Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Rủi ro lãi suất trong hệ thống kinh doanh ngân hàng và các giải pháp phòng ngừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.21 KB, 55 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước, trong những năm gần đây
hệ thống ngân hàng nói chung và Hệ thống các Ngân hàng thương mại nói riêng đã huy
động được khối lượng vốn lớn cho sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển kinh tế. Tuy
nhiên để tạo được những bước chuyển mới cho nền kinh tế, công tác huy động vốn của
các ngân hàng đang đứng trước những thách thức mới, đòi hỏi các ngân hàng phải thực
sự quan tâm, chú ý nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.
Để tăng cường huy động vốn ta cần nghiên cứu các hình thức huy động,các tiêu
chí đánh giá công tác huy động vốn như quy mô, cơ cấu nguồn huy động đủ lớn để tài
trợ cho các danh mục tài sản và không ngừng tăng trưởng ổn định;nguồn vốn có chi phí
hợp lý; huy động vốn phù hợp với sử dụng vốn về mặ kỳ hạn; quản lý tốt các loại rủi ro
liên quan đến hoạt động huy động vốn.
Nằm trong hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, ABBANK hướng
đến trở thành một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam; hoạt động
theo mô hình ngân hàng thương mại trọng tâm bán lẻ theo những thông lệ quốc tế tốt
nhất với công nghệ hiện đại, đủ năng lực canh tranh với các ngân hàng trong nước và q
cuéc c¶i c¸ch nÒn kinh tÕ ®Êt níc.
Tính bức xúc trong hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại nói riêng và
nền kinh tế nói chung cũng như nhu cầu về vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại
hóa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang theo đuổi chính là động lực cho em chọn
nghiên cứu về đề tài: “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng TMCP An
Bình” cho chuyên đề thực tập của mình trong thời gian thực tập tại ngân hàng TMCP
An Bình.
Chuyên đề chia làm 3 chương bao gồm:
Chương I: Cơ sở lý luận về công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại.
ChươngII: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại ngân hàng TMCP An Bình
Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại ngân hàng TMCP An Bình
Do khả năng lý luận và nhận thức về một vấn đề còn hạn chế, đây lại là một đề tài
khó, chính vì vậy bài viết này của em không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Mong
thầy cô phê bình, góp ý để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm
ơn.



1
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
I. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐỐI VỚI NHTM.
1. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
1.1. Khái niệm NHTM.
Sự hình thành hệ thống NHTM là hệ quả tất yếu của việc xây dựng nền kinh tế thị
trường, đó là sản phẩm của cơ chế thị trường hay là yếu tố cấu thành thị trường tài
chính; NHTM nói riêng và thị trường tài chính nói chung có tác động qua lại tương hỗ
lẫn nhau; hệ thống NHTM ổn định, phát triển toàn diện là động lực thúc đẩy thị trường
tài chính phát triển và ngược lại.
Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng và phát triển một mô hình thị trường tài chính
với nòng cốt là hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động dưới sự điều tiết vĩ mô của
Nhà nước. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã được đổi mới một cách đáng kể trong quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
có sự quản lý, của nhà nước. Từ mô hình hệ thống ngân hàng của nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung chuyển sang mô hình ngân hàng của nền kinh tế thị trường, mô hình tổ
chức có sự thay đổi căn bản đó là tách biệt chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng
với chức năng kinh doanh tiền tệ, đa dạng hóa các loại hình ngân hàng, từng bước xóa
bỏ độc quyền, chuyển sang cạnh tranh có sự quản lý của nhà nước. Tại Việt Nam kể từ
năm 1988 bắt đầu hình thành mô hình hệ thống ngân hàng 2 cấp và 2 pháp lệnh ngân
hàng( pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, Pháp lệnh Ngân hàng HTX tín dụng và công ty
Tài chính) đã chính thức hợp pháp hóa sự thay đổi này, Mô hình hệ thống ngân hàng ở
thời điểm này bao gồm:
- Ngân hàng Nhà nước: cơ quan quản lý cấp nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng và ngân hàng.
- Các NHTM: đóng vai trò là các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh tiền tệ.
Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10 năm 1998, NHTM được định
nghĩa như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường

xuyên là nhận tiền gửi của khác hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để
cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Định nghĩa trên đã khẳng định NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực tiền tệ, trong đó có hai mặt cơ bản:
2
- Nhận ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ quan nhà nước.
- Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay và chiết khấu.
Các loại hình của NHTM:
+ NHTM quốc doanh: là NHTM được thành lập bằng 100% vốn của nhà nước.
+ NHTM cổ phần: là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.
+ Chi nhánh NHTM nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo luật pháp
nước ngoài nhưng hoạt động theo luật pháp nước sở tại.
+ Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên ngân
hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam và hoạt động theo
luật pháp Việt Nam.
Quá trình phát triển của NHTM gắn liền với quá trình phát triển của thị trường
tài chính thông qua các giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Khi mới ra
đời, tổ chức và nghiệp vụ hoạt động rất đơn giản nhưng càng về sau, theo đà phát triển
của kinh tế hàng hóa, tổ chức cũng như các nghiệp vụ của các ngân hàng càng phát triển
và hoàn thiện hơn. Ngày nay các NHTM có xu hướng phát triển ngày càng toàn diện với
quy mô rộng cùng nhiều loại hình dịch vụ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong
xã hội để đầu tư cho vay. Sự phát triển của các ngân hàng không còn nằm trong phạm vi
quốc gia mà mang tính chất toàn cầu. Ví dụ: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát
triển Châu á (ADB)… việc áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống trang thiết bị hiện
đại càng làm cho hoạt động ngân hàng trở nên hoàn thiện
Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
cũng trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, chứng kiến bước chuyển mình vượt
qua những chặng đường khó khăn dưới chế độ bao cấp bước sang nền kinh tế thị trường
. Trải qua hơn 10 năm đổi mới, sau khi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
Chính phủ) ban hành nghị định 53 HĐBT (26/3/1988) với nội dụng “Cải tổ ngân hàng

từ hệ thống ngân hàng một cấp duy nhất trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung thành định chế ngân hàng hai cấp theo hướng kinh tế thị trường”. Ngày
23/5/1990 nhà nước đã ban hành hai pháp lệnh về ngân hàng. Ngày 26/12/1997, hai
pháp lệnh trên được thay thế bằng hai luật: Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ
chức tín dụng, tạo được một hành lang pháp lý khá đầy đủ cho hoạt động ngân hàng. Bộ
mặt ngành ngân hàng đã thay đổi, hoạt động của ngân hàng trở nên chuyên nghiệp và
năng động hơn, đánh dấu sự thay đổi to lớn trong cách nghĩ cũng như cách làm.
Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần khẳng định được vai
trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong việc thực thi chính sách tài chính –
tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng nhận tiền gửi để cho vay đối với nền kinh tế, với
vai trò trung gian tài chính trong hoạt động của mình, NHTM vẫn phải tuân theo sự
3
quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là sự quản lý của Ngân hàng Trung ương. Chính
dưới sự quản lý này, hệ thống NHTM đã thực hiện được chức năng của mình đối với
nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn vê NHTM, đặc biệt là tầm quan trọng của NHTM đối với
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, ta sẽ tìm hiểu các hoạt động chủ yếu
của NHTM.
1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
Cũng giống như một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận hay nói đúng hơn là tối đa hóa giá trị tài sản của ngân
hàng và thông qua đó thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế. Ngân
hàng tạo ra lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ có một số đặc tính (một kết hợp
riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền thu được để mua những tài sản có một
số đặc tính khác. Như thế các ngân hàng cung cấp một dịch vụ chuyển một loại tài sản
thành một loại tài sản khác cho công chúng. Nghiệp vụ này đã tạo ra lợi nhuận thặng dư
cho ngân hàng đồng thời tạo tiện ích cho khách hàng để đôi bên cùng có lợi.
Nghiệp vụ tài sản nợ (Nguồn vốn):
Đây là nghiệp vụ tạo điều kiện và tiền đề cho hoạt động của NHTM. Các NHTM thực
hiện huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới mọi hình thức để
thực hiện nhiệm vụ đầu tư, cho vay đối với các thành phần kinh tế, giúp họ đổi mới

trang thiết bị sản xuất, nâng cấp nhà xưởng phục vụ kinh doanh…
Nghiệp vụ tài sản có (Sử dụng vốn):
- Nghiệp vụ dữ trữ tiền mặt:
Ngân hàng dự trữ tiền mặt nhằm duy trì khả năng thanh khoản của ngân hàng, đáp ứng
nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên, liên tục của khách hàng vào bất cứ lúc nào.
Dự trữ tiền mặt cao hay thấp phụ thuộc vào quy mô hoạt động, cơ cấu và tính chất
nguồn vốn của NHTM. Các khoản dự trữ của NHTM không sinh lời.
- Nghiệp vụ đầu tư: Ngân hàng tham gia góp vốn liên doanh, liên kết, thành lập công ty
con...
- Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM.
Các NHTM sử dụng phần lớn số tiền huy động được để cho vay đối với nền kinh tế. Lợi
nhuận thu được từ hoạt động cho vay là nguồn thu nhập chính để bù đắp các loại chi phí
trong hoạt động của Ngân hàng và thu lợi của NHTM.
Các dịch vụ Ngân hàng:
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, các NHTM đã tiến hành cung ứng các dịch
vụ phục vụ khách hàng như: dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn tài chính,... trên cơ sở đó
Ngân hàng thu phí dịch vụ. Ngày nay do nhu cầu phát triển của nền kinh tế đòi hỏi hoạt
động dịch vụ Ngân hàng ngày càng mở rộng về số lượng và chất lượng. Các Ngân hàng
4
đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, áp dụng các công nghệ tiên tiến vào hoạt động Ngân
hàng, thực hiện tốt khâu thanh toán không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm
chi, thanh toán séc, thanh toán bù trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh qua mạng máy tính,
thực hiện thanh toán bằng thẻ tín dụng…
Thực hiện tốt khâu cung ứng dịch vụ góp phần làm tăng thu nhập cho Ngân hàng vì
xu hướng phát triển trong hoạt động của NHTM hiện đại là mở rộng các hoạt động dịch
vụ, đồng thời vẫn duy trì các nghiệp vụ Ngân hàng truyền thống, thông qua việc đa dạng
hoá các hoạt động, các NHTM có thể vừa tăng thu nhập vừa có thể cạnh tranh với các
định chế tài chính phi Ngân hàng trong lĩnh vực cung ứng các sản phẩm tài chính.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu nhập từ
chênh lệch tỷ giá và các dịch vụ thanh toán quốc tế, đó chính là doanh lợi hối đoái.

Như vậy, thành phần chính trong cơ cấu tổng thu nhập của NHTM là lãi cho vay, lợi tức
từ các khoản đầu tư, dịch vụ phí và doanh lợi hối đoái.
2. Nguồn vốn của NHTM.
Hoạt động của NHTM luôn gắn liền với công tác huy động vốn. Vậy ta hiểu như
thế nào là vốn?
Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, việc tạo nguồn vốn và đầu tư vốn là
công việc của Nhà nước, nghĩa là Nhà nước đóng vai trò vừa là người cấp phát vốn đầu
tư cho các thành phần kinh tế, vừa là người tiêu thụ các sản phẩm mà các thành phần
kinh tế đó sản xuất. Vốn của các doanh nghiệp chủ yếu do ngân sách của Nhà nước cấp
hoặc vay tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp. Thực tế cho thấy, nhu cầu vốn của các
doanh nghiệp là rất lớn trong khi nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp lại có hạn và
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư không thu hút được,vì chính sách huy động vốn chưa
hợp lý, thủ tục gửi tiền và rút tiền còn rườm rà… Như vậy cơ chế bao cấp đã làm cho
đồng tiền không được lưu thông và sử dụng có hiệu quả, không có nơi giao dịch mua
bán trên thị trường. Mặt khác cơ chế huy động vốn và sử dụng vốn trong thời kỳ này
chưa được quan tâm đúng mức.
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, với chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, Nhà nước đã khuyến khích các thành phần kinh tế tự bỏ vốn đầu tư.
Điều đó làm cho vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu và là điều kiện tiên quyết của
mọi quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước không thể bỗng
dưng mà có được vốn vì không được cấp vốn như trước nữa, cho nên buộc họ phải tìm
cách mua vốn trên thị trường tài chính. Như thế người mua vốn phải trả lãi cho người có
vốn trên thị trường một khoản phí để có được quyền sử dụng vốn trong thời gian xác
định. Thông qua thị trường, vốn được lưu chuyển rộng rãi, từ đó nó mới có thể thể hiện
5
đủ bản chất và vai trò của mình. C.Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn là: “Tư bản” qua
định nghĩa hết sức cô đọng: “tư bản là giá trị mang lại thặng dư”.
Như vậy, vốn phải được biểu hiện dưới hình thái giá trị của tài sản tức là vốn phải
được đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản nhất định. Mặt khác vốn không chỉ
biểu hiện thành tiền (tiền giấy, vàng, bạc, đá quý…) và phản ánh giá trị những tài sản

hữu hình (máy móc thiết bị, đất đai, nhà cửa…) mà còn được biểu hiện bằng giá trị của
những tài sản vô hình (uy tín, trình độ, phát minh, sáng chế, thông tin, công nghệ…)
chính vì sự biểu hiện dưới các hình thức phong phú và đa dạng đó mà vốn cần phải
được khai thác, sử dụng có hiệu quả mới đem lại lợi nhuận cao. Và cũng qua đó giúp ta
phân biệt với tiền lương dễ dàng hơn: nếu có một lượng tiền được in không được phát
hành trên cơ sở giá trị thực của hàng hoá để đưa vào đầu tư thì đó chỉ là vốn giả tạo chứ
không phải là vốn đầu tư, thực chất chỉ những đồng tiền phát hành trên cơ sở đảm bảo
bằng giá trị thực của hàng hoá mới được gọi là vốn.
Như ta đã biết trong quá trình vận động, khác với các loại hàng hoá, điểm xuất phát và
điểm kết thúc của vốn đều là tiền. Sau một chu kỳ vận động vốn được lớn lên và đem lại
hiệu quả cao, thể hiện:
Trong doanh nghiệp sản xuất:
T-H..SX..H-T’ T’= T+t >T
Trong NHTM:
T=H-T’
Còn trong các tổ chức tài chính trung gian:
T=T-T’
Tóm lại từ những nét đặc thù trên ta có thể đưa ra khái niệm như sau: Vốn là các
tài sản trong xã hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai. Vì thế
trong nền kinh tế thị trường dù hoạt động trong lĩnh vực nào thì vốn cũng là một yếu tố
quan trọng quyết định hiệu quả của nó. Hoạt động ngân hàng cũng vậy, muốn hoạt động
kinh doanh có hiệu quả mang lại hiệu quả cao thì công tác huy động cần phải được quan
tâm đúng mức.
Nước ta cũng như bất kỳ nước nào khác trên thế giới, muốn thực hiện công
nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng cần phải có vốn. Vốn là chìa khóa, là điều kiện hàng đầu
để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Vốn trong nền kinh tế có thể ví như máu
trong cơ thể, thiếu vốn nền kinh tế sẽ chậm phát triển. Song vốn được tạo lập từ đâu,
bằng cách nào phụ thuộc rất lớn vào cơ chế, chính sách tạo vốn.
Nguồn vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế –

xã hội.
6
Vậy, nguồn vốn của NHTM là gì?
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập và huy
động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng.
Nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập và huy động được không những giúp cho ngân
hàng tổ chức được mọi hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan trọng trong việc
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói riêng cũng như sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Tuy nhiên, nguồn vốn của NHTM
được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi
vay và các loại vốn khác.
2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHTM,
nó thực hiện một số chức năng không thể thay thế đó là: cung cấp nguồn lực ban đầu
cho ngân hàng có thể duy trì hoạt động khi ngân hàng mới thành lập, là cơ sở tạo niềm
tin cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng, phòng ngừa rủi ro kinh doanh cho ngân
hàng. Vốn chủ sở hữu bao gồm:
2.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Đây được coi như vốn điều lệ của ngân hàng trong quy định về điều kiện thành lập
ngân hàng của pháp luật. Nguồn vồn này là lượng vốn tối thiểu mà ngân hàng cần phải
có để đáp ứng điều kiện thành lập cũng như hoạt động kinh doanh. Các loại hình ngân
hàng khác nhau thì có nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau: Đối với ngân hàng
quốc doanh thì nguồn vốn hình thành ban đầu là do ngân sách nhà nước cấp, nếu là ngân
hàng liên doanh thì là do các bên liên doanh đóng góp, nếu là ngân hàng cổ phần thì các
cổ đông góp vốn thông qua việc mua cổ phần hoặc cổ phiếu của ngân hàng; nếu là ngân
hàng tư nhân thì đó là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
2.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng có thể gia tăng theo nhiều phương thức khác nhau
tùy thuộc vào điều kiện cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân

hàng. Đó bao gồm:
Nguồn từ lợi nhuận: Khi hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận thì ngân hàng có thể
chuyển một phần lợi nhuận thành nguồn vốn nhằm tái đầu tư. Lượng vốn tích lũy tư thu
nhập tùy theo chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới cũng như cân
nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng.
Nguồn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng
quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn
7
của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định…Đặc điểm của hình thức huy động này là
không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ sở hữu lớn vào
lúc cần thiết.
2.1.3. Các quỹ.
Ngân hàng có nhiều các quỹ khác nhau, mỗi quỹ được sử dụng vào những mục
đích nhất định tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng. Các quỹ của ngân
hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của
ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng bao gồm:
- Quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường số vốn tự có ban đầu.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Quỹ này được trích lập hàng năm và được
tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
- Ngoài ra còn có các quỹ đặc biệt khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu
hao tài sản cố định, quỹ giám đốc,…
Dự phòng rủi ro: Dự phòng rủi ro tín dụng được các NHTM trích lập từ thu nhập
trước hoặc sau thuế (theo quy định của từng quốc gia) theo một tỷ lệ nhất định nào đó.
Khoản trích lập này là quan trọng và cần thiết cho hoạt động Ngân hàng, vì trong nền
kinh tế thị trường không thể tránh khỏi những rủi ro bất khả kháng có thể xảy ra, khi đó,
ngân hàng có thể trích các quỹ để bù đắp.
2.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng mà có khả năng chuyển đổi thành
vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do

nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai
và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
2.2. Nguồn huy động.
Nguồn huy động không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng lại là
yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân hàng,thường thì
tiền gửi vào và tiền rút ra không đồng thời hoặc chênh lệch nhau một lượng nhất định.
Ngân hàng sẽ sử dụng lượng vốn tạm thời nhàn rỗi này vào mục đích cho vay kiếm lời.
Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của Ngân hàng. Vốn huy động bao gồm:
- Tiền gửi giao dịch:
Là loại tiền gửi do khách hàng gửi vào nhằm mục đích giao dịch thanh toán, chi
trả các hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi phí phát sinh trong kinh
8
doanh một cách an toàn, thuận tiện. Đặc tính cơ bản của tiền gửi giao dịch là có thể phát
séc, lãi suất thấp và có tính không ổn định.
- Tiền gửi phi giao dịch:
Bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn, chúng có tính ổn định cao,
người gửi được hưởng lãi suất cao nhưng không được phát hành séc.
Bên cạnh đó, NHTM còn có thể huy động vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá
như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu. Trong đó chứng chỉ tiền gửi và kỳ phiếu
là loại phiếu nợ ngắn hạn; trái phiếu là loại phiếu nợ trung, dài hạn. Các loại phiếu nợ
trên được Ngân hàng phát hành từng đợt với mục đích, số lượng cụ thể và chỉ phát hành
khi được sự cho phép của NHTW. Đặc điểm của các loại giấy nợ này là chúng có lãi
suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm, có tính ổn định cao, quyền đòi
tiền xếp sau các loại tiền gửi khác.
2.3. Nguồn đi vay.
Là nguồn vốn mà ngân hàng phải vay mượn thêm trong trường hợp khả năng huy
động của ngân hàng bị thiếu hụt khi nhu cầu thanh toán, chi trả cho khách hàng tăng
cao. Nguồn đi vay được hình thành dựa trên mối quan hệ vay mượn của ngân hàng
thương mại với ngân hàng trung ương, với các tổ chức tín dụng khác hoặc giữa các ngân

hàng thương mại với nhau.
Ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng trung ương khi khả năng chi trả của
ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu trong thời gian ngắn. Các NHTM vay vốn của
NHTW dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu để bù đắp thiếu hụt trong thanh toán,
bổ sung vốn dự trữ... Để được vay chiết khấu các NHTM phải nộp cho NHTW các giấy
tờ có giá có thời hạn còn lại là ngắn hạn xin chiết khấu như thương phiếu, chứng khoán
của Chính phủ... chúng thường là các loại giấy tờ mà chủ thể phát hành ra chúng có uy
tín cao. Lãi suất chiết khấu do NHTW quy định tùy thuộc vào mục tiêu chính sách tiền
tệ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Ngân hàng Nhà nước điều hành việc vay mượn này
một cách chặt chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm
soát nhất định.
Để đảm bảo cho việc thanh khoản của mình, các ngân hàng thiếu hụt dự trữ có
nhu cầu vay mượn tức thời các ngân hàng thường vay mượn của nhau và vay các tổ
chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có số dư tiền gửi
vượt yêu cầu chưa sử dụng sẽ sẵn sàng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất
cao hơn. Quy trình vay mượn giữa các ngân hàng rất đơn giản, ngân hàng đi vay chỉ cần
liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lí (và có thẻ là
ngân hàng nhà nước). Khoản vay có thể có hoặc không cần đảm bảo, dựa trên cơ sở uy
tín của ngân hàng đi vay hoặc mối quan hệ giữa các ngân hàng với nhau.
9
Ngoài các hình thức trên ngân hàng có thể vay mượn bằng cáchphát hành các công
cụ nợ như: Kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên thị trường vốn. Các khoản vay này có ý
nghĩa rất quan trọng nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và
đầu tư trung và dài hạn, là giải pháp tình thế cho ngân hàng trong hoàn cảnh khó khăn.
3. Vai trò của nguồn vốn huy động.
3.1. Đối với nền kinh tế.
Nước ta đang trong tiến trình xây dựng một nền kinh tế vững mạnh vận động theo
cơ chế thị trường, việc này phải đồng thời với vấn đề phải phát triển một thị trường tài
chính xứng tầm. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của
các đơn vị, tổ chức kinh tế và cá nhân đều chịu sự tác động của thị trường, cuả các quy

luật kinh tế: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị…Chính vì vậy các
doanh nghiệp để tồn tại được trên thương trường phải không ngừng đổi mới công nghệ,
mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm,…Vấn đề này thực hiện được
khi và chỉ khi doanh nghiệp huy động được đủ lượng vốn cần thiết và sử dụng có hiệu
quả chúng vào đúng mục đích. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp thường không đáp
ứng được nhu cầu vốn của doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp phải đi vay vốn nhằm bù
đắp cho nhu cầu đầu tư của mình. Với sự xuất hiện của thị trường tài chính và hệ thống
ngân hàng thương mại thì việc vay vốn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các cá
nhân trở nên dễ dàng hơn. Doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm vốn từ nhiều nguồn
khác nhau với chi phí tiết kiệm và thủ tục đơn giản hơn rất nhiều.
Chính phủ trong nhiều trường hợp cũng cần phải huy động lượng vốn nhất định để
đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Ngân sách Nhà nước là nguồn cung cấp chủ yếu cho
kế hoạch chi tiêu của chính phủ, song không phải lúc nào nó cũng ở trong trạng thái
lành mạnh, đủ khả năng đáp ứng. Giải pháp đặt ra là có thể in thêm tiền hoặc tăng thuế,
vay nợ nước ngoài nhưng việc này sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực lên toàn bộ nền kinh tế,
qua đó nảy sinh các vấn đề về xã hội. Đây là điều mà các nhà hoạch định chính sách vĩ
mô không muốn nó xảy ra. Vì vậy nhà nước có thể sử dụng biện pháp tích cực hơn đó là
tìm kiếm nguồn vốn huy động trong và ngoài nước thông qua việc phát hành các công
cụ nợ như trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc…
Qua những dẫn chứng trên có thể thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn huy động
đối với nền kinh tế, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Chính
sách huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt
động tài chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ. Để khai thông nguồn vốn đầu tư
phát triển cho nền kinh tế chúng ta phải tận dụng tốt lượng vốn nhàn rỗi từ dân cư, các
tổ chức kinh tế thông qua các kênh huy động của ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng, và có thể từ ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển. Trong đó công tác huy
10
động vốn trong ngân hàng thương mại đóng vai trò quyết định và được chú trọng hơn
cả.
Chính sách huy động vốn là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc gia,

nó liên quan đến chính sách phân phối thu nhập của quốc gia đó, tác động trực tiếp đến
mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Chính sách huy động vốn trong nền kinh tế thị
trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và ổn
định tiền tệ. Vì nguồn vốn có vai trò to lớn đối với nền kinh tế như vậy, nên chúng ta
cần phải khơi thông các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, thông qua các kênh:
vốn từ ngân sách nhà nước, vốn huy động của các tổ chức tín dụng… Trong các kênh
trên, vốn từ ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp nhà nước.
Nhưng hiện nay số lượng doanh nghiệp nhà nước đã giảm do việc cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, việc huy động vốn từ kênh này thường không cao. Bên
cạnh đó, việc huy động vốn còn được thực hiện thông qua kênh tín dụng. Các doanh
nghiệp có thể huy động vốn qua kênh trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhưng ở nước ta phần
lớn các doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên chưa đủ điều kiện để huy động
vốn trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Do đó, việc huy động vốn gián tiếp qua kênh
ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng.
Vậy, việc chú trọng đến các nguồn vốn của nền kinh tế là điều kiện cần thiết của
các ngân hàng khi quan tâm đến sự phát triển chung của nền kinh tế mà ngân hàng là
một trong những thành viên chính góp phần tạo nên sự phát triển đó. Việc đẩy mạnh
công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển đang giữ một vị trí đặc biệt quan trọng
trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta hiện nay.
3.2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với NHTM.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò của NHTM ngày càng quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. NHTM cũng là doanh nghiệp nhưng là một
doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, nên trong quá trình
chuyển mình cùng nền kinh tế, các NHTM đã chuyển dần sang hạch toán kinh doanh, tự
chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình chứ không bao cấp như trước nữa. Do
đó, tính năng động sáng tạo được khơi dậy, các NHTM có xu hướng phát triển đa năng.
Vì đóng vai trò là trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, là thủ quỹ của nền kinh tế
nên NHTM là tác nhân quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Các nguồn
vốn huy động được sẽ quyết định quy mô cũng như định hướng hoạt động của ngân
hàng. Nếu nguồn vốn được coi là yếu tố đầu vào trong quá trình kinh doanh của một

NHTM thì nguồn vốn huy động được coi là yếu tố đầu vào thường xuyên, chủ yếu nhất
11
của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào
nguồn này.
Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh của
NHTM. Cụ thể, nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp nó có
thể mở rộng được tín dụng đầu tư và thu được lợi nhuận cao. Ngược lại, với quy mô hạn
chế và chi phí cao thì ngân hàng có thể gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh của
mình. Chi phí huy động vốn của ngân hàng liên quan chặt chẽ với lãi suất tiền gửi các
loại, lãi suất tiền gửi tiết kiệm các loại và lãi suất các công cụ nợ do ngân hàng phát
hành.
Nguồn vốn huy động không những giúp cho ngân hàng bù đắp được thiếu hụt
trong thanh toán, tăng nguồn vốn trong kinh doanh mà thông qua huy động vốn, ngân
hàng nắm bắt được năng lực tài chính của khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân
hàng. Qua đó, ngân hàng có căn cứ để xác định mức vốn đầu tư cho vay đối với những
khách hàng đó hoặc có thể phát hiện kịp thời tệ tham ô, trốn thuế, lừa đảo của các doanh
nghiệp làm ăn không chính đáng. Từ đó có biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Cơ cấu nguồn vốn cũng ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu cho vay của NHTM. Vốn
tự có của ngân hàng chỉ phát sinh khi nhu cầu thanh toán tín dụng cấp bách còn ngân
hàng cho vay chủ yếu bằng vốn huy động được. Nếu một ngân hàng huy động được vốn
trung và dài hạn thì có thể mở rộng nghiệp vụ tín dụng đầu tư dài hạn. Nhưng hiện nay
việc huy động vốn trung và dài hạn chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế
nên một ngân hàng có thể dùng vốn hoạt động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn
nhưng không được vượt quá một tỷ lệ nhất định vì điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ mất khả
năng thanh toán của ngân hàng.
Bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay hay nguồn vốn ngân hàng huy động
được lại là nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên công tác huy động vốn càng có ý
nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy, công tác huy
động vốn là một mảng hoạt động lớn của các NHTM và nó quyết định rất lớn đến thành
công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng.

II. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN.
Do NHTM huy động theo phương thức “đi vay để cho vay” mà vốn tự có của
ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động. Do vậy, để
có thể tồn tại và phát triển, NHTM phải quan tâm tới các hình thức tạo vốn để không
ngừng mở rộng, phát triển vốn để cạnh tranh trên thị trường. Quá trình tạo vốn được
thực hiện thông qua các hình thức sau:
12
1.1. Tạo vốn thông qua tiền gửi thanh toán.
Tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp hoặc cá nhân: đây là khoản tiền mà khách
hàng gửi vào ngân hàng nhờ ngân hàng giữ hộ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư
cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực
hiện. Các khoản thu của ngân hàng, cá nhân đều có thể được nhập vào thiền gửi thanh
toán theo yêu cầu. Nhìn chung đây là một khoản huy động có lãi suất thấp, có khi bằng
không, thay vào đó chủ tài khoản được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
Mặc dù, đối với tiền gửi thanh toán, người gửi có thể gửi vào hoặc rút ra bất cứ
lúc nào, song giữa việc gửi vào và rút ra có sự chênh lệch nhất định về thời gian và số
lượng, nên các loại tài khoản này luôn có số dư. Ngân hàng có thể huy động số dư đó
làm nguồn vốn tín dụng để cho vay. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh
toán với tài khoản cho vay như cho vay thấu chi – chi trội trên số dư có của tài khoản
tiền gửi thanh toán. Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của tài
khoản thanh toán để nâng lãi suất của loại tiền gửi này lên nhằm cạnh tranh với các tài
chính tín dụng khác.
Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp, để khuyến
khích việc thực hiện thanh toán qua ngân hàng, các NHTM thực hiện trả lãi cho loại tiết
kiệm tiền gửi này (hiện nay khoảng 0,2%/tháng). Ở các nước phát triển loại tiền gửi này
chiếm khoảng 30% tiền gửi của các ngân hàng. Vì lẽ đó, tạo nguồn tiền gửi trên tài khoản
thanh toán này được ngân hàng đặc biệt coi trọng.
Bên cạnh đó các ngân hàng có thể huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi
thanh toán của các ngân hàng khác, nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục
đích khác, NHTM có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô của nguồn này

thường không lớn.
1.2. Tạo vốn thông qua tiền gửi có kỳ hạn.
Nhiều khoản thu của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một
khoảng thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện trọng hoạt động thanh
toán song lãi suất lại thấp, để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền ngân hàng đã
đưa ra hình thức tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được ủy thác vào
ngân hàng trên cơ sở có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân
hàng. Như vậy, theo nguyên tắc khách hàng ký thác chỉ được rút tiền ra khi đến hạn đã
thỏa thuận. Tuy nhiên trên thực tế do phải cạnh tranh để thu hút tiền gửi, các ngân hàng
thường cho phép khách hàng được rút trước hạn. Trong trường hợp này có thể có hai
cách giải quyết: hoặc khách hàng vay tiền của ngân hàng, sau đó khi đến hạn rút tiền thì
13
dùng số tiền và lãi thu được để trả nợ (cả gốc và lãi vay của ngân hàng); hoặc là thỏa
thuận với khách hàng rút tiền ra trước hạn và nhận lãi suất thấp hơn.
Tiền gửi có kỳ hạn là một nguồn vốn tín dụng mang tính chất ổn định, vì mục
đích của người gửi tiền là kiếm lợi chứ không phải là để thanh toán. Do đó, khác với
loại tiền gửi không kỳ hạn yếu tố lãi suất có tác động rất lớn đến loại nguồn vốn này.
Để tăng cường huy động nguồn vốn này, trước hết các ngân hàng thường đưa ra
nhiều loại thời hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của các loại khách hàng khác
nhau. Thông thường có các loại kỳ hạn sau: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng,
2 năm, 5 năm. Với mỗi loại thời hạn, ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương ứng,
với nguyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
1.3. Tạo vốn thông qua tiền gửi tiết kiệm.
Ở các nước phát triển, trong các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi tiết kiệm
đứng vị trí số hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để dành của cá nhân
nhằm hưởng lãi suất theo định kỳ, loại tiền gửi này thường chiếm tỷ trọng khá cao (Mỹ:
25%, Việt Nam: 60 – 70%). Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: (bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ)
Với loại tiết kiệm này người gửi có thể rút một phần hay toàn bộ theo yêu cầu. Tuy
nhiên, khác với tiền gửi thanh toán, người gửi không được sử dụng các công cụ thanh

toán để chi trả cho người khác.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (bao gồm cả nội tệ và ngoại tệ): loại tiền gửi này có nội
dung cơ bản giống như tiền gửi có kỳ hạn mà chúng ta nghiên cứu ở trên.
1.4. Tạo vốn thông qua huy động tiền gửi của ngân hàng khác.
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ giữa các ngân hàng có quan hệ trên thị trường
liên ngân hàng tạo thuận tiện cho khách hàng và một số mục đích khác, ngân hàng
thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên quy mô nguồn này thường
không lớn do hình thức này chỉ được áp dụng trong trường hợp ngân hàng có nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi chưa đầu tư, cho vay hoặc hiệu quả việc đầu tư, cho vay không hiệu
quả bằng gửi tiền ở ngân hàng khác.
1.5. Tạo vốn thông qua phát hành các giấy tờ có giá.
Giống như các doanh nghiệp khác ngân hàng cũng huy động vốn bằng cách phát
hành các giấy tờ có giá (hay còn gọi là các công cụ nợ) như kỳ phiếu, trái phiếu, tín
phiếu ngân hàng…để huy động vốn trên thị trường vốn.
14
Các công cụ nợ của ngân hàng là các giấy nhận nợ mà ngân hàng bán cho công chúng.
Đây là cách thức vay vốn của NHTM, bởi vì những người sở hữu các công cụ này được
hoàn trả vốn vào thời gian đáo hạn cộng thêm khoản tiền lãi nhất định. Những công cụ
nợ của ngân hàng là:
- Tín phiếu ngân hàng: Đây là công cụ nợ ngân hàng dùng để huy động những khoản
vốn ngắn hạn.
- Kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng: Là những công cụ nợ để ngân hàng huy động những
khoản vốn trung - dài hạn.
Nếu đối với các tài khoản tiền gửi phụ thuộc nhiều vào sở thích của khách hàng thì việc
sử dụng các công cụ nợ là một hình thức huy động vốn mang tính chủ động của ngân
hàng. Tuy nhiên việc khách hàng có chấp nhận mua các công cụ nợ đó hay không mới là
điều quan trọng. Nguồn vốn huy động có được bằng việc phát hành các công cụ nợ sử
dụng cho những khoản tín dụng trong kế hoạch của ngân hàng. Với lãi suất tín dụng
trong kỳ kế hoạch, ngân hàng xác định mức lãi suất nhất định cho các công cụ nợ, hay
đưa vào thời hạn các khoản tín dụng trong kế hoạch mà ngân hàng xác định sử dụng loại

công cụ ngắn hạn hay trung - dài hạn.
Đây là một hình thức tương đối mới mẻ so với các NHTM của các nước đang phát triển
vì nó phụ thuộc vào uy tín và năng lực tài chính của chính ngân hàng đó. Tại Việt Nam,
Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 89/ QĐ- NH9 và quyết định số 76/ QĐ-
NH vào ngày 18/03/1995 về việc thành lập thị trường mua bán lại tín phiếu cùng với
quy chế tổ chức hoạt động của thị trường này, tuy nhiên sự chấp nhận của khách hàng,
dân cư còn thấp. Thị trường chứng khoán ra đời phần nào đã thúc đẩy được việc mở
rộng hình thức huy động vốn của các NHTM qua việc phát hành các công cụ nợ.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN.
3.1. Những nhân tố khách quan.
3.1.1.. Tình hình kinh tế- xã hội.
Đây là yếu tố khách quan đối với ngân hàng, yếu tố này ảnh hưởng chung đến việc
huy động và khơi thông nguồn vốn của cả nền kinh tế trong đó có nguồn vốn của
NHTM. Cụ thể trong một nền kinh tế phát triển nguồn tiền gửi, tiền tiết kiệm gửi vào
15
các NHTM ngày càng nhiều… Ngoài ra với một nền kinh tế phát triển thì công nghệ
ngân hàng được hiện đại hoá, người dân có thói quen sử dụng những lợi ích do các
NHTM cung ứng, các nghiệp vụ thanh toán chủ yếu qua ngân hàng, ngân hàng thu được
càng nhiều khoản vốn, chiếm dụng được vốn trong thanh toán. Lạm phát là một yếu tố
kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của ngân hàng. Người dân gửi tiền
vào ngân hàng hy vọng rằng họ sẽ thu được khoản tiền lãi nhất định, lạm phát cao hoặc
biến động có thể làm trượt giá đồng tiền và họ sẽ chuyển các tài khoản của họ sang hình
thái khác có tính ổn định hơn về giá trị.
Bên cạnh đó, các yếu tố như thu nhập của dân cư, thời vụ chi tiêu cũng là các nhân
tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của các ngân hàng. Tại các thành phố lớn, nơi
tập trung các tầng lớp dân cư có thu nhập cao sẽ hình thành một nguồn tiền gửi lớn. Thu
nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền, thời vụ
chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Ví dụ: vào dịp cuối năm,
nguồn tiền gửi tiết kiệm cũng như tiền gửi của các doanh nghiệp có xu hướng giảm sút
đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn đang phổ biến như nước ta hiện

nay.
3.1.2. Môi trường pháp lý và các chính sách kinh tế vĩ mô.
Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chủ trương, phương hướng trong hoạt
động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng thương mại. Ngân hàng
thương mại xây dựng các chiến lược kinh doanh cho riêng mình phải dựa trên cơ sở
tuân thủ pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như chính sách tiết kiệm,
chính sách lãi suất,.. Ngân hàng nhà nước điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nâng
cao năng lực, vai trò hiệu quả và theo sát thị trường, phối hợp chặt chẽ với các chính
sách kinh tế vĩ mô khác thì mới tạo điều kiện và thúc đẩy phát triển các thị trường tiền
tệ cũng như hoạt động của hệ thông ngân hàng. Mặt khác, việc xây dựng một môi
trường pháp lý lành mạnh, thông thoáng cũng là một nhân tố quan trọng góp phần tăng
cường hiệu quả hoạt động huy động và sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại.
3.2. Những nhân tố chủ quan.
3.2.1. Lãi suất
Với tư cách là giá vốn, lãi suất có tác động điều tiết trực tiếp đến hoạt động tín dụng,
cho vay và huy động vốn của ngân hàng, tác động đến lợi nhuận khi xem xét kết quả
kinh doanh, tính toán lãi suất chênh lệch đầu ra đầu vào. Khi lãi suất thay đổi theo diễn
biến quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ, phản ánh đúng tín hiệu của thị
16
trường, điều đó khiến ngân hàng phải tìm kiếm, hoạch định mức lãi suất phù hợp cho
mình. Trong trường hợp lãi suất biến động do tác động của các yếu tố phi vật chất (yếu
tố tâm lí, yếu tố cạnh tranh không lành mạnh...) sẽ có tác động bất lợi đối với hoạt động
tín dụng của ngân hàng. Đây là khó khăn đối với các ngân hàng thương mại có quy mô
hoạt động nhỏ, vốn tự có và khả năng tài chính thấp. Trong trường hợp đó là viêc tăng
lãi suất huy động, tác động hiệu ứng đối với toàn bộ hệ thống, buộc các ngân hàng khác
cũng phải tăng lãi suất để giữ khách hàng gửi tiền trong khi đó có thể không thực sự có
khó khăn về nguồn vốn. Trong nền kinh tế thị trường, các hiện tượng kinh tế thường có
diễn biến, thay đổi nhanh. Lãi suất cũng là yếu tố nhạy cảm và thường xuyên thay đổi,
gắn liền với sự thay đổi của quan hệ cung cầu về vốn. Vì vậy, ngân hàng thương mại
trong quá trình hoạt động cần có sự theo dõi sát sao sự biến động đó để có những giải

pháp ứng phó kịp thời nhằm ổn định tình hình kinh doanh của mình.
3.2.2. Công nghệ ngân hàng.
Ngân hàng loại hình kinh doanh đặc biệt trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Ngân hàng
cũng có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển. Vì vậy mà công
nghệ ngân hàng cần đi trước một bước, công nghệ ngân hàng liên quan trực tiếp đến các
mặt hoạt động như thanh toán, giao dịch, kế toán…Trong cạnh tranh các ngân hàng
không ngừng đổi mới công nghệ bởi lẽ các dịch vụ ngân hàng sẽ không được đa dạng,
đổi mới trừ khi ngân hàng áp dụng những công nghệ ngân hàng tiên tiến. Đối với một
ngân hàng có công nghệ tiên tiến thì chất lượng phục vụ thoả mãn nhu cầu của khách
hàng sẽ tốt hơn, sẽ huy động được nhiều vốn hơn.
3.2.3. Chiến lược Marketing ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường các ngân hàng phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển,
tạo ra sự khác biệt, vượt trội hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh. Trong thực tế, để đạt
được điều này không phải là đơn giản vì khi áp dụng marketing vào ngân hàng thường
gặp một số khó khăn như: Với xu hướng phát triển kinh tế, nhu cầu của khách hàng
ngày càng cao. Các ngân hàng cần phải đổi mới nhanh chóng trang thiết bị, kỹ thuật,
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ… Thông qua công tác marketing ngân hàng
cần phải đưa ra các hình thức huy động vốn với thời hạn, giá cả hợp lý, phù hợp với
từng giai đoạn phát triển cụ thể để đáp ứng tốt nhất nhu cầu, mong muốn của khách
hàng về chất lượng, chủng loại các sản phẩm của ngân hàng. Không những thế, công tác
marketing ngân hàng còn phải biết kích thích các nhu cầu của khách hàng nhằm lôi kéo
khách hàng về với mình để không ngừng mở rộng thêm các khách hàng mới, ngày càng
thu hút được nhiều vốn hơn.
17
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các thông tin
về môi trường kinh doanh, về khách hàng, đồng thời xây dựng chiến lược marketing.
Dựa trên yếu tố này, các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo các công cụ
kỹ thuật của marketing ứng dụng trong hoạt động của ngân hàng để thỏa mãn tốt nhất
nhu cầu của khách hàng. Các công cụ kỹ thuật marketing được tập trung vào 4 chính
sách lớn:

• Chính sách thông tin, ngiên cứu, tìm hiểu điều tra.
Thực thi chính sách này cần huy động toàn bộ phương tiện vật chất cần thiết để
thực hiện việc quan sát, phân tích và tổng hợp các lĩnh vực cơ bản có liên quan đến thị
trường của ngân hàng. Từ các thông tin có được ngân hàng sẽ đưa ra các chính sách
kinh doanh nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng phù hợp với nhu cầu của
khách hàng và nhu cầu sử dụng vốn của thị trường.
• Chính sách sản phẩm giá cả.
Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng bao gồm các dịch vụ cơ bản của nghề ngân
hàng là nghiệp vụ huy động vốn, nguồn vốn sử dụng vốn, nghiệp vụ thanh toán và các
nghiệp vụ ngoại vi mang tính chất hỗ trợ như dịch vụ tư vấn khách hàng, nghiệp vụ
thông tin theo nhu cầu, dịch vụ két… có những nghiệp vụ ngoại vi không mạng lại lợi
nhuận trực tiếp cho ngân hàng, song có tác dụng kích thích sự chú ý, thu hút khách hàng
và làm tăng giá trị cung ứng sự thỏa mãn của khách hàng đối với các dịch vụ cơ bản.
Đặc biệt với sự đa dạng hóa các sản phẩm của nghiệp vụ huy động vốn sẽ tạo điều kiện
cho ngân hàng mở rộng khả năng huy động vốn. Hiển nhiên, một ngân hàng có các dịch
vụ tốt, đa dạng sẽ có nhiều lợi thế hơn so với các ngân hàng khác mà các sản phẩm dịch
vụ không tốt. Một ngân hàng mà có dịch vụ thanh toán hoạt động tốt, đa dạng sẽ thu hút
được nhiều tiền gửi thanh toán hơn các ngân hàng khác.
Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, giá cả được biểu hiện chủ yếu dưới dạng lãi suất của
các khoản tiền gửi, tiền vay, chi phí nghiệp vụ ngân hàng. Yếu tố giá có vai trò quan
trọng đối với kết quả huy động vốn, sử dụng vốn và cung ứng dịch vụ khác của ngân
hàng. Chính sách lãi suất cạnh tranh là một chiến lược quan trọng của ngân hàng. Việc
duy trì lãi suất cạnh tranh huy động, đặc biệt cần thiết khi lãi suất thị trường đang ở mức
tương đối cao. Các ngân hàng cạnh tranh giành vốn không chỉ với nhau mà còn với các
tổ chức tiết kiệm và người phát hành các công cụ khác nhau trên thị trường vốn. Đặc
biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, dù cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất
cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ một công cụ mà họ
đang nắm giữ sang một công cụ khác hoặc chuyển tiền đầu tư, tiết kiệm từ một tổ chức
này sang một tổ chức khác để có lợi nhuận cao hơn.
• Chính sách phân phối.

18
Chính sách phân phối là tập hợp toàn bộ những phương tiện vật chất đưa ra sản
phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Việc đa dạng hóa các kênh phân
phối, mở rộng các quầy giao dịch (số lượng các quầy giao dịch, địa điểm mở quầy, các
sản phẩm, dịch vụ cung ứng tại quầy, trang thiết bị được sắp xếp tại quầy, trình độ đội
ngũ cán bộ nhân viên…) có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của ngân
hàng. Một ngân hàng có càng nhiều kênh phân phối, nhiều quầy giao dịch thì cơ hội tiếp
xúc với khác hàng càng nhiều, từ đó khả năng huy động vốn sẽ tăng lên. Tuy nhiên, việc
mở rộng các kênh phân phối, mở thêm nhiều quầy giao dịch cần phải tính đến yếu tố chi
phí để mở rộng sao cho phù hợp với hiệu quả thu được từ nó.
• Chính sách giao tiếp, khuyếch trương.
Các ngân hàng thường quan tâm hàng đầu tới các chính sách giao tiếp khuyếch
trương. Bởi vì sự giao tiếp của nhân viên với khách hàng tạo ra hình ảnh của ngân hàng,
tạo ra sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng. Giao tiếp tốt sẽ bảo vệ lợi ích của
ngân hàng. Bên cạnh đó, quảng cáo cũng là một phương tiện rất quan trọng để nâng cao
vị thế của ngân hàng, thu hút thêm khách hàng cho ngân hàng, tạo lòng tin của khách
hàng đối với ngân hàng.
3.2.4.Công tác cán bộ tổ chức.
Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, đoàn kết, thân thiện,
năng động thì đó là nền tảng thành công của ngân hàng. Bởi lẽ khách hàng muốn giao
dịch, kinh doanh với một ngân hàng bề thế tiện lợi, các nhân viên dễ mến, lịch sự và có
chuyên môn.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP AN BÌNH .
2.1 KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG TMCP AN BÌNH
2.1.1. Chức năng nhiệm vụ và bộ máy tổ chức của ngân hàng
Sự ra đời và phát triển:
Ngân hàng Thương mại cổ phần An Bình (ABBANK) được thành lập vào tháng 5 năm
1993
19

Năm 2002: Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, ABBANK tiến hành
cải cách mạnh mẽ về cơ cấu và nhân sự để tập trung vào chuyên ngành kinh doanh ngân
hàng thương mại.
Năm 2004: ABBANK tăng vốn điều lệ lên 70,04 tỷ đồng.
Năm 2005: Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) trở thành cổ đông chiến lược của
ABBANK. Các cổ đông lớn khác gồm: Tổng công ty tài chính Dầu Khí (PVFC) , Tổng
công ty Xuất Nhập Khẩu Hà Nội (GELEXIMCO).
Năm 2006: vốn điều lệ tăng từ 165 tỷ đồng vào đầu năm lên 1.131 tỷ đồng vào cuối
năm.
Năm 2007:
- ABBANK ký kết hợp tác chiến lược với Agribank và các công ty thành viên của EVN
như: PC1, PC2, PC3…
- ABBANK trở thành thành viên của mạng thanh toán PAYNET. Đồng thời, vốn điều lệ
của ABBANK tăng lên 2.300 tỷ đồng .
Năm 2008:
- ABBANK triển khai thành công phần mềm ngân hàng lõi (core banking) vào hoạt
động trên toàn hệ thống.
- Maybank chính thức trở thành cổ đông chiến lược nước ngoài của ABBANK với tỷ lệ
sở hữu là 15%.
- ABBANK tăng vốn điều lệ lên 2.705 tỷ đồng.
Năm 2009:
- ABBANK công bố hợp tác với Prudential VN và ngân hàng Deutsche bank.
- Tháng 7/2009, ABBANK chính thức tăng vốn điều lệ lên 2850 tỷ đồng.
- Tháng 9/2009, ABBANK chính thức khai trương Hội sở mới tại 170 Hai Bà Trưng,
P.Đa Kao, Q.1 và triển khai giao dịch ngoài giờ tại Sở giao dịch.
- Tháng 12/2009, ABBANK chính thức tăng vốn điều lệ lên 3482 tỷ đồng.
Một số giải thưởng của ABBANK:
- Doanh nghiệp Thương mại dịch vụ tiêu biểu 2009-Top Trade Services 2009 do Bộ
công thương trao tặng.
- Thương hiệu vàng 2009 do Hiệp hội chống hàng giả và bảo vệ thương hiệu VN phối

hợp với Bộ Công Thương trao tặng.
- Ngân hàng thanh toán quốc tế xuất sắc 2007 và 2008: do Wachoviabank –ngân hàng
lớn của Mỹ trao tặng.
- Nhãn hiệu nổi tiếng quốc gia 2008 và 2009: Hội sở hữu trí tuệ Việt Nam trao tặng.
- Cúp vàng Nhà bán lẻ hàng đầu VN 2008: Hiệp hội các Nhà bán lẻ VN trao tặng.
- Thương hiệu nổi tiếng VN 2008: do VCCI và công ty Nielsen trao tặng.
20
- Giải thưởng Quả Cầu Vàng – the Best Banker cho ngân hàng phát triển nhanh các sản
phẩm dịch vụ công nghệ cao: Ban tổ chức hội chợ tài chính- ngân hàng- bảo hiểm
Banking Expo 2007 trao tặng.
- “Nhà phát hành trái phiếu công ty bản tệ tốt nhất Châu Á”: Tạp chí Asia Money bình
chọn.
Chức năng nhiệm vụ của ngân hàng:
Ngân hàng An Bình (ABBANK) là một trong 10 ngân hàng TMCP có vốn điều lệ lớn
nhất VN hiện nay. Tính đến tháng 12/2009, vốn điều lệ của ABBANK đạt 3482 tỷ đồng,
tổng tài sản đạt trên 26.576 tỷ đồng. Sau hơn 15 năm thành lập và phát triển, ABBANK
đã trở thành cái tên thân thuộc với gần 10.000 khách hàng doanh nghiệp và trên 100.000
khách hàng cá nhân tại 29 tỉnh thành trên cả nước thông qua mạng lưới 90 chi nhánh/
phòng giao dịch.
Chuyên ngành kinh doanh: Ngân hàng Thương mại (bán lẻ) và Ngân hàng Đầu tư
(bán sỉ)
-Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn dưới các hình thức: tiền gửi có kỳ hạn,
không kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi, tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư và phát triển của các tổ
chức.
- Vay vốn của ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng khác.
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
- Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá.
- Hùn vốn và liên doanh.
- Làm dịch vụ thanh toán nội địa và quốc tế.
- Tư vấn tài chính.

- Tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án.
Tại ABBANK, khách hàng không chỉ hài lòng với chất lượng sản phẩm linh hoạt
hiện đại, với dãy sản phẩm đa dạng phong phú, mà còn bởi chất lượng phục vụ chuyên
nghiệp thân thiện. Với sự hỗ trợ từ cổ đông chiến lược trong nước là Tập đoàn Điện lực
Việt Nam (EVN), đối tác chiến lược nước ngoài là Maybank - Ngân hàng lớn nhất
Malaysia, và các đối tác khác như Prudential, Tổng công ty bưu chính Việt Nam
(VNPost), Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel…, ABBANK đang tiến gần hơn
tới mô hình một “siêu thị tài chính” hiện đại.
Các nhóm khách hàng mục tiêu hiện nay của ABBANK bao gồm: nhóm khách
hàng doanh nghiệp, nhóm khách hàng cá nhân và nhóm khách hàng đầu tư.
Đối với khách hàng Doanh nghiệp, ABBANK sẽ cung ứng sản phẩm - dịch vụ tài
chính ngân hàng trọn gói như: sản phẩm cho vay, sản phẩm bao thanh toán, sản phẩm
21
bảo lãnh, sản phẩm tài trợ xuất nhập khẩu, sản phẩm tài khoản, dịch vụ thanh toán quốc
tế...
Đối với các khách hàng cá nhân, ABBANK cung cấp nhanh chóng và đầy
đủ chuỗi sản phẩm tiết kiệm và sản phẩm tín dụng tiêu dùng linh hoạt, an toàn, hiệu
quả như: Cho vay tiêu dùng có thế chấp; Cho vay tín chấp, Cho vay mua nhà, Cho vay
sản xuất kinh doanh, Cho vay bổ sung vốn lưu động; Cho vay mua xe; Cho vay du
học…và các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền trong và ngoài nước.
Bên cạnh các sản phẩm dịch vụ cho vay, bảo lãnh, thanh toán quốc tế…ABBANK
cũng được biết đến với sản phẩm thẻ YOUcard- Thẻ đầu tiên được chấp nhận rộng rãi
tại hầu khắp các ATM/POS của các ngân hàng trên toàn quốc. Trong năm 2009,
ABBANK tiếp tục cho ra mắt thành công Thẻ thanh toán quốc tế YOUcard VISA debit,
đáp ứng trọn vẹn nhu cầu chi tiêu của khách hàng.
Với các khách hàng đầu tư, ABBANK thực hiện các dịch vụ ủy thác và tư vấn đầu tư
cho các khách hàng công ty và cá nhân. Riêng với các khách hàng công ty, ABBANK
cũng cung cấp thêm các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn phát hành và bảo lãnh phát hành
trái phiếu, đại lý thanh toán cho các đợt phát hành trái phiếu.
Với nhóm khách hàng thuộc Tập đoàn Điện lực và các đơn vị thành viên, với lợi

thế am hiểu chuyên sâu ngành điện, thấu hiểu khách hàng, ABBANK đã nghiên cứu và
triển khai nhiều sản phẩm tối ưu dành riêng cho khách hàng Điện lực: Thu hộ tiền điện,
Quản lý dòng tiền, Thu xếp vốn cho các dự án truyền tải điện…
Bộ máy tổ chức của ngân hàng:
Hội đồng quản trị:
Ông Vũ Văn Tiền
Chủ tịch HĐQT
Sinh năm 1959
Cử nhân kinh tế - Đại học kinh tế Quốc dân
Kỹ sư - Học viện kỹ thuật Quân sự
22
Ông Tiền là một trong các doanh nhân thành công và có uy tín nhất tại Việt nam. Ông
Tiền đã được Nhà nước và Chính phủ tặng thưởng nhiều huy chương cho các đóng góp
vào sự phát triển kinh tế của đất nước
.+ Huân chương lao động hạng III.
+ Huy chương Vì thế hệ trẻ.
+ Bằng khen của Thủ tướng chính phủ.
+ Bằng khen của UBND thành phố Hà Nội.
+ Giải thưởng Sao đỏ.
Ngoài cương vị là chủ tịch Hội đồng Quản trị của ABBANK, hiện nay ông Vũ Văn Tiền
đồng thời cũng giữ các cương vị lãnh đạo cao cấp sau:
+ Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu
tổng hợp Hà Nội.
+ Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình
+ Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Xi măng Thăng Long
+ Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần An Hoà.
Ông Nguyễn Hùng Mạnh
Phó Chủ tịch thường trực HĐQT
Sinh năm 1956
Cao học kinh tế - Đại học Ohio (Mỹ)

Cử nhân - Đại học Ngoại ngữ Hà Nội
Ông Mạnh đã có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong các ngành dầu khí và thương
mại trước khi tham gia ngành tài chính ngân hàng của Việt Nam vào giữa những năm
1990. Ông Mạnh tham gia vào việc điều hành ABBANK vào năm 2001 và là một trong
các thành viên chủ chốt đã đưa ABBANK đến thành công như ngày hôm nay.
Ông Đào Văn Hưng
Phó Chủ tịch HĐQT
Sinh năm 1955.
Thạc sĩ Kinh tế - Đại học Bách khoa Hà Nội
Ông Hưng đã có hơn 30 năm công tác trong ngành điện và đã nắm giữ nhiều cương vị
chủ chốt của Tập đoàn Điện lực. Hiện nay ông Hưng là Chủ tịch của Tập đoàn Điện lực
EVN.
Ông Dương Quang Thành
Thành viên HĐQT
23
Sinh năm 1962
Tiến sĩ Kinh tế - Đại học Bách khoa Hà Nội.
Thạc sĩ Học viện Công nghệ Châu Á (AIT), Bangkok, Thái Lan
Ông Thành đã có hơn 20 năm công tác trong ngành điện và giữ các vị trí chủ chốt trong
Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Hiện nay ông Thành là Phó Tổng Giám đốc của Tập đoàn
Điện lực EVN.
Ông Abdul Farid bin Alias
TVHĐQT
Sinh năm 1968
Thạc sỹ Quản trị kinh doanh ngành Tài chính Đại học Denver, Hoa Kỳ
Cử nhân Khoa học chuyên ngành Kế toán, Đại học bang Pennsylvania, Hoa Kỳ
Đại diện phần vốn góp của Maybank tại ABBANK.
Ban điều hành
Ông Nguyễn Hùng Mạnh
Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc

Sinh năm 1956
Cao học kinh tế - Đại học Ohio (Mỹ)
Cử nhân - Đại học Ngoại ngữ Hà Nội
Ông Mạnh đã có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong các ngành dầu khí và thương
mại trước khi tham gia ngành tài chính ngân hàng của Việt Nam vào giữa những năm
1990. Ông Mạnh tham gia vào việc điều hành ABBANK vào năm 2001 và là một trong
các thành viên chủ chốt đã đưa ABBANK đến thành công như ngày hôm nay.

Bà Trần Thanh Hoa
Phó Tổng Giám đốc, Tín dụng và Quản lý Rủi ro
Sinh năm 1963.
Thạc sĩ Kinh tế - Tài chính Ngân Hàng
Bà Hoa đã có hơn 20 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành tài chính ngân hàng với
ngân hàng Vietcombank.
Ông Nguyễn Công Cảnh
Phó Tổng Giám đốc, Kế toán và Kiểm soát nội bộ
Sinh năm 1958
Cử nhân Đại học Kinh tế
Ông Cảnh đã có hơn 20 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành tài chính ngân hàng với
ngân hàng Nông nghiệp.
24
Ông Bùi Trung Kiên
Phó Tổng Giám đốc, tham mưu cho Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Sinh năm 1973
Cử nhân Kinh tế (Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội)
Cử nhân Ngoại ngữ (Đại học Mở Hà Nội) Cử nhân Luật (Viện Đại học Mở Hà Nội)
Thạc sỹ Quản lý chính sách công (Đại học Quốc gia Singapore).
Ông Kiên đã có nhiều năm kinh nghiệm hoạt động trong ngành tài chính ngân hàng của
Việt Nam, trong đó có 11 năm làm việc tại ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Mai

Phó Tổng Giám đốc, Phát triển khách hàng của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, chỉ đạo
trực tiếp Phòng phát triển mạng lưới khu vực Miền Bắc và Miền Trung, quản lý hành
chính khu vực Miền Bắc.
Sinh năm 1974. Kỹ sư Kinh tế năng lượng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Thạc sỹ Kinh tế Năng lượng, Học Viện Công nghệ Châu Á.
Tiến sỹ kinh tế, Đại học Kwansei Gakuin, Nhật bản.
Bà Mai đã có 12 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, tài
chính dự án thuộc tập đoàn điện lực EVN.
Ông Phạm Quốc Thanh
Phó Tổng Giám đốc, Khối Khách hàng doanh nghiệp
Sinh năm 1970. Cử nhân Đại học Ngân hàng.
Cử nhân Đại học Ngoại ngữ.
Cử nhân học viện tài chính quốc tế IFS School of Finance, Anh.
Ông Thanh đã có hơn 15 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành tài chính ngân hàng,
trong đó có 10 năm làm việc tại ngân hàng HSBC.
Ông Đặng Quang Minh
Phó Tổng Giám Đốc phụ trách hoạt động kinh doanh và phát triển mạng lưới phía Bắc.
Sinh năm 1972
Cử nhân Đại Học Tài Chính
Ông Minh đã có 16 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng.
Ông Tong Hon Keong
Giám đốc vận hành nghiệp vụ.
Cử nhân Kinh tế, Đại Học Malaysia.
Ông Tong có 33 năm kinh nghiệm làm việc ở ngân hàng lớn nhất Malaysia, và đã từng
công tác ở nhiều bộ phận khác nhau, 20 năm nắm giữ các vị trí quan trọng trong Ban
Điều hành, và là thành viên của Ban Điều Hành. Là thành viên của Hội Đồng Quản Trị
Maybank Group và MEPS từ năm 1997.
25

×