Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Thời gian phát dục và khả năng tiêu thụ vật mồi của bọ xít bắt mồi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 44 trang )


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA SINH - KTNN

======


PHẠM THỊ DUNG

THỜI GIAN PHÁT DỤC VÀ KHẢ NĂNG
TIÊU THỤ VẬT MỒI CỦA BỌ XÍT BẮT MỒI
Andrallus Spinidens Fabricius


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Chuyên ngành: Kỹ thuật Nông nghiệp


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. VŨ THỊ THƢƠNG







HÀ NỘI, 2015

Phạm Thị Dung i K37D – Sinh KTNN


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp tôi đã nhận được sự
giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô, gia đình và bạn bè. Vì vậy khi hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp này tôi rất mong muốn được gửi lời cảm ơn chân thành
tới tất cả mọi người.
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Thạc sĩ
Vũ Thị Thương – Giảng viên khoa Sinh – KTNN – Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2 đã hướng dẫn tận tình trong quá trình tôi thực hiện khóa luận tốt
nghiệp này.
Tôi xin được chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo công tác tại phòng
thí nghiệm Khoa Sinh-KTNN – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo
điều kiện thuận lợi và giúp đỡ về thời gian cũng như cơ sở vật chất, thiết bị thí
nghiệm cho tôi nghiên cứu, thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ, nông dân địa phương nơi thực hiện
đề tài đã cộng tác, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong việc bố trí thí
nghiệm và thu thập mẫu vật.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2015
Người thực hiện


Phạm Thị Dung




Phạm Thị Dung ii K37D – Sinh KTNN

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan rằng mọi số liệu sử dụng để hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp sau đây đều được ghi nhận từ các thí nghiệm một cách trung thực và
chưa được sử dụng trong bất cứ tài liệu nào.
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2015
Người thực hiện


Phạm Thị Dung
















Phạm Thị Dung iii K37D – Sinh KTNN

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1

2. Mục đích và yêu cầu của đề tài 2
2.1 Mục đích 2
2.2.Yêu cầu 2
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 4
1.1. Tổng quan nghiên cứu trong nước 4
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu về bọ xít bắt mồi 4
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens Fabricius 9
1.2. Tổng quan nghiên cứu nước ngoài 10
1.2.1. Tổng quan nghiên cứu bọ xít bắt mồi 10
1.2.2. Tổng quan nghiên cứu về bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens 15
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
2.1. Thời gian nghiên cứu 16
2.2. Địa điểm nghiên cứu 16
2.3. Đối tượng nghiên cứu 16
2.4. Nội dung nghiên cứu 16
2.5. Phương pháp nghiên cứu 16
2.5.1. Phương pháp điều tra biến động số lượng 16
2.5.2. Phương pháp thu nguồn bọ xít Andrallus spinidens Fabricius và thức
ăn của chúng (sâu tơ Plutella xytostella) 17
2.5.3. Phương pháp nuôi sinh học A.spinidens F. 18
2.5.4. Thí nghiệm xác định khả năng lựa chọn pha phát dục vật mồi sâu tơ P.
xylostella của trưởng thành bọ xít Andrallus spinidens Fabricius 18
Phạm Thị Dung iv K37D – Sinh KTNN
2.5.5. Thí nghiệm xác định khả năng tiêu thụ vật mồi sâu tơ P.xylostella với
mỗi pha phát dục của bọ xít A.spinidens F. 18
2.5.6. Xử lý, bảo quản mẫu vật 19
2.5.7. Phương pháp xử lý số liệu 19
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 21
3.1. Diễn biến mật độ sâu tơ Plutella xytotella (L) trên bắp cải vụ thu đông
2014 tại Nam Viêm – Phúc Yên – Vĩnh Phúc 21

3.2. Diễn biến mật độ bọ xít Andrallus spindens Fabricius trên cây bắp cải vụ
thu đông 2014 tại Nam Viêm – Phúc Yên – Vĩnh Phúc 23
3.3. Thời gian phát dục các pha của Andrallus spinidens Fabricius khi nuôi
bằng sâu tơ Plutella xylostella (Linaeus) 24
3.4. Khả năng tiêu thụ vật mồi (sâu tơ) của bọ xít bắt mồi Andrallus
spinidens Fabricius 26
3.4.1. Khả năng lựa chọn các pha phát dục vật mồi sâu tơ Plutella xylostella
của trưởng thành Andrallus spinidens Fabricius 27
3.4.2. Khả năng tiêu thụ vật mồi sâu tơ Plutella xylostella của mỗi pha phát
dục Andrallus spinidens Fabricius 29
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 32
4.1. Kết luận 32
4.2. Đề nghị 32
TÀI LIỆU THAM KHẢO 33


Phạm Thị Dung v K37D – Sinh KTNN
DANH LỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt Diễn giải
1 BVTV Bảo vệ thực vật
2 Ctv, et al. Cộng tác viên
3 NXB Nhà xuất bản
4 CT Công thức
5 TB Trung bình




















Phạm Thị Dung vi K37D – Sinh KTNN
DANH LỤC BẢNG

Bảng 3.1: Diễn biến mật độ sâu tơ Plutella xylostella (L) trên lá bắp cải ở
Nam Viêm – Phúc Yên – Vĩnh Phúc 21
Bảng 3.2: Diễn biến mật độ bọ xít Andrallus spinidens (F) trên lá bắp cải ở
Nam Viêm – Phúc Yên – Vĩnh Phúc 23
Bảng 3.3: Thời gian phát dục của Andrallus spinidens F. nuôi bằng sâu tơ
Plutella xylostella (L) 25
Bảng 3.4: Khả năng lựa chọn các pha phát dục vật mồi sâu tơ Plutella
xylostella (L) của trưởng thành Andrallus spinidens F. 28
Bảng 3.5: Khả năng tiêu thụ vật mồi sâu tơ Plutella xylostella (L) (tuổi 3-4)
của mỗi pha phát dục Andrallus spinidens F. 29








Phạm Thị Dung vii K37D – Sinh KTNN
DANH MỤC HÌNH

Hình 3.1: Đồ thị biểu diễn diễn biến mật độ sâu tơ P. xylostella trên bắp cải ở
Nam Viêm – Phúc Yên – Vĩnh Phúc 22
Hình 3.2: Đồ thị biểu diễn diễn biến mật độ bọ xít A. spinidens trên cải bắp 24
Hình 3.3: Các giai đoạn phát triển của loài Andrallus spinidens F. 26
Hình 3.4. Bọ xít nâu viền trắng tuổi 1, 2, 3, 4, 5 27
Phạm Thị Dung 1 K37D – Sinh KTNN
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Trong sản xuất nông nghiệp, năng suất được coi là chỉ tiêu chủ yếu để
đánh giá kết quả sản xuất của các loại nông sản. Vấn đề chất lượng rất ít được
quan tâm như đặc tính sinh học của nông sản, dư lượng thuốc bảo vệ thực
vật,… Trong xu thế hội nhập hiện nay, đặc biệt khi Việt Nam là thành viên
của WTO thì năng suất chưa đủ để giải quyết vấn đề hiệu quả kinh tế, vì thế
người tiêu dùng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề chất lượng lương thực, thực
phẩm. Và nếu nói đến vấn đề sản xuất hàng hóa xuất khẩu thì chất lượng nông
sản được quan tâm hàng đầu.
Ở Việt Nam, theo ước tính hàng năm có tới 20% sản lượng nông sản
cây trồng bị thiệt hại do sâu bệnh gây ra (Nguyễn Công Thuật, 1996). Những
năm trước đây trong sản xuất nông nghiệp tập trung phòng trừ sâu hại bằng
biện pháp hóa học. Sau một thời gian thuốc hóa học đã biểu hiện những mặt
trái trong phòng trừ dịch hại đồng thời kéo theo những hậu quả không mong
muốn. Ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, gây ô nhiễm môi trường, tăng
tính kháng thuốc của dịch hại, tiêu diệt thiên địch, phá vỡ cân bằng sinh học

gây ra nhiều vụ “bùng nổ” sâu hại (Phạm Bình Quyền, 1994).
Khi áp dụng những biện pháp hóa học trong bảo vệ thực vật đã bộc lộ
nhiều nhược điểm thì các nhà nghiên cứu đã đưa ra giải pháp là sử dụng biện
pháp sinh học và những biện pháp sinh học này ngày càng khẳng định được
ưu thế vượt trội của mình. Một trong những biện pháp sinh học đang được
quan tâm hàng đầu hiện nay là việc sử dụng các loài thiên địch trong phòng
trừ dịch hại tổng hợp. Biện pháp sinh học càng được khẳng định khi ngày nay
chiến lược bảo vệ cây trồng được xác định không những bởi lợi ích kinh tế
trước mắt mà còn bởi sự an toàn sinh thái học, môi trường và sức khỏe con
người, gia súc. Đẩy mạnh việc phát triển các loài thiên địch, duy trì sự đa
Phạm Thị Dung 2 K37D – Sinh KTNN
dạng của chúng trong hệ sinh thái nông nghiệp, tăng cường và nâng cao sự
hiểu biết về đa dạng sinh học cũng như các mối quan hệ giữa các loài thiên
địch với dịch hại đã và đang là biện pháp cần thiết. Do đó, sự phát triển và
thực hiện biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) đang là mối quan tâm
của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Trong phòng trừ sâu hại thì việc sử dụng bọ xít bắt mồi Andrallus
spinidens Fabricius như một biện pháp sinh học đang được đánh giá cao về
hiệu quả cũng như mức độ an toàn của loài thiên địch này. Loài bọ xít bắt mồi
Andrallus spinidens Fabricius là loài bọ xít bắt mồi có triển vọng và vật mồi
chủ yếu của nó là sâu non của các loài sâu hại thuộc bộ cánh vẩy hại khoai
lang, rau và đậu rau (Theo Hà Quang Hùng, 1996) [5]. Tuy nhiên, cho đến
nay những đặc điểm sinh thái, sinh học của chúng ít được nghiên cứu mới chỉ
dừng lại ở tên loài, vùng phân bố và xác định một số vật mồi của chúng trên
cây bông, đậu tương là chủ yếu (Theo Vũ Quang Côn và ctv, 1995; Phạm Văn
Lầm, 1997; Mai Phú Quý và Trần Thị Lài, 1980; Viện BVTV, 1976).
Từ những cơ sở trên, dưới sự hướng dẫn của ThS. Vũ Thị Thương,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thời gian phát dục và khả năng tiêu
thụ vật mồi của bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens Fabricius” nhằm tìm hiểu
rõ hơn về những đặc điểm sinh học và khả năng tiêu thụ vật mồi của loài bọ

xít này.
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1 Mục đích
Nghiên cứu thời gian phát dục và khả năng tiêu thụ vật mồi của bọ xít
bắt mồi Andrallus spinidens Fabricius.
2.2.Yêu cầu
- Tìm hiểu thời gian phát dục của bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens
Fabricius
Phạm Thị Dung 3 K37D – Sinh KTNN
- Tìm hiểu khả năng tiêu thụ sâu tơ của bọ xít bắt mồi Andrallus
spinidens Fabricius.





Phạm Thị Dung 4 K37D – Sinh KTNN
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu trong nƣớc
1.1.1. Tổng quan nghiên cứu về bọ xít bắt mồi
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu về thành phần các loài bọ xít bắt
mồi mới được bắt đầu từ những năm 67 trở lại đây (Viện Bảo vệ Thực vật,
1976; Ủy ban Khoa học nhà nước, 1981). Tuy nhiên, thành phần các loài bọ
xít bắt mồi cũng được nhiều tác giả nhắc đến rải rác trong các công trình
nghiên cứu về các loài thiên địch (Đặng Đức Khương, 1990; Hồ Khắc Tín,
1992; Phạm Văn Lầm, 1993, 1996, 1997; Vũ Quang Côn và ctv, 1995; Hà
Quang Hùng và ctv, 1999; Trần Đình Chiến, 1999; Tạ Huy Thịnh, Lê Xuân
Huệ, 2002).
Theo kết quả điều tra côn trùng trên các cây trồng năm 1967 – 1968 ở
các tỉnh miền Bắc Việt Nam, có 97 loài bọ xít bắt mồi đã được thu thập và lên

danh sách, nhưng chỉ mới xác định được tên 65 loài, còn 32 loài chưa xác
định được tên. (Viện Bảo vệ Thực vật, 1976) [24].
Kết quả điều tra cơ bản động vật miền Bắc Việt Nam (1981) đã thu thập
được 81 loài bọ xít bắt mồi thuộc 6 họ trên các cây trồng, trong đó xác định
được tên 53 loài, còn 28 loài chưa xác định được tên. Họ bọ xít bắt sâu
Reduviidae có số loài nhiều nhất (71 loài), tiếp theo là họ bọ xít năm cạnh
Pentatomidae có 6 loài. (Ủy ban Khoa học Nhà nước, 1981) [22].
Đặng Đức Khương (1990) [6] đã nghiên cứu và định được 18 loài bọ xít
bắt mồi ở trên cây lúa tại Tây Nguyên thuộc 4 họ. Trong các loài bọ xít bắt
mồi thu được, các loài thuộc nhóm bọ xít ăn sâu Reduviidae nhiều nhất (12
loài); 3 họ còn lại bao gồm: họ bọ xít năm cạnh Pentatomidae có 3 loài, họ bọ
xít dài Lygaeidae có 2 loài và họ Nabidae có 1 loài.
Theo Phạm Văn Lầm (1993) [11] đã phát hiện được 12 loài bọ xít bắt
mồi thuộc 5 họ, trong đó họ bọ xít ăn sâu Reduviidae có 7 loài. Các họ còn lại
Phạm Thị Dung 5 K37D – Sinh KTNN
gồm họ Nabidae có 1 loài thuộc giống Nabis, họ bọ xít đỏ Pyrrhocoridae có 1
loài thuộc giống Antilochus, họ bọ xít dài Lygaeidae có 1 loài thuộc thuộc
giống Geocoris và họ bọ xít Pentatomidae có 2 loài.
Theo Vũ Quang Côn và ctv (1995) [3] đã thu thập và xác định được tên
của 10 loài bọ xít bắt mồi thuộc 3 họ. Họ bọ xít ăn sâu Reduviidae có 5 loài,
họ bọ xít Pentatomidae có 4 loài và họ bọ xít đỏ Pyrrhocorodae có 1 loài trên
cây bông tại Tô Hiệu (Sơn La).
Theo Phạm Văn Lầm (1996) [16] đã xác định trong 40 loài côn trùng
bắt mồi (thuộc 6 họ) của sâu hại ngô ở Hà Nội và vùng phụ cận, thì nhóm bọ
xít có 9 loài (chiếm 22,5%). Trong số đó họ bọ xít ăn sâu Reduviidae có 3
loài, họ bọ xít Pentatomidae có 2 loài, họ bọ xít mù Miridae, họ Nabidae, họ
bọ xít đỏ Pyrrhocoridae và họ bọ xít dài Lyaeidae mỗi họ có 1 loài.
Năm 1997, trong công trình nghiên cứu về thiên địch của sâu hại lúa ở
Việt Nam, Phạm Văn Lầm đã đưa ra 70 loài bọ xít bắt mồi (trong đó đã xác
định được tên của 47 loài và 23 loài chưa xác định được tên) thuộc 9 họ, 38

giống. Trong tổng số các loài thu được, các loài thuộc họ Reduviidae chiếm
nhiều nhất 56 loài (xác định được tên 43 loài)[13].
Trần Đình Chiến (1999) đã xác định được 11 loài bọ xít ăn mồi thuộc 4
họ. 7 loài thuộc họ bọ xít ăn sâu Reduviidae, 2 loài thuộc họ bọ xít năm cạnh
Pentatomidae, 1 loài thuộc họ bọ xít dài Lygaeidae và 1 loài thuộc họ bọ xít
mù Miridae là thành phần côn trùng bắt mồi trên cây đậu tương ở Hà Nội và
vùng phụ cận.
Đỗ Ngọc Diệp và ctv (2000) [4] đã ghi nhận 5 loài bọ xít bắt mồi thuộc
họ bọ xít ăn sâu Reduviidae trên cây mía tại Bến Cát, Bình Dương.
Tạ Huy Thịnh, Lê Xuân Huệ và ctv (2002) [18] đã ghi nhận 20 loài bọ
xít bắt mồi thuộc họ Reduviidae và 3 loài bọ xít bắt mồi thuộc họ
Phạm Thị Dung 6 K37D – Sinh KTNN
Pentatomidae tại khu vực Mê Linh, Tam Đảo, Vĩnh Yên và Lập Thạch thuộc
tỉnh Vĩnh Phúc.
Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học và sinh thái học của các loài bọ
xít bắt mồi cũng ít được đề cập tới.
Cho tới nay, mới chỉ có loài bọ xít hoa bắt mồi Cantheconnidae
furcellata thuộc họ Pentatomidae, đã được một số tác giả nghiên cứu sâu hơn
về sinh học và sinh thái học trong điều kiện phòng thí nghiệm và đạt được
những kết quả tương đối đầy đủ.
Theo Phạm Văn Lầm và ctv (1994) [12] [14] khi nuôi loài bọ xít hoa bắt
mồi với thức ăn là sâu khoang thì kết quả thu được là: thời gian phát dục ở
các pha của bọ xít này thay đổi theo thời gian trong năm, kéo dài hơn vào mùa
đông và ngắn hơn vào mùa hè. Trứng của loài bọ xít này phát dục từ 4,8 –
20,3 ngày thì nở. Thiếu trùng phát dục qua 5 tuổi, thiếu trùng ở tuổi 1, 2 chỉ
uống nước và bắt đầu từ tuổi 3 thì mới sống theo kiểu bắt mồi. thời gian phát
dục của giai đoạn thiếu trùng từ 14,1 – 38,8 ngày. Thiếu trùng tuổi 5 vũ hóa
thành con trưởng thành và thường giao phối sau 3,7 – 8,1 ngày. Một bọ xít cái
có thể đẻ từ 132,3 – 191,9 quả trứng và tuổi thọ của chúng có thể đạt 56,2
ngày trong mùa đông và 15,4 – 21,3 ngày ở mùa thu và mùa hè. Giai đoạn

phát dục của trứng đến khi vũ hóa thành con trưởng thành của loài bọ xít này
trung bình từ 20,3 – 59,1 ngày.
Theo Vũ Quang Côn và ctv (1994) [2] khi nuôi loài bọ xít hoa
Cantheconnidae furcellata trong điều kiện nhiệt độ từ 26,1 – 29,4
o
C và ẩm độ
từ 72 – 85% cho thấy: vòng đời của loài bọ xít này thường từ 22 – 31 ngày.
Trong đó giai đoạn trứng từ 5 – 7 ngày, giai đoạn thiếu trùng từ 11 – 20 ngày,
từ lột xác thành trưởng thành đến khi đẻ trứng từ 5 – 7 ngày. Bọ xít cái trưởng
thành đẻ từ 1 – 9 ổ trứng, trung bình là 175,4 quả/con. Mỗi cá thể bọ xít ở các
Phạm Thị Dung 7 K37D – Sinh KTNN
tuổi có thể ăn tới 37,09 con sâu khoang, trung bình mỗi con ăn hết 2 – 3
con/ngày.
Nguyễn Viết Tùng (1991) [21] đã ghi nhận loài bọ xít mù xanh
Cyrtorhinus lividipennis là kẻ thù tự nhiên của rệp muội tại vùng đồng bằng
sông Hồng.
Theo Hồ Khắc Tín (1992) [19] loài bọ xít hoa bắt mồi Cantheconnidae
furcellata (Pentatomidae: Asopinae) có vai trò quan trọng trong việc kìm hãm
số lượng của nhiều loài sâu hại như sâu xanh, sâu khoang, sâu đo trên đồng
ruộng.
Theo Phạm Văn Lầm (1993) [10] [11] khi nghiên cứu thiên địch của sâu
hại bông vải tại Ninh Thuận và Đồng Nai thì kết quả thu được như sau: loài
bọ xít bắt mồi Ectrychotes crudelis, Rhinocoris fuscipes (họ bọ xít ăn sâu
Reduviidae) và loài bọ xít hoa bắt mồi Cantheconnidae furcellata (họ bọ xít
Pentatomidae) là các loài bọ xít bắt mồi phổ biến trên cây bông. Loài bọ xít
đỏ Antilochus conquebertii (họ bọ xít Pyrrhocoridae) là loài bọ xít bắt mồi
phổ biến trên cây bông, vật mồi của chúng là loài bọ xít đỏ gây hại Dysdercus
cingulatus. Loài bọ xít nâu viền trắng Andrallus spinidens Fabricius không
phải là loài bọ xít gây hại như Viện BVTV đã công bố năm 1976 mà là loài
bọ xít bắt mồi trên nhiều loại cây trồng như: cây bông, cây đậu tương, cây

ngô,… Vật mồi của bọ xít này là các loài sâu hại như: sâu xanh, sâu khoang,
sâu tơ, sâu đo xanh, sâu keo ăn lá bông và trứng của rầy xanh hại bông.
Năm 1993, Phạm Văn Lầm và Bùi Hải Sơn đã nghiên cứu loài bọ xít mù
xanh Cyrtorrhinus lividipennis (họ Miridae) và loài Hydrometra albolineata
(họ Hydrometridae) trên cây lúa. Nghiên cứu cho thấy: loài bọ xít mù xanh là
thiên địch rất quan trọng trong việc kìm hãm số lượng loài rầy nâu và nó có
phản ứng rất rõ ràng đối với sự thay đổi số lượng quần thể rầy nâu so với loài
bọ xít bắt mồi Hydrometra albolineata trên đồng lúa. Loài bọ xít mù xanh có
Phạm Thị Dung 8 K37D – Sinh KTNN
thể tiêu diệt một số lượng lớn rầy nâu, mỗi ngày 1 cá thể bọ xít mù xanh
trưởng thành có thể tiêu diệt 15,8 – 20,5 trứng rầy nâu, thiếu trùng có thể tiêu
diệt 13,0 – 15,7 trứng rầy nâu [15].
Theo Vũ Quang Côn và ctv (1995) [3] các loài bọ xít bắt mồi chủ yếu ăn
thịt sâu non tuổi nhỏ và tuổi trung bình của sâu hại bông. Số lượng của tập
hợp các loài bọ xít bắt mồi có mật độ từ 1 – 11 con/100cây và đạt mật độ cao
nhất vào cuối tháng 9 hàng năm.
Theo Đỗ Ngọc Diệp và ctv (2000) [4] 2 loài bọ xít bắt mồi thuộc họ
Reduviidae có tần suất bắt gặp thường xuyên (55 – 65) trên đồng mía tại Bến
Cát, Bình Dương. Vật mồi chủ yếu của 2 loài bọ xít này là sâu non của sâu
đục thân mía.
Theo Hà Quang Hùng và Bùi Thanh Hương (2002) đã nghiên cứu một
số đặc điểm hình thái học và sinh học của loài bọ xít bắt mồi Orius sauteri
Poppius với vật mồi chủ yếu là bọ trĩ Thrips palmi và trứng ngài gạo Corcyra
cephalonica và cho thấy loài bọ xít bắt mồi này có ý nghĩa trong việc điều hòa
số lượng của loài bọ trĩ hại khoai tây ở Hà Nội và vùng phụ cận. Vòng đời của
chúng là 21,58 ± 0,26 ngày (vật mồi là bọ trĩ) và 23,08±0,26 ngày (vật mồi là
trứng ngài gạo). Khả năng ăn bọ trĩ đạt 35,02 ± 2,24 con/ngày và ăn trứng
ngài gạo đạt 32,44 ± 1,96 quả/ngày (Dẫn theo Trương Xuân Lam, Vũ Quang
Côn, 2004) [8].
Nhìn chung, trên một số cây trồng trong hệ sinh thái đồng ruộng ở nước

ta, việc nghiên cứu các loài bọ xít thuộc nhóm bọ xít bắt mồi còn rải rác, chưa
mang tính hệ thống. Các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc xác định tên loài,
vùng phân bố và xác định vật mồi của chúng. Những nghiên cứu về đặc điểm
sinh học, sinh thái học của các loài bọ xít bắt mồi gần đây mới được quan tâm
nghiên cứu.
Phạm Thị Dung 9 K37D – Sinh KTNN
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu về bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens
Fabricius
Nghiên cứu sinh học, sinh thái về các loài bọ xít bắt mồi còn ít được đề
cập, cho tới nay một số loài như: loài Cantheconidea furcellata, loài
Cyrtorrhinus livilippennis và loài Orius sauteri đã được đề cập và nghiên cứu
(Phạm Văn Lầm, 1992, 1994; Vũ Quang Côn và ctv, 1994; Nguyễn Xuân
Thành, 1996; Nguyễn Viết Tùng, 1992; Hà Quang Hùng, 1996; Hà Quang
Hùng và Bùi Thanh Hương, 2002). Loài bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens
đến nay vẫn còn ít được quan tâm nghiên cứu.
Theo Phạm Văn Lầm (1993) [10] [11] loài A. spinidens là loài bọ xít
bắt mồi trên nhiều loài cây trồng như cây bông, cây đậu tương, cây ngô… Vật
mồi của loài bọ xít này là các loài sâu hại như sâu xanh, sâu khoang, sâu đo
xanh, sâu loang, sâu keo ăn lá bông, trứng rầy xanh hại bông.
Theo Hà Quang Hùng (1996)[5] thì loài bọ xít A. spinidens
(Pentatomidae) là loài bọ xít bắt mồi có triển vọng và vật mồi chủ yếu của nó
là sâu non của các loài sâu hại thuộc bộ cánh vẩy hại khoai lang, rau và đậu
rau.
Các loài bọ xít nâu viền trắng A. spinidens, loài bọ xít cổ ngỗng đỏ bắt
mồi Sycanus falleni và bọ xít cổ ngỗng đen bắt mồi S. crocevittatus đã được
ghi nhận là các loài bọ xít bắt mồi tích cực trên cây bông, cây đậu tương và
cây ngô trên hệ sinh thái đồng ruộng ở một số tỉnh miền Bắc. Vật mồi là ấu
trùng sâu xanh, sâu loang, sâu đo xanh. Cho tới nay những đặc điểm sinh thái,
sinh học của chúng ít được nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở xác định tên loài,
vùng phân bố và xác định một số vật mồi của chúng trên cây bông, cây đậu

tương là chủ yếu (Theo Vũ Quang Côn và ctv, 1995; Phạm Văn Lầm, 1997;
Mai Phú Quý và Trần Thị Lài, 1980; Viện BVTV, 1976) [2].
Phạm Thị Dung 10 K37D – Sinh KTNN
Theo Trương Xuân Lam (2002) [7] bước đầu nghiên cứu về đặc điểm
sinh học, sinh thái của bọ xít nâu viền trắng cho biết, ở điều kiện phòng thí
nghiệm có nhiệt độ từ 28,5
o
C – 30
o
C, ẩm độ từ 79 – 82% thì vòng đời
A.spinidens là 32 – 36 ngày, sức sinh sản là 365 – 459 quả/con cái, tỷ lệ trứng
nở đạt trung bình 94,31± 3,34% (85,51 – 97,65%), thời gian phát dục trung
bình của pha trứng là 6,37 ± 0,24 ngày, thiếu trùng là 18,53 ± 0,75 ngày, từ
lần lột xác cuối cùng đến khi đẻ trứng 9,26 ± 1,20 ngày. Nghiên cứu khả năng
ăn mồi của bọ xít nâu viền trắng cho thấy chúng có sức ăn lớn, vật mồi là sâu
non sâu khoang tuổi 1, 2 thì thiếu trùng bọ xít nâu viền trắng chích từ 3 – 6
con sâu khoang/ngày (trung bình 3,92 ± 0,32 con/ngày), trưởng thành chích
8,13 ± 1,08 con/ngày; vật mồi là sâu non sâu khoang tuổi 3 thì thiếu trùng
chích 2 – 3 con/ngày (trung bình 2,83 ± 0,26 con/ngày), trưởng thành chích
6,27 ± 1,04 con/ngày; vật mồi là sâu non sâu đo Plusia sp. tuổi 2, 3 thì thiếu
trùng chích hút 3,76 ± 0,27 con/ngày, trưởng thành 10,89 ± 1,12 con/ ngày.
Theo Vũ Quang Côn và cộng sự (2002) [1] thì trên vùng trồng bông ở
Tô Hiệu –Sơn La loài bọ xít nâu viền trắng A. spinidens có tần suất bắt mồi
sâu đo xanh cao nhất (40,90%), sau đó đến sâu khoang (27,27%) và sâu xanh,
sâu đo nâu và sâu cuốn lá bông tương ứng là 18,18%; 9,09%; 4,57%. Một
ngày loài A. spinidens (từ thiếu trùng tới con trưởng thành) tiêu thụ sâu
khoang trung bình là 23,32 ± 2,54 con (tuổi 1, 2); 17,55 ± 2,60 con (tuổi 3),
tiêu thụ sâu đo xanh (tuổi 2, 3) trung bình 25,93 2,71 con và giai đoạn
trưởng thành tiêu thụ thức ăn nhiều nhất trung bình 10,98 ± 1,12 con.
1.2. Tổng quan nghiên cứu nƣớc ngoài

1.2.1. Tổng quan nghiên cứu bọ xít bắt mồi
Trên thế giới các kết quả nghiên cứu về bọ xít bắt mồi phải kể đến các
công trình nghiên cứu về thành phần loài có liên quan đến khu hệ bọ xít bắt
mồi ở vùng Đông Dương - Ấn Độ và các nước lân cận với Việt Nam, mà điển
Phạm Thị Dung 11 K37D – Sinh KTNN
hình là những nghiên cứu của các tác giả ở Ấn Độ như Distant (1904 – 1910)
đã phân loài và mô tả hình thái 422 loài. Vennison, Ambrose (1990) đã ghi
nhận được 15 loài bọ xít bắt mồi thuộc giống Ectomocoris (Dẫn theo Trương
Xuân Lam, Vũ Quang Côn, 2004) [8].
Ở Đông Dương Vitalis (1919) [34] đã công bố 14 loài bọ xít bắt mồi
bao gồm họ Reduviidae có 11 loài thuộc 9 giống, họ Nabidae có 1 loài, họ
Pentatomidae có 2 loài thuộc giống Cazira và Palpada.
Trung Quốc, cho đến năm 1971 đã phát hiện được 820 loài côn trùng
bắt mồi trong đó có gần 200 loài thuộc nhóm bọ xít bắt mồi (Price, 1915).
Cai wanzhi etall (1995, 1997, 2001, 2002) đã mô tả 15 loài bọ xít bắt mồi
thuộc giống Reduvius và 44 loài thuộc phân họ Harpactorinae, trong đó tác
giả đã ghi nhận 3 loài mới cho khoa học (Dẫn theo Trương Xuân Lam, Vũ
Quang Côn, 2004) [8].
Ở Nhật Bản, Masaaki (1993) [28] đã ghi nhận và mô tả hình thái 58
loài bọ xít bắt mồi thuộc 7 họ, các loài thuộc họ bọ xít ăn sâu Reduviidae có
số lượng nhiều nhất 28 loài.
Ishikawa et al (2002) đã ghi nhận và mô tả 11 loài thuộc giống
Polytous (họ Reduviidae) trong đó có 3 loài được ghi nhận mới cho khoa học
(Dẫn theo Trương Xuân Lam, Vũ Quang Côn, 2004) [8].
Các công trình nghiên cứu về thành phần loài của bọ xít bắt mồi ở một
số các nước khác trên thế giới cũng đã được nhiều tác giả nghiên cứu như
Randall, James (1995) [30] đã thống kê các loài bọ xít ăn sâu Reduviidae trên
thế giới có khoảng 65000 loài thuộc 930 giống trong 22 phân họ. Carmen
Coscaron (1990) [24] đã xác định được 27 loài thuộc Rasahus (họ
Reduviidae) ở Achentina. Kerzhner (1992) [26] đã phát hiện và mô tả loài

Hoplistoscelis sordidus và Pagasa luctuosa (họ Nabidae) là loài bọ xít bắt
mồi mới cho khoa học ở miền Nam nước Mỹ.
Phạm Thị Dung 12 K37D – Sinh KTNN
Nghiên cứu về hình thái, sinh học và sinh thái học của một số loài bọ
xít bắt mồi cũng đã được nhiều tác giả đề cập tới.
Miller (1956) [29] đã mô tả đặc điểm hình thái của 24 loài thuộc họ bọ
xít ăn sâu Reduviidae và mô tả thiếu trùng tuổi 1, tuổi 4 của 7 loài bọ xít bắt
mồi thuộc họ này.
Vennison và Ambrose (1990) [32] đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc
ghép đôi lên sự sinh sản và thời gian phát dục của trứng loài bọ xít bắt mồi
Euagoras plagiatus ở nhiệt độ 30 – 35
o
C, ẩm độ 75 – 85% với vật mồi là sâu
xanh Heliothis armigera kết quả thu được là: khi một con cái được ghép đôi
từ 3 – 4 con đực khác tuổi thì thời gian đẻ trứng ngắn hơn so với thời gian đẻ
trứng của 1 con cái được ghép đôi với 1 con đực cùng tuổi.
Chen, Cheng và He (1994) [25] đã nghiên cứu khả năng sinh sản và tỷ
lệ trứng nở của loài bọ xít bắt mồi Cyrtorrhilus lividipennis tại Trung Quốc ở
điều kiện nhiệt độ từ 17 – 33
o
C với thức ăn là trứng của rầy nâu Nilaparvata
lugens, trứng của loài rầy lưng trắng Sogatella furcifera thì số lượng trứng đẻ
được của 1 con cái tương ứng: 247,63 ± 74,73 quả, 237,25 ± 18,62 quả và tỷ
lệ trứng nở đạt: 59,83%, 58,26%. Khi thức ăn là thiếu trùng rầy nâu
Nilaparvata lugens và thiếu trùng rầy lưng trắng Sogatella furcifera thì số
lượng trứng đẻ của 1 con cái giảm đi, trung bình chỉ đạt 196,83 ± 69,08
quả/con và 128,14 ± 81,29 quả/con; tỷ lệ trứng nở thấp tương ứng là 44,35%
và 46,96%. Thí nghiệm cũng cho thấy trứng rầy nâu Nilaparvata lugens là
thức ăn ưa thích nhất đối với loài bọ xít mù xanh này.
Kitamura, Kondo (1995) [27] đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ

đến thời gian phát dục của trứng và thiếu trùng loài bọ xít bắt mồi Nabis
stenoferus (họ Nabidae) ở Nhật Bản nhận thấy: với nhiệt độ trung bình là
20
o
C thì trứng và thiếu trùng của loài bọ xít này có thời gian phát dục dài hơn
Phạm Thị Dung 13 K37D – Sinh KTNN
ở nhiệt độ từ 24 – 28
o
C và trong khoảng nhiệt độ từ 13,3 – 13,5
o
C trứng của
loài bọ xít này không phát dục.
Năm 1996, Tommasini và Benuzzi đã nghiên cứu đặc điểm sinh học
của loài bọ xít bắt mồi Orius laevigalus (họ Anthocoridae) trong 3 điều kiện
nhiệt độ khác nhau là 14
o
C, 20
o
C và 30
o
C với thức ăn là trứng của loài
Ephestia kuchniela thấy rằng thời gian thiếu trùng phát dục thành con trưởng
thành rất ngắn (14 – 25 ngày) ở nhiệt độ 30
o
C, rất dài ở 20
o
C và số lượng con
cái sinh sản và số lượng trứng được đẻ ra từ một con cái cũng giảm ở nhiệt độ
14
o

C(Dẫn theo Trương Xuân Lam, Vũ Quang Côn, 2004) [8].
Nghiên cứu về tập tính bắt mồi, ảnh hưởng của các loại thức ăn, khả
năng tiêu thụ vật mồi và vai trò của một số loài bọ xít bắt mồi cũng đã được
đề cập tới.
Theo Khoo (1990) thì ở Malaysia người ta đã sử dụng loài bọ xít bắt
mồi Sycanus collasis (họ Reduviidae) để phòng chống bọ xít xanh hại đậu
tương Nezara viridula (Corpuz, 1969). Ambrose atal (1994) nghiên cứu khả
năng ăn mồi của loài bọ xít bắt mồi Acanthaspis siva (họ Reduviidae) (Dẫn
theo Trương Xuân Lam, Vũ Quang Côn, 2004) [8].
Theo Jame (1994) đã nghiên cứu khả năng tiêu thụ con mồi của loài bọ
xít bắt mồi Pristhesancus plagipennis ở Australia ở điều kiện nhiệt độ 22,5
o
C,
25
o
C và 30
o
C với vật mồi là trưởng thành loài ruồi dấm Drosophila sp., ấu
trùng mọt bột Tribolium castaneum, sâu mọt Tenebrio molitor, thiếu trùng
loài Biprorulus bibax và loài bọ xít xanh Nezara viridula. Trung bình mỗi cá
thể của loài bọ xít này từ khi nở cho đến khi phát dục thành con trưởng thành
tiêu thụ hết 153,9 con mồi (ở nhiệt độ 22,5
o
C), 127,6 con mồi (ở nhiệt độ
25
o
C) và 117,3 con mồi (ở nhiệt độ 30
o
C). Mỗi ngày một cá thể của loài bọ
xít này tiêu thụ trung bình 2,5 con mồi, 2,0 con mồi và 1,3 con mồi ở điều

Phạm Thị Dung 14 K37D – Sinh KTNN
kiện nhiệt độ tương ứng là 30
o
C, 25
o
C và 22,5
o
C (Dẫn theo Trương Xuân
Lam, Vũ Quang Côn, 2004) [8].
Ambrose et al. (1994) đã nghiên cứu khả năng ăn mồi của loài bọ xít
bắt mồi Acanthaspis siva (họ Reduviidae) đối với 2 vật mồi là loài
Camponotus compressus và loài Dittopternis venusta cho thấy: lượng thức ăn
tiêu thụ được có mối quan hệ với mật độ con mồi. Ở trong 3 điều kiện không
gian khác nhau (40ml, 80ml và 160ml) thì tập tính bắt mồi của loài bọ xít này
là khác nhau. Với không gian 160ml thì khả năng bắt mồi hơn hẳn ở không
gian 40ml và 80ml. (Dẫn theo Trương Xuân Lam, Vũ Quang Công, 2004).
Theo Sahayaraj (1994, 1995) [31] hai loài bọ xít bắt mồi Rhinoceis
marginatus và Acanthaspis pedestris ở các tuổi khác nhau đều có vai trò quan
trọng trong việc khống chế mật độ của 2 loài côn trùng hại lạc và khả năng ăn
mồi của 2 loài bọ xít này phụ thuộc vào mật độ và tuổi của loài sâu khoang
hại lạc S. litura và loài mối hại lạc O. assmuthi. Vật mồi ưa thích của 2 loài
bọ xít này là sâu khoang 3 ngày tuổi, sau đó đến sâu khoang 4 ngày tuổi và 5
ngày tuổi.
Venkatesan (1997) [33] đã so sánh khả năng tiêu thụ vật mồi của loài
bọ xít bắt mồi Cydnocoris gilvus trong phòng thí nghiệm với các loại thức ăn
khác nhau và kết quả thu được là: khả năng tiêu thụ số lượng vật mồi lớn nhất
là sâu khoang Spodoptera litura, tiếp sau là loài châu chấu Oxya nitidula và
cuối cùng là loài mối Odontotermes obesus.
Nghiên cứu về biến động số lượng, ảnh hưởng của các yếu tố đến mật
độ của một số loài bọ xít bắt mồi như Thagavelu, Sing (1992) ở Ấn Độ

Czepak, Contietal (1994). Ở Italia, Cutouli (1995) .
Vennison etal (1991) [32] đã nghiên cứu biến động số lượng của con
trưởng thành và thiếu trùng của 7 loài bọ xít bắt mồi họ Reduviidae.
Phạm Thị Dung 15 K37D – Sinh KTNN
1.2.2. Tổng quan nghiên cứu về bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens
Pati etal và ctv (1989) cho biết trong nhóm côn trùng bắt mồi của 3 loài
sâu cắn gié Mythimna spp. hại lúa ở Ấn Độ phải kể đến loài bọ xít nâu viền
trắng A. spinidens. Loài bọ xít bắt mồi này ăn cả ấu trùng, nhộng của sâu cắn
gié; là loài có vai trò quan trọng trong việc kìm hãm số lượng của nhóm sâu
hại này trên lúa
Singh etal (1989) nghiên cứu về một số đặc điểm sinh học của loài bọ
xít nâu viền trắng A. spinidens với vật mồi là loài sâu hại đậu tương Rivula
sp. Ở trong phòng thí nghiệm tại Macthya pradesh ở nhiệt độ 24 – 30
o
C, ẩm
độ 75 – 78% A. spinidens cho thấy vòng đời của loài bọ xít này là 32 – 40
ngày.
Bakti D. (2000) đã nghiên cứu sinh học của loài bọ xít nâu viền trắng
A.spinidens trong phòng thí nghiệm từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1999 ở
Indonesia với vật mồi là sâu khoang hại đậu tương Spodoptera litura (F) kết
quả cho thấy con cái phát dục từ 6 – 10 ngày thì đẻ trứng, trung bình 1 con cái
đẻ 379 quả trứng, thời gian phát dục của trứng trung bình là 6,86 ngày, tỷ lệ
trứng nở là 70,79%. Thiếu trùng có 5 tuổi, thời gian phát dục của thiếu trùng
là 14 – 19 ngày và đạt tỷ lệ sống sót 68,77 – 72,81%, con trưởng thành sống
trung bình 34 – 44 ngày.









Phạm Thị Dung 16 K37D – Sinh KTNN
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Thời gian nghiên cứu
- Đề tài tiến hành từ tháng 4 năm 2014 đến tháng 10 năm 2014
2.2. Địa điểm nghiên cứu
- Thu mẫu ở khu vực Phúc Yên – Vĩnh Phúc
- Nhân nuôi, theo dõi, nghiên cứu trong phòng thí nghiệm khoa Sinh-
KTNN, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
2.3. Đối tƣợng nghiên cứu
- Dịch hại: Sâu tơ Plutella xylostella
- Thiên địch: bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens Fabricius
2.4. Nội dung nghiên cứu
- Theo dõi diễn biến mật độ sâu tơ Plutella xylostella Lunaeus trên bắp
cải vụ thu đông 2014 tại Nam Viêm – Phúc Yên – Vĩnh Phúc.
- Theo dõi diễn biến mật độ bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens Fabricius
trên bắp cải vụ thu đông 2014tại Nam Viêm – Phúc Yên – Vĩnh Phúc.
- Tìm hiểu thời gian phát dục của bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens
Fabricius.
- Tìm hiểu khả năng lựa chọn các pha phát dục vật mồi sâu tơ Plutella
xylostella L. của trưởng thành Andrallus spinidens Fabricius.
- Tìm hiểu khả năng tiêu thụ vật mồi sâu tơ Plutella xylostella của mỗi
pha phát dục Andrallus spinidens Fabricius.
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp điều tra biến động số lượng
Điều tra định kỳ 7 ngày/lần. Điều tra trên từng công thức thí nghiệm
theo phương pháp 5 điểm chéo góc. Mỗi điểm 4 cây, mỗi cây 4 lá bắp cải.


Phạm Thị Dung 17 K37D – Sinh KTNN
Các chỉ tiêu cần theo dõi
Sâu hại: Diễn biến mật độ sâu tơ (Con/cây)
Thiên địch: Diễn biến mật độ bọ xít bắt mồi Andrallus spinidens
Fabricius (Con/cây)
2.5.2. Phương pháp thu nguồn bọ xít Andrallus spinidens Fabricius và
thức ăn của chúng (sâu tơ Plutella xytostella)
Thu Andrallus spinidens Fabricius: loài này xuất hiện từ tháng 3 đến
tháng 5, rộ vào khoảng giữa tháng 4 đến tháng 5. Chúng xuất hiện trên bầu bí,
cải bắp, cải xanh, đậu tương…tuổi nhỏ sống tập trung thành ổ di chuyển
chậm. Tìm chúng trên các ruộng có nhiều thức ăn (Sâu) dùng vợt thu bắt
trưởng thành, dùng tay thu bắt tuổi nhỏ và ngắt ổ trứng.
Thu sâu tơ: Thu nhộng sâu tơ từ các lá bắp cải bánh tẻ đưa về phòng để
nhân nguồn sâu theo quy trình gồm 2 khâu:
Khâu thứ nhất với mục đích thu trứng sâu tơ: Dùng chai nhựa loại
250ml cắt ngang thân nhưng không cắt rời để làm cửa lấy tờ trứng ra hàng
ngày. Bên trong để 1 tờ giấy bạc vò nát đã tẩm dung dịch lá cải và một núm
bông tẩm mật ong cho trưởng thành sâu tơ ăn. Hộp này được đặt thông với
hộp nuôi sâu loại to bịt kín bằng túi bóng đen đựng nhộng sâu tơ bên trong.
Ngài sâu tơ có xu tính ánh sang khi vũ hóa xong sẽ tự động bay lên chai nhựa
ăn mật ong và đẻ trứng vào giấy bạc. Hàng ngày chúng ta thay tờ trứng qua
khe cắt ở ngang thân xong rồi lại dán lại bằng băng dính.
Khâu thứ hai nhằm mục đích duy trì nguồn sâu tơ trong phòng: Trồng
cải bắp trong lồng lưới. Lượng trứng thu được dùng cho nhân nuôi Andrallus
spinidens Fabricius (khoảng 90%) còn lại 10% đem quét lên cây bắp cải trong
lồng lưới để duy trì nguồn sâu tơ trong phòng.



×