.9
Kết quả hành vi y đức của nhóm TN và ĐC sau TN giai đoạn 3
158
Biểu đồ 4.10a
Sự phát triển về ý thức y đức của BSNT dưới tác động TN
161
Biểu đồ 4.10b
Sự phát triển về ý thức y đức của BSNT ở nhóm ĐC
161
Biểu đồ 4.11a
Sự phát triển về thái độ y đức của BSNT dưới tác động TN
162
Biểu đồ 4.11b
Sự phát triển về thái độ y đức của BSNT ở nhóm ĐC
162
Biểu đồ 4.12a
Sự phát triển về hành vi y đức của BSNT dưới tác động TN
163
Biểu đồ 4.12b
Sự phát triển về hành vi y đức của BSNT ở nhóm ĐC
163
Biểu đồ 4.13
Sự phát triển chung về y đức của BSNT nhóm TN và nhóm ĐC
164
Sơ đồ 4.1
Sơ đồ khái quát quá trình thực nghiệm sư phạm
227



5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Người thầy thuốc chân chính chữa bệnh cứu người không chỉ vì trách
nhiệm, mà còn vì lương tâm nghề nghiệp, vì lòng thương cảm đối với người
bệnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong thư gửi cán bộ ngành Y tế: “lương
y phải như từ mẫu”, để răn dạy người thầy thuốc phải có đạo đức (y đức)
trong công việc của mình. Nếu như y thuật làm nên danh tiếng, thì y đức tạo
nên nhân cách của người thầy thuốc, tất cả vì sự sống của con người.
Trong xã hội hiện nay, trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học,
kỹ thuật, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một cải thiện, nhu
cầu chăm sóc sức khoẻ của người dân ngày càng cao, đòi hỏi người thầy
thuốc phải có năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức tốt.
Do mặt trái của cơ chế thị trường, đạo đức của người thầy thuốc hiện
nay có những biểu hiện xuống cấp, tạo nên những bất bình trong dư luận xã
hội. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề phát triển y đức của người thầy thuốc nói
chung và phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội nói riêng, trở nên cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Đề tài Phát triển y đức của người thầy thuốc quân đội hiện nay hệ
thống hoá những tư tưởng và những nghiên cứu về y đức, làm rõ bản chất y
đức và sự phát triển y đức của người TTQĐ; chỉ ra bối cảnh hiện nay và
những yếu tố tác động đến sự phát triển y đức, đặc điểm hoạt động của người
thầy thuốc quân đội và vai trò của việc phát triển y đức; xác định các nội dung
phát triển y đức và các tiêu chí đánh giá sự phát triển của y đức; xây dựng các
biện pháp giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện phát triển y đức của người TTQĐ,
nhằm đáp ứng yêu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho bộ đội và nhân dân
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.



6
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Đạo đức là một hiện tượng xã hội đặc biệt có vai trò rất to lớn trong đời
sống của nhân loại. Đạo đức có liên quan đến mọi thành viên của xã hội, đến
mọi lĩnh vực hoạt động của con người, trong đó có ngành y.
Y đức là đạo đức của nghề y - một phẩm chất cao quý của người thầy
thuốc, y đức được hình thành nhờ có giáo dục trong nhà trường và phát triển do
rèn luyện, tu dưỡng trong hoạt động thực tiễn của mỗi người thầy thuốc. Y đức
của người thầy thuốc luôn bị tác động bởi các yếu tố xã hội và chính chủ thể ở
mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển của xã hội, của hoạt động nghề nghiệp thì y đức
cũng phát triển. Do đó việc nghiên cứu sự PTYĐ của người TTQĐ vốn có
những đặc thù riêng trong bối cảnh hiện nay là một vấn đề cần được nghiên cứu
sâu với tư cách là một đề tài độc lập mà thực tiễn ngành y quân sự đang đòi hỏi.
Từ khi Quân đội Nhân dân Việt Nam được thành lập cho đến nay, trong
thời chiến, cũng như trong thời bình, đội ngũ TTQĐ luôn có mặt ở mọi nơi,
mọi lúc, kể cả ở những nơi nguy hiểm nhất, vào những thời điểm ác liệt nhất,
để cứu chữa, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho bộ đội để đánh thắng kẻ thù.
Đội ngũ TTQĐ còn tham gia nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao trình độ
y học nước nhà và nâng cao chất lượng hoạt động ở các cơ sở quân y, phấn
đấu ngang tầm với các cơ sở y tế trong nước và trong khu vực.
Trong suốt những chặng đường cống hiến và trưởng thành, các TTQĐ
đã có những gương sáng về ý chí chiến đấu, về thái độ phục vụ người bệnh,
thể hiện phẩm chất cao đẹp của người thầy thuốc quân đội - anh bộ đội Cụ
Hồ, được bộ đội và nhân dân yêu mến.
Hiện nay các TTQĐ đang thực hiện các chủ trương, chính sách về y tế
của Đảng và Nhà nước, tham gia các hoạt động kết hợp quân - dân y, khám
chữa bệnh cho nhân dân, làm công tác vệ sinh phòng dịch, khắc phục hậu quả
thiên tai và bắt đầu tham gia vào các hoạt động cứu trợ nhân đạo, bảo vệ hòa
bình của Liên Hợp Quốc.



7
Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI đã nhận định, cùng với sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước “Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng” [17,
tr.155]. Do những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, của chủ nghĩa cá
nhân đã dẫn tới sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, trong đó có đội ngũ thầy thuốc.
Đã có những biểu hiện chạy theo đồng tiền, thiếu ý thức trách nhiệm
khi phục vụ người bệnh, coi thường sức khoẻ và tính mạng của người bệnh,
làm giảm lòng tin đối với bộ đội và nhân dân. Một số cán bộ, nhân viên y tế
có những nhận thức sai lệch về giá trị y đức, sao nhãng việc rèn luyện, tu
dưỡng bản thân. Những biểu hiện tiêu cực này nếu chậm khắc phục sẽ làm xói
mòn lòng tin của nhân dân đối với truyền thống tốt đẹp của ngành y tế nói
chung và ngành quân y nói riêng.
Về phương diện nghiên cứu lý luận, ở trong nước và trên thế giới đã có
nhiều công trình nghiên cứu về y đức và giáo dục đạo đức cho người thầy
thuốc nói chung. Tuy nhiên vấn đề phát triển y đức của người TTQĐ, đặc biệt
trong điều kiện KTTT, hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay chưa có một tác
giả, một công trình nào nghiên cứu sâu một cách có hệ thống.
Việc đi tìm lời giải đáp cho vấn đề phát triển y đức của người TTQĐ
trong thời kỳ mới là một đòi hỏi khách quan, có tính cấp thiết cả về mặt lý luận
và thực tiễn. Với những lý do trên chúng tôi chọn vấn đề Phát triển y đức của
người thầy thuốc quân đội hiện nay làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và khảo sát, đánh giá hiện trạng y
đức của người TTQĐ, luận án đề xuất các biện pháp phát triển y đức góp
phần hoàn thiện nhân cách người TTQĐ trong tình hình hiện nay.



8
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về y đức và PTYĐ của người TTQĐ.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá tình hình PTYĐ của người TTQĐ hiện
nay và nguyên nhân của những hạn chế.
- Đề xuất các biện pháp PTYĐ của người TTQĐ hiện nay.
- Tiến hành thực nghiệm một số biện pháp PTYĐ của người TTQĐ đã
đề xuất.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình giáo dục, tu dưỡng, rèn luyện nhân cách người TTQĐ.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Phát triển y đức của người TTQĐ trong giai đoạn hiện nay.
4.3. Phạm vi, giới hạn nghiên cứu
- Về nội dung: đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và các biện
pháp phát triển y đức của người TTQĐ.
- Về khách thể khảo sát: các thầy thuốc đang công tác trong các bệnh
viện, các học viện, nhà trường và các đơn vị quân y; học viên đang học tập tại
các trường quân y; bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.
- Về thời gian: các số liệu điều tra, khảo sát giới hạn trong 5 năm, từ
năm 2009 đến năm 2014.
4.4. Giả thuyết khoa học
Sự phát triển y đức của người TTQĐ hiện nay bị chi phối bởi nhiều yếu
tố chủ quan và khách quan trong điều kiện cơ chế thị trường, sự phát triển
nhanh chóng của y học hiện đại, cũng như những đặc điểm của nghề y trong
quân đội. Nếu kết hợp giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức ngành y với quán
triệt pháp luật y tế, kỷ luật quân đội, nâng cao trình độ chuyên môn, cũng như
tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tiêu cực trong hành nghề, thì y đức

của người TTQĐ sẽ được phát triển.


9
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cách
mạng và giáo dục, phát triển nhân cách con người Việt Nam nói chung và y
đức của người thầy thuốc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa với phương pháp luận
giáo dục giá trị đạo đức.
- Đề tài nghiên cứu được tiến hành dựa trên quan điểm tiếp cận hệ
thống - cấu trúc, quan điểm lịch sử - lôgíc, quan điểm phát triển - hoạt động,
quan điểm thực tiễn để phân tích đánh giá, xem xét các vấn đề có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:
* Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá,
khái quát hoá các tài liệu lý thuyết chuyên ngành, liên ngành, các văn kiện,
nghị quyết, các văn bản pháp luật, chính sách của Đảng, Nhà nước và quân
đội có liên quan để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
* Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát khoa học: tri giác hoạt động nghề nghiệp của
các thầy thuốc, trong tiếp xúc với bệnh nhân, người nhà bệnh nhân, với đồng
nghiệp và với xã hội.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: lập phiếu và tổ chức điều tra
các hoạt động của bác sỹ, điều dưỡng viên, y sỹ, y tá, hộ lý, dược sỹ, dược tá,
cán bộ lãnh đạo chỉ huy, giảng viên và học viên sĩ quan quân y và với bệnh
nhân đang trong điều trị.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: trao đổi với thầy thuốc, bệnh nhân và

người nhà bệnh nhân về nhận thức, thái độ, hành vi y đức của thầy thuốc làm
cơ sở cho việc đánh giá kết quả của những biện pháp phát triển y đức.


10
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: nghiên cứu các báo cáo tổng kết,
kinh nghiệm quản lý của các đơn vị quân y, các bệnh viện, nhà trường trong
những năm gần đây.
- Phương pháp thực nghiệm có đối chứng: để khẳng định tính hiệu quả
của một số biện pháp đã đề xuất.
* Các phương pháp hỗ trợ
- Sử dụng các công thức toán thống kê và phần mềm máy tính để xử lý
các số liệu thu thập được từ các phương pháp khảo sát thực tiễn.
- Phương pháp chuyên gia xin ý kiến đánh giá của các chuyên gia, các
nhà sư phạm, nhà quản lý về các vấn đề liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp mới của luận án
- Về lý luận: luận án tổng quan những tư tưởng và các công trình
nghiên cứu về y đức, xây dựng các khái niệm cơ bản để làm cơ sở cho việc
giải quyết những vấn đề lý luận về y đức và PTYĐ của người thầy thuốc, xác
định các nội dung và tiêu chí đánh giá sự PTYĐ. Chỉ ra vai trò và những yếu
tố tác động tới sự PTYĐ của người TTQĐ.
- Về thực tiễn: làm rõ bối cảnh hiện nay, đặc trưng hoạt động của
người TTQĐ; đánh giá thực tiễn PTYĐ của người thầy thuốc bằng các số liệu
khách quan, chỉ ra những kinh nghiệm và xu hướng PTYĐ của người TTQĐ,
đề xuất các biện pháp PTYĐ của người TTQĐ hiện nay, đặc biệt là biện pháp
xây dựng chương trình, nội dung giáo dục y đức với tư cách là môn học độc
lập trong đào tạo ở các trường y quân đội cũng như bồi dưỡng cho các cán bộ
quân y ở đơn vị cơ sở là một biện pháp cơ bản, lâu dài.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận: luận án góp phần bổ sung cơ sở lý luận về y đức và sự

PTYĐ của người thầy thuốc nói chung, người TTQĐ nói riêng với tư cách cơ
sở lý luận của đề tài.


11
- Về thực tiễn: luận án cung cấp tài liệu về thực trạng PTYĐ của người
thầy thuốc, đề xuất các biện pháp PTYĐ của người TTQĐ với tư cách cơ sở
thực tiễn của đề tài.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, bồi dưỡng y đức và quản lý đơn vị cho giảng viên, cán bộ quản lý ở các
đơn vị quân y, các bệnh viện trong và ngoài quân đội.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu nội dung của đề tài gồm: phần mở đầu, tổng quan về vấn đề
nghiên cứu, 4 chương (11 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục các công trình
nghiên cứu của tác giả đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.




















12
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


1. Những nghiên cứu về y đức và phát triển y đức ở nước ngoài
1.1. Những tư tưởng về y đức và phát triển y đức trên thế giới
Đạo đức của người thầy thuốc (y đức) là một hiện tượng được hình
thành và phát triển rất sớm trong lịch sử của nền y học thế giới.
Trong nền văn minh Lưỡng Hà, (3.700 - 1000 TCN) trong một văn tự
cổ nhất có ghi: Toàn thể dân chúng đều là thầy thuốc…kẻ đi đường có bổn
phận thăm hỏi bệnh nhân và không được làm thinh, lẳng lặng bỏ đi [108], Bộ
tộc Sumerien đặt ra bộ luật Hamourabi qui định tiêu chuẩn hành nghề y một
cách đơn giản: người thầy thuốc được lấy tiền khám và chữa bệnh (10 đồng
tiền nếu người bệnh là chủ nô, 2 đồng tiền nếu người bệnh là nô lệ - tiền
khám và chữa bệnh cho nô lệ do chủ nô chi trả) [109].
Trong nền văn minh Ai Cập, ngành y đã được chuyên môn hoá nhưng
mang tính thần quyền. Do ảnh hưởng của thần quyền dẫn đến quan niệm: Đạo
đức của người y sĩ cũng như đạo đức của tu sĩ có thiên mệnh chữa khỏi bệnh
tật và chính Chúa đã tạo ra họ. Do đó, đức tính chủ yếu của thầy thuốc là đức
tin, phương pháp điều trị cơ bản là cầu xin [107].
Phật giáo cho rằng: Tất cả chỉ là không nhưng đời vẫn lấy không làm có.
Tất cả chỉ là duyên khởi những người đời vẫn chấp nhận ngã pháp cho nó là
thật, để từ đó lấy cho bằng được và giữ cho bằng được. Thầy thuốc còn phải
chấp nhận ngã pháp để hành nghề. Y đức ở Phật là lòng vị tha và tránh xa
những cám dỗ trong hành nghề. Giáo lý của nhà Phật là để đức giúp người, đã
theo Phật thì hành phải thiện và ý cũng phải thiện. Thiện là tiêu chuẩn đạo đức

của người thầy thuốc mà không phải lúc nào cũng đạt được, bởi thiện và ác đều
là pháp tướng, trong thiện có ác, trong ác có thiện. Người thầy thuốc đạt đến
đỉnh cao của y đức phải tự rèn luyện mình để cuối cùng cứu người mà không
biết mình cứu người, giống như hơi thở, thở ra mà không biết mình đang thở.


13
Người giác ngộ phải hoà được cái tâm nhỏ bé của mình vào tâm chân như của
nhà Phật, để đạt được lý tưởng đạo đức của nghề y [107].
Theo Lão Tử nhà văn hoá Trung Hoa cổ đại thì: bản chất của nghề y là
cứu người, cái đức của người thầy thuốc là cứu người mà không thấy rằng
mình cứu người, vì đấy là lý đương nhiên như chim bay, cá lượn, gió thổi.
Chờ đến lúc vì nhân mới làm, có nghĩa mới làm, vì lễ hay pháp mới làm, đã
có phân biệt thân sơ, có chuyện trả ân, có sợ phép nước. Đức lúc này mỏng
quá và không còn là đạo nữa.
Ở phương Tây cách đây hơn 2500 năm, Hyppocrate người được coi là
ông tổ của ngành y, ông đã nêu lên cơ sở đạo lý mà người làm nghề thầy thuốc
phải tuân theo và phải tuyên thệ trước khi bước vào nghề: “Tôi sẽ chỉ dẫn mọi
chế độ có lợi cho người bệnh, tuỳ theo khả năng và sự phán đoán của tôi, tôi sẽ
tránh mọi điều xấu và bất công, tôi suốt đời hành nghề trong sự vô tư và cần thiết,
dù vào bất cứ nhà nào, tôi cũng chỉ vì lợi ích của người bệnh…”[95, tr.6-8].
Thời Hy Lạp cổ đại đã có các tiêu chuẩn cho người thầy thuốc, đó là
phải biết chữ, phải khôn khéo, linh hoạt, trung thực, có sức khoẻ, biết giữ vệ
sinh, có đức độ, bình tĩnh và không được mê tín.
Thời kỳ La Mã cổ đại, tư tưởng y đức của người thầy thuốc được phát
triển mạnh, đã có Hội thầy thuốc nhân dân (Archiatri popularis) được Thượng
viện bổ nhiệm, hội quy định thầy thuốc phải hành nghề nhân đạo, chữa bệnh
không lấy tiền đối với người nghèo, có quyền được nhận tiền thưởng của
người bệnh khi họ bình phục, nhưng nghiêm cấm hối lộ, mặc cả, nếu vi phạm
người thầy thuốc sẽ bị tước quyền hành nghề. Galien (131-201) là thầy thuốc

vĩ đại đã có nhiều đóng góp về y đức. Galien yêu cầu người thầy thuốc phải
có tấm lòng nhân đạo, tình thương, tế nhị, khôn khéo, mềm dẻo. Thầy thuốc
Scribonius đã mô tả y đức như là những cam kết thương yêu và thể hiện sự
nhân từ để làm giảm đi những đau đớn, đau khổ của người bệnh.


14
Thời kỳ phong kiến, Avicènne (980-1037) một danh y nổi tiếng đã biên
soạn y điển “Cannon of medecine” 5 tập, “quy tắc khoa học y học”, “đạo
đức”. Lần đầu tiên môn đạo đức y học được giảng dạy tại trường đại học
Salerne (TK9 - TK13). Giáo sư Arnold đã soạn và viết bộ luật “Salerne về sức
khoẻ”. Bộ luật Salerne được trình bày bằng thơ nói tới vai trò y học trong đời
sống, phương pháp dự phòng, chữa bệnh và đặc biệt quan tâm tới đạo đức của
người thầy thuốc.
Thời kỳ tư bản phát triển, đạo đức xã hội nói chung, y đức nói riêng
tiến bộ nhiều so với thời kỳ trung cổ. Sydenham (TK18) cho rằng thầy thuốc
là công bộc của lòng từ thiện thiêng liêng, phục vụ tận tâm và tạo điều kiện
cho người bệnh lạc quan tin tưởng khi chữa bệnh.
Thời kỳ xã hội chủ nghĩa, đạo đức y học dựa trên các yêu cầu chung
của đạo đức xã hội. Đạo đức y học có mục đích là cứu người, trách nhiệm
nghề nghiệp yêu cầu người thầy thuốc phải có kiến thức khoa học, nghệ thuật
chữa bệnh và chuyên môn sâu. Thầy thuốc hành nghề vì mục đích trong sáng,
hết lòng vì người bệnh, không vụ lợi. Nguyên lý y tế XHCN tạo tiền đề cho
người thầy thuốc thực hiện nghĩa vụ và lý tưởng đạo đức của mình, cũng là
điều kiện để nâng cao tay nghề.
Theo dòng phát triển của lịch sử y học, khái niệm đạo đức y học dần
được hoàn thiện. Các tổ chức y tế quốc tế và các nước đã công bố các quy
định về đạo đức trong thực hành y học và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
Năm 1947, Điều lệ Nuremberg là văn kiện quốc tế đầu tiên về đạo đức
trong nghiên cứu y, sinh học có thử nghiệm trên con người. Điều lệ này nhấn

mạnh đến quyền lợi của đối tượng tham gia nghiên cứu và nghĩa vụ của người
thực hiện nghiên cứu: “Thử nghiệm liên quan đến con người cần phải có sự
tự nguyện đồng ý của đối tượng tham gia…người tham gia thử nghiệm phải
có đủ kiến thức, hiểu biết và có thể đưa ra các quyết định…”[98, tr.5-6].


15
Năm 1953, Hội đồng Y học đa khoa của Anh đã đưa ra những tiêu chí
cụ thể liên quan đến đạo đức trong “thực hành y học” đối với các bác sĩ làm
việc trong các cơ sở chăm sóc sức khoẻ. Quy định này được bổ sung vào năm
2006: “Bệnh nhân cần bác sĩ giỏi, bác sĩ giỏi coi việc chăm sóc bệnh nhân là
mối quan tâm hàng đầu của mình, bác sĩ phải có năng lực cập nhật kiến thức
và kỹ năng, thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với bệnh nhân và đồng nghiệp,
bác sĩ phải trung thực, đáng tin cậy và hành động chính trực” [25, tr.37].
Năm 1953, Hội đồng Điều dưỡng Quốc tế (ICN) thông qua “Quy tắc
quốc tế về y đức dành cho điều dưỡng viên” và sửa đổi năm 2005: “Điều
dưỡng viên cần tôn trọng quyền con người, bao gồm các quyền về văn hoá,
quyền được sống và lựa chọn, quyền tự chủ và cư xử tôn trọng. Chăm sóc
điều dưỡng là tôn trọng và không bị hạn chế bởi lứa tuổi, màu da, tín ngưỡng,
văn hoá, tàn tật hay bệnh tật, giới tính, tình dục, quốc tịch, chính trị, chủng
tộc hay tầng lớp xã hội” [25, tr.37].
Năm 1964, Hội Y học Thế giới công bố “Tuyên ngôn Helsinki - Các
nguyên tắc đạo đức trong các nghiên cứu y học có liên quan đến con người”.
Tuyên ngôn này được sửa đổi nhiều lần, lần gần đây nhất là năm 2008. Tuyên
ngôn đưa ra những quy định về đạo đức cho các nghiên cứu y học và trách
nhiệm của người thực hiện nghiên cứu: Trách nhiệm của bác sĩ khi tham gia vào
các nghiên cứu y học là bảo vệ cuộc sống, sức khoẻ, phẩm chất, giá trị, quyền tự
quyết, sự riêng tư và bảo mật thông tin cá nhân của đối tượng nghiên cứu [106].
Năm 1981, Hội y học thế giới xây dựng “Quyền bệnh nhân”, trong đó
đề cập đến 11 quyền lợi của bệnh nhân khi cần được chăm sóc bằng dịch vụ y

tế. “Quyền bệnh nhân” được sửa đổi tại Hội nghị lần thứ 47, tháng 10 năm
2005: Bệnh nhân có quyền tự do lựa chọn bác sĩ điều trị, bệnh viện, cơ sở y tế
tư nhân hoặc công lập; bệnh nhân có quyền từ chối tham gia vào các nghiên
cứu khoa học hoặc giảng dạy y khoa… [105].


16
Năm 1999, Hội Y học Thế giới đã ra khuyến nghị: “Giải pháp tích hợp
giáo dục đạo đức y học và quyền con người vào chương trình đào tạo của các
trường y trên toàn thế giới” [25, tr.38]. Học tập và nghiên cứu về đạo đức y
học giúp cho sinh viên y khoa nhận thức được các tình huống phức tạp, khó
khăn, cách cư xử theo nguyên lý và lẽ phải.
Năm 2001, Liên minh Châu Âu đã có hướng dẫn về thử nghiệm lâm
sàng thuốc, từ năm 2004 hướng dẫn này được đưa vào các văn bản luật pháp
của các quốc gia trong Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Australia,
Canada [101], [103].
Đây chính là những lời tuyên bố trên quy mô toàn cầu về các vấn đề
đạo đức trong y học, các hoạt động y dược ứng dụng trên con người, hướng
dẫn về đạo đức cho các bác sỹ, các nhà khoa học tham gia vào các hoạt động
y sinh trên lâm sàng và cận lâm sàng [102], [103], làm cơ sở cho việc xây
dựng hệ thống luật pháp trong ngành y ở từng quốc gia và trên quốc tế.
1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài về y đức và phát triển y đức
Ở nước ngoài, vấn đề y đức, giáo dục, phát triển y đức của người thầy
thuốc đã được các tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, tiêu biểu
là các công trình sau đây:
“Những lời giáo huấn về y đức, tiền đề của y học” của Pappworth M. H.
Tác giả cho rằng thầy thuốc phải có đạo đức, đạo đức nghề y chính là tôn trọng
con người, thiện tâm và công bằng đối với người bệnh [97].
“Vấn đề hàng đầu trong chăm sóc sức khoẻ” của Butterworths Heinemann,
Nigel C. H. Stott. Các tác giả nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong chăm sóc sức

khoẻ bệnh nhân, trong thực hành lâm sàng và trong nghiên cứu y học. Chăm sóc
y tế thực chất là tăng cường sức khoẻ thể chất và tinh thần cho người bệnh để họ
sớm được trở về với môi trường sống và làm việc [99].
“Đạo đức trong thực hành y học” của Verlag Berlin Heidelberg, Robet
K. Mckinly, Pauline A. Mc Avoy. Các tác giả cho rằng Nhà nước phải có


17
những qui định về đạo đức nghề nghiệp cho người thầy thuốc và cần xây
dựng một hệ thống luật pháp trong hoạt động nghề y [100].
“Nhận thức của sinh viên y khoa về chương trình giáo dục y đức” của
Johnston C. và Haughton P. Các tác giả nhấn mạnh phải có một chương trình
giáo dục y đức cho sinh viên các trường y, việc giảng dạy này không chỉ cung
cấp cho họ công cụ để phân tích các tình huống trong thực hành lâm sàng, mà
còn giúp họ phát triển đạo đức nghề nghiệp trong tương lai [96].
Trong đề tài: “Đánh giá một khoá học về đạo đức y học” của Robert K,
Mc Kinley và Pauline A. Mc Avoy, cho thấy những bác sĩ tham gia khoá đào
tạo hình thành kỹ năng phân tích các tình huống lâm sàng, nhận biết các vấn
đề đạo đức trong khám, chữa bệnh. Khoá học tạo cơ hội cho các bác sĩ thảo
luận, phân tích các vấn đề y đức, những lợi ích đối với bệnh nhân mỗi khi đưa
ra các chỉ định điều trị cho họ [100].
Trong tác phẩm: “Phương pháp lâm sàng” của Butterworth Heinemann;
Johnston C. Haughton P. Các tác giả đã nhấn mạnh người thầy thuốc phải có
đạo đức trong xử lý các tình huống lâm sàng, phải biết xác định lợi ích hay có
hại khi sử dụng từng loại thuốc, từng phương pháp điều trị để tìm ra phương
án tốt nhất [96], [97].
Ở các nước phát triển, các nhà khoa học đã nghiên cứu ứng dụng nhiều
lý thuyết khoa học để chăm sóc y tế cho bệnh nhân, hỗ trợ cho cán bộ y tế các
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng chăm sóc và điều trị cho người bệnh. Chúng ta có
thể thấy một số lý thuyết sau:

Lý thuyết Maslow về “năm cấp độ nhu cầu” của con người giúp cán bộ
y tế lập kế hoạch chăm sóc sức khoẻ cho người bệnh [103], [104].
Lý thuyết về “sức khoẻ và sự khoẻ mạnh” hỗ trợ kiến thức cho cán bộ y
tế để tìm ra các phương pháp chăm sóc sức khoẻ cho bệnh nhân, tư vấn cho
gia đình, cộng đồng theo các yêu cầu điều trị [103], [104].


18
Lý thuyết “tâm lý xã hội” hướng dẫn cán bộ y tế theo dõi người bệnh
về mặt tâm lý, tinh thần tại các chuyên khoa [103], [104].
Lý thuyết Nightingale: coi môi trường sống như một phương tiện chữa
bệnh, cán bộ y tế cần biết những ảnh hưởng của môi trường đến tâm lý và sức
khoẻ của bệnh nhân, từ đó xây dựng môi trường lành mạnh hỗ trợ tìm ra
phương pháp chữa bệnh có hiệu quả [103], [104].
Lý thuyết Henderson giúp cho cán bộ y tế đáp ứng 14 nhu cầu cơ bản
cho người bệnh khi họ ốm đau [103], [104].
Như vậy, vấn đề y đức luôn thu hút sự chú ý của các nhà khoa học trên
thế giới. Tuy có những khác nhau trong cách tiếp cận, do các điều kiện kinh
tế, xã hội, nhưng các nhà khoa học đều cho rằng người thầy thuốc phải có đạo
đức trong xử lý các tình huống thực hành lâm sàng, trong chăm sóc sức khoẻ
cho bệnh nhân.
Cho đến thời điểm hiện nay ở các nước phát triển hiện chưa có một
công trình nào đề cập tới việc phát triển y đức của người TTQĐ.
2. Những nghiên cứu về y đức và phát triển y đức ở Việt Nam
2.1. Những tư tưởng về y đức và phát triển y đức ở Việt Nam
Đạo đức người thầy thuốc Việt Nam được hình thành và phát triển theo
bề dày lịch sử của nền y học nước nhà, lúc đầu mang màu sắc từ bi, bác ái,
chịu ảnh hưởng của đạo đức truyền thống phương Đông, trên cơ sở Nho giáo
và Phật giáo, tạo nên những nét riêng trong đạo đức nghề y Việt Nam.
Thời xa xưa các thầy lang, thầy thuốc thường sống nương nhờ cửa Phật

(ở trong chùa) làm điều thiện, nuôi trồng cây thuốc, bốc thuốc chữa bệnh cứu
người, không lấy tiền của người nghèo.
Phạm Công Bân (thế kỷ 13) là Thái y lệnh nhưng về nhà thì chữa bệnh
cho dân nghèo. Ông tự bỏ tiền làm nhà nuôi dưỡng, chữa bệnh cho người
nghèo, người tàn tật, kẻ mồ côi.


19
Chu Văn An (1292-1370) là thầy thuốc, thầy giáo có đức độ và tài năng.
Ông đã mở trường dạy học, nghiên cứu y học, sáng tạo các phương thuốc đông
y, tổng kết nhiều bệnh án và biên soạn nhiều sách (trong đó, quyển “Học chú
giải tạp chí biên” có ý nghĩa quan trọng trong chữa bệnh). Ông rất coi trọng
nhân, minh, trí. Theo ông, mấu chốt của nghề làm thuốc là nhân. Phải có nhân
rồi mới có minh, trí. Đức độ là điều cần nhất của người thầy thuốc.
Đại danh y Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh, 1325-1399), có những quan
điểm y học thực tế và nhân đạo. Ông kết hợp việc giảng kinh và cứu tế, trồng
và chế thuốc để phát cho người bệnh, huấn luyện y học cho tăng đồ. Ông đã
tổng hợp y dược dân tộc cổ truyền trong bộ “Nam dược thần hiệu”. Về y đức
Tuệ tĩnh cho rằng: “Làm thuốc là kế tục sự nghiệp của các bậc tiên thánh,
phải có tấm lòng nhân nghĩa”. Ông khuyên người thầy thuốc phải làm điều
lành, phải giúp bệnh nhân một cách rộng rãi, để đem lại cái phúc cho hậu thế:
“Dám khuyên y học hậu lai, tế sinh, tích thiện, phúc trời hậu ta” [81, tr.30].
Thế kỷ XV, bộ luật Hồng Đức (Triều Lê), đã có những quy định hành
nghề y, trong đó có quy định trừng phạt kẻ vụ lợi, cố tình chữa bệnh kéo dài
hoặc dùng thuốc gây chết người
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791) là ngôi sao sáng của
nền y học Việt Nam. Ông là người xây dựng hệ thống các chuẩn mực về y
đức cho người hành nghề y ở Việt Nam trên cơ sở kế thừa các tư tưởng về y
đức văn hoá phương Đông phù hợp với văn hoá Việt Nam. Về đạo đức người
thầy thuốc, ông viết: “nếu còn có thể xoay xở được lại bó tay dửng dưng mặc

bệnh diễn biến mà không chịu dốc sức, hết lòng; chỉ thở vắn than dài, không
làm gì hết. Coi trọng tiền tài, xem thường tính mệnh”, thì là thầy thuốc để làm
gì? [30, tr.26]. Với ông bất kỳ hoàn cảnh nào người thầy thuốc cũng phải
quên đi lợi ích và danh dự cá nhân để tìm mọi cách chữa trị cho người bệnh,
“còn nước còn tát”. Ông luôn nêu cao tấm gương y đức, cả cuộc đời mình ông


20
luôn tự nhắc nhở phải: tiến đức, tu nghiệp. Tiến đức là mỗi ngày phải rèn
luyện cho toàn thiện, toàn mỹ về đạo đức của người hành nghề y. Ông nói:
“Đạo làm thuốc là một nhân thuật, có nhiệm vụ giữ gìn tính mạng người ta,
phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc giúp người, làm
phận sự của mình mà không cầu lợi kể công” [30, tr.7]. Ông phê phán những
thầy thuốc mỗi khi xem bệnh thường hay dọa nạt: “nhân lúc cha mẹ người ta
gặp cơn nguy cập sợ hãi, hoặc bắt bí người ta trong cơn mưa đêm tối khó
khăn, gặp bệnh dễ thì trộ là bệnh khó, bệnh khó thì dọa là bệnh chết”, không
còn tí lương tâm nào!. “Đối với kẻ giầu sang thì sốt sắng để mong lấy lợi; đối
với người nghèo khó thì lạnh nhạt thờ ơ với sự sống chết” [30, tr.26]. Ông kết
luận “Không có nghề nào đạo đức bằng nghề y và không nghề nào vô nhân
đạo bằng nghề y thiếu đạo đức” [30, tr.11].
Ngay từ những ngày đầu tiên sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã quan tâm đặc biệt tới sự phát triển nền y học nước nhà. Vấn đề y
đức đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới - y đức cách
mạng. Theo Người: y đức không chỉ là lòng yêu thương người bệnh, mà còn
là ý thức nghề nghiệp, sự trau dồi để nâng cao năng lực chuyên môn nhằm
đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ của
bộ đội và nhân dân.
Đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là tình yêu thương đồng bào, chiến sĩ
của mình, mà còn toả sáng đến thương, bệnh binh, tù, hàng binh của đối
phương trong chiến tranh. Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ số tù binh của

quân đội Pháp bị ta bắt sống là 11.721 người, trong đó có 4.436 người bị
thương. Bác sĩ phẫu thuật người Pháp Grauwin nói với đại tướng Võ Nguyên
Giáp: “Thương binh chúng tôi còn nhiều, họ nằm rải rác ở các hầm họ đang
ở trong tình trạng vô cùng tồi tệ Trời mưa, hầm nào cũng bùn lầy ứ đọng,
thương binh phải nằm 2 - 3 tầng. Vệ sinh tệ hại, xin các ông giúp đỡ họ”.


21
Nhận được tin này Hồ Chủ tịch đã ra chỉ thị: “Hãy cứu chữa và săn sóc họ. Vì
họ là người thua trận ” đó chính là đạo đức của người thầy thuốc của quân
đội cách mạng, đạo đức của người Việt Nam.

Tháng 2/1955, Hồ Chủ tịch đã gửi thư tới Hội nghị y tế toàn quốc,
Người đề cập tới 3 vấn đề:
Xây dựng một nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc và đại chúng.
Phải đặt ra các yêu cầu về y đức của người cán bộ y tế.
Phải kết hợp đông - tây y, kết hợp quân - dân y, kết hợp phòng bệnh với
chữa bệnh.
Trong đó, y đức là vấn đề trung tâm, Người viết: “Phải thương yêu,
chăm sóc người bệnh như là anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng
như mình đau đớn, lương y phải như từ mẫu” [54, tr.476 - 477]. Bác nhắc
nhở: “Bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ
họ”. Hiểu được nỗi đau của anh em thương, bệnh binh, Bác đã dặn dò các
thầy thuốc: “Một số anh em quân nhân không được trấn tĩnh, đối với thầy
thuốc không được nhã nhặn, gặp những trường hợp như vậy, chúng ta phải
lấy tình thân ái mà cảm động, cảm hoá họ ” [52, tr.395 - 396].
Trên cương vị quản lý nhà nước về y tế, năm 1979, Bộ Y tế xây dựng 5
tiêu chuẩn của người cán bộ y tế nhân dân. Năm 1989, Quốc hội nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam thông qua “Luật bảo vệ sức khoẻ Nhân dân”. Luật qui
định: Thầy thuốc phải có y đức, có tinh thần trách nhiệm, tận tình cứu chữa

người bệnh; chấp hành nghiêm chỉnh các qui định chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ
thuật y tế [70]. Năm 1996, Bộ Y tế ban hành Quyết định về 12 điều y đức,
quy định về tiêu chuẩn đạo đức của người làm công tác y tế: Y đức là phẩm
chất tốt đẹp của người làm công tác y tế, được biểu hiện ở tinh thần trách
nhiệm cao, tận tuỵ phục vụ, hết lòng thương yêu chăm sóc người bệnh [2]
Năm 2009, Quốc hội nước ta thông qua “Luật khám chữa bệnh” qui định về


22
các nguyên tắc trong hành nghề khám chữa bệnh: Bảo đảm đạo đức nghề
nghiệp của người hành nghề [71].
Ngành quân y Việt Nam luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về y
đức cách mạng. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều
cán bộ, chiến sỹ quân y, dân y đã làm việc quên mình để cứu chữa thương,
bệnh binh, bệnh nhân. Những tấm gương sáng về y đức của người thầy thuốc
được bộ đội và nhân dân ca ngợi và ghi công, như các bác sĩ Đặng Văn Ngữ,
Tôn Thất Tùng, Đặng Thuỳ Trâm, Y tá Trần Xuân Dậu, Hoàng Xuân Thuý
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về y đức và phát triển y đức
Ở Việt Nam, vấn đề y đức và giáo dục y đức cũng đã thu hút được sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Đã có nhiều công trình được
công bố, trong đó có một số công trình tiêu biểu sau đây:
“Phát triển sự nghiệp y tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” do Đỗ
Nguyên Phương chủ biên. Trong cuốn sách này, các tác giả bàn về y đức, y
đạo của người thầy thuốc trong lịch sử y học, chỉ rõ thực trạng y đức hiện nay
và nêu ra những yêu cầu cấp bách phải nâng cao đạo đức nghề nghiệp của
người thầy thuốc [65].
“Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển ở Việt Nam” do Đỗ
Nguyên Phương chủ biên [66], “Quán triệt quan điểm về y đức của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong ngành y tế Việt Nam hiện nay” của tác giả Phan Việt Dũng
- Trần Văn Thuỵ [14], “Suy nghĩ về vinh dự và trách nhiệm của nghề nghiệp y

tế” của tác giả Phạm Mạnh Hùng [40]. Trong những công trình này, các tác giả
đã làm rõ quan điểm về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, đề ra các
yêu cầu về y đức cho người thầy thuốc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Luận án Tiến sĩ: “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực y tế
ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy Quang, đã nghiên cứu các hoạt
động xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện pháp luật về y tế và việc xử lý
các hành vi vi phạm pháp luật [69].


23
Trong lĩnh vực y học quân sự, cũng có một số công trình nghiên cứu
tiêu biểu như:
“Niềm tự hào nửa thế kỷ xây dựng, phục vụ và trưởng thành của Cục
Quân y” của tác giả Nguyễn Văn Thưởng. Tác giả cho biết cán bộ, nhân viên
quân y trong các thời kỳ chiến tranh đã lo từng viên thuốc, từng giấc ngủ cho
bệnh nhân, biết nhường cơm, nhường thuốc, cứu sống nhiều thương binh,
bệnh binh [85, tr.5].
“Phát huy truyền thống, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo
đảm quân y” của tác giả Nguyễn Văn Thăng, đã nhấn mạnh các thầy thuốc
quân y phải tận tuỵ, coi sức khoẻ của bệnh nhân như sức khoẻ của người thân
trong gia đình mình [82, tr.8].
Luận án tiến sĩ Tâm lý học: “Vấn đề giao tiếp của bác sỹ quân y với
người bệnh trong quá trình khám chữa bệnh”, của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Hà, đã phân tích bản chất xã hội và tâm lý trong quá trình giao tiếp của bác sỹ
quân y với người bệnh, đánh giá thực trạng và đề xuất các biện pháp nâng cao
hiệu quả giao tiếp của bác sỹ quân y. Nghiên cứu của tác giả không chỉ góp
phần nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh, mà còn giúp phát triển năng lực
nghề nghiệp, hoàn thiện nhân cách người thầy thuốc quân y trong giai đoạn
hiện nay [28].
Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng: “Các giải pháp kết hợp giáo dục y

đức thông qua dạy học các môn y học chuyên ngành”, do Nguyễn Quang Phúc
làm chủ nhiệm, cho rằng giáo dục y đức là sự kết hợp “hai trong một” của quá
trình đào tạo người thầy thuốc quân y. Giáo dục y đức là điều kiện để phát triển
đồng thời cả năng lực chuyên môn và phẩm chất nhân cách của người thầy
thuốc. Theo các tác giả, giáo dục y đức thông qua dạy học các môn y học
chuyên ngành là trang bị cho người học kiến thức, kỹ năng chuyên môn y học,
trên cơ sở đó hình thành các phẩm chất y đức cho người học. Giáo dục y đức là
một yêu cầu tất yếu trong quá trình đào tạo y nghiệp của người TTQĐ [64].

×