Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Chính sách tài khóa Việt Năm năm 2014 và kiến nghị cho chính sách tài khóa năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.19 KB, 20 trang )

Đề tài: Chính sách tài khóa Việt Năm năm 2014 và kiến nghị
cho chính sách tài khóa năm 2015
I.Khái quát chung về chính sách tài khóa
1. Định nghĩa
Là việc chính phủ sử dụng công cụ thuế (T) và chi tiêu chính phủ (G) để điều tiết
nền kinh tế.
2. Phân loại
Chính sách tài khóa gồm 2 loại:
- Chính sách tài khóa dài hạn: được sử dụng để thay đổi cơ cấu kinh tế và thúc đẩy
tăng trưởng
- Chính sách tài khóa ngắn hạn: nhằm chống suy thoái, lạm phát, thất nghiệp hoặc
cân bằng ngân sách (bao gồm chính sách tài khóa mở rông và chính sách tài kháo thăt
chặt)
2.1. Chính sách tài khóa mở rộng:
Chính sách tài khoá mở rộng được áp dụng khi nền kinh tế có mức sản lượng thấp
hơn sản lượng tiềm năng, nhằm tăng tổng cầu cho nền kinh tế
Khi chính phủ tăng chi tiêu (G) hoặc giảm thuế (T) nhằm kích thích tổng cầu (AD),
tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng làm cho đường AD dịch chuyển sang phải. Lúc này
sản lượng cân bằng tăng do đó làm tăng cầu tiền để phục vụ mục đích giao dịch. Sự gia
tăng cầu tiền này đẩy lãi suất tăng lên và làm giảm đầu tư. Sự lấn át đầu tư như vậy triệt
tiêu một phần ảnh hưởng của chính sách mở rộng tài khoá đối với tổng cầu.
Giả sử nền kinh tế lúc ban
đầu cân bằng tại điểm A(Y0, P0 ) với đường AD0 và đường AS,Khi chính phủ gia tăng
chi tiêu một lượng là DG làm tổng cầu (AD) tăng, với mức lãi suất chưa kịp thay
đổi, đường AD dịch chuyển đến mức sản lượng Y1’. Như khi sản lượng cân bằng trên thị
trường hàng hoá tăng đếnY1’ thì cầu tiền tệ bắt đầu tăng để phục vụ mục tiêu giao dịch
và mức lãi suất tăng lên. Do đó, sau khi tăng chi tiêu chính phủ thay vì nền kinh tế đạt
mức sản lượng tại Y1’ với mức lãi suất là i0 thì lại cân bằng tại C(Y1, P1) do ảnh hưởng
của hiệu ứng lấn át đầu tư. Nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hoá
và tiền tệ mới tại C(Y1, P1) với sản lượng và lãi suất cân bằng đều cao hơn điểm cân
bằng ban đầu A.


2.2. Chính sách tài khóa thu hẹp (thắt chặt):
Chính sách tài khoá thu hẹp được chính phủ áp dụng khi nền kinh tế có sản lượng
thực tế cao hơn sản lượng tiềm năng, nhằm giảm tổng cầu cho nền kinh tế.
 Khi chính phủ giảm chi tiêu
hoặc tăng thuế, tổng cầu giảm làm cho sản lượng cân bằng giảm, điều nàydẫn
đến cầu tiền tệ cũng giảm. Khi cầu tiền giảm lãi suất sẽ giảm, lãi suất giảm
khuyến khích đầu tư tư nhân và nhờ đó tổng cầu tăng trở lại.
Khi chính phủ giảm chi tiêu, sản lượng cân bằng giảm từ Y
0
xuống Y1’ lãi suất
chưa thay đổi, thị trường hàng hoá cân bằng tại B(Y
i
’, P
0
). Nhưng khi sản lượng giảm thì
cầu tiền tệ phục vụ cho giao dịch giảm, điều này làm cho lãi suất giảm, đến lược nó lãi
suất giảm khuyến khích đầu tư vàlàm tăng tổng cầu trở lại. Lúc này thị trường hàng hoá
và tiền tệ tái lập cân bằng tại C (Y
1
, P
1
).
3. Hạn chế của chính sách tài khóa:
- Mâu thuẫn giữa tập trung vào NSNN với tích luỹ trong các cơ sở kinh doanh. Vì vậy
chính sách tài khoá cần giải quyết tốt mâu thuẫn này, đó là yêu cầu khách quan của phát
triển kinh tế - xã hội. Mâu thuẫn này hiện nay ở nước ta đang gay gắt, biểu hiện ở chỗ tốc
độ tăng thu vào NSNN năm sau cao hơn năm trước và lớn hơn nhiều lần so với tốc độ
tăng tổng sản phẩm quốc dân, trong khi tình trạng thất thu từ thuế còn lớn.
- Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện công bằng xã hội. Nguyên nhân
của mâu thuẫn này: từ một mặt NSLĐ xã hội còn thấp kém, muốn tăng trưởng thì phải

tích luỹ, do đó tiêu dùng bị hạn chế, không giải quyết đúng mức những vấn đề xã hội cấp
bách. Nếu ngược lại thì không đảm bảo thực hiện được mục tiêu kinh tế. Mặt khác, do
phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, sẽ dẫn tới phân hoá giàu nghèo là không tránh
khỏi. Vì vậy, để giải quyết mâu thuẫn trên, chính sách tài khoá phải thể hiện nội dung
điều tiết thu nhập sao cho hợp lý.
- Khó tính toán một cách chính xác liều lượng cần thiết của chính sách. Khó xác định
chính xác số nhân k → điều chỉnh G, T không chính xác
- Độ trễ trong phát huy hiệu quả của chính sách tài chính: Chính sách tài khóa có độ trễ
bên trong và bên ngoài do sự phụ thuộc vào các yếu tố chính trị và cơ cấu tổ chức bộ máy
khá lớn. Độ trễ bên trong gồm thời gian thu thập thông tin, xử lý thông tin và ra quyết
định. Độ trễ bên ngoài bao gồm quá trình phổ biến, thực hiện và phát huy tác dụng.
- Những trở ngại về chính trị:Ở nhiều nước, chính phủ muốn tiến hành đầu tư (chi tiêu
chính phủ) thường phải xin quốc hội phê duyệt. Khả năng bị quốc hội bác bỏ không phải
là không có.Vì thế, không phải cứ muốn thực hiện chính sách tài chính nới lỏng thông
qua tăng chi tiêu chính phủ là luôn có thể làm được.Mặt khác khi đã chi và tiến hành đầu
tư rồi, mà lại muốn thực hiện chính sách tài chính thắt chặt lại cũng khó khăn vì không
thể bỏ dở các công trình đầu tư đang triển khai được.
- Chính sách tài khóa thường được thực hiện thông qua các dự án công cộng xây dựng cơ
sở hạ tầng, phát triển việc làm và trợ cấp xã hội với kết quả đa số dự án kém hiệu quả
kinh tế
- Khả năng quản lý chính sách tài khóa của chính phủ còn kém.
- Tác động của chính sách tài khóa thiếu quyết liệt so với chính sách tiền tệ.
- Chính sách tài khóa mở rộng dễ thực hiện hơn chính sách tài khóa thu hẹp. Thực hiện
chính sách tài chính nới lỏng thông qua giảm thuế thì dễ.Nhưng khi muốn thực hiện
chính sách tài chính thắt chặt thông qua tăng thuế lại rất dễ bị người dân phản đối.
II. Các công cụ của chính sách tài khóa
1. Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ
- Là một phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài
chính. Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua
ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của

Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và
được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của
nhà nước.
Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của
đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân.
* Ngân sách cân bằng với mục tiêu ổn định:
- Sản lượng cân bằng trong điều kiện cân bằng ngân sách:
Ngân sách cân bằng khi thu = chi: T = G
Sảnlượng cân bằng thỏa hệ phương trình:
Y = C + I + G + X – M
G = T
- Cân bằng ngân sách không phải lúc nào cũng tốt đối với nền kinh tế
- Tuyệt đối hóa mục tiêu cân bằng ngân sách có thể làm cho sự dao động của sản lượng
trong các chu kỳ kinh doanh trở nên trầm trọng hơn.
- Thâm hụt hoặc thặng dư ngân sách có thể góp phần ổn định kinh tế
- Cần duy trì chính sách thuế ổn định → chấp nhận thâm hụt khi suy thoái hoặc khi nhu
cầu chi tiêu cao bất thường
- Một số khoản chi hiện tại là dành cho tương lai → chấp nhận thâm hụt
Chính sách tài khoá của Nhà nước được sử dụng trong việc huy động các nguồn thu vào
NSNN và sử dụng nó trong hạn nhất định (thường là 1 năm).
2. Thuế
2.1. Khái niệm:
- Trên góc độ phân phối thu nhập: “Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại
tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quý tiền tệ tập trung của
nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước.”
- Trên góc độ người nộp thuế: “Thuế là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức,
cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi

tiêu cho việc thực hiện các chức năng , nhiệm vụ của nhà nước.”
- Trên góc độ kinh tế học: “Thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, nhà nước sử
dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực
công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của nhà nước.”
- Theo từ điển tiếng việt: “ Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc các
tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp… buộc phải nộp cho nhà
nước theo mức quy định.”
2.2. Phân loại:
• Theo đối tượng chịu thuế:
- Thuế thu nhập bao gồm các sắc thuế có đối tượng chịu thuế là thu nhập nhận
được, thu nhập này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: thu nhập từ lao động
dưới dạng tiền lương, tiền công, thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi
nhuận, lợi tức cổ phần…
Do vậy thuế thu nhập cũng có nhiều hình thức khác nhau : Thuế thu nhập cá nhân, thuế
thu nhập doạnh nghiệp.
- Thuế tiêu dùng là các loại thuế có đối tượng chịu thuế là phần thu nhập được
mang tiêu dùng trong hiện tại. Bao gồm: Thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá
trị gia tăng…
- Thuế tài sản là các loại thuế có đối tuợng chịu thuế là giá trị tài sản.Bao gồm ,thuế
bất động sảnlà thuế tài sản đánh trên giá trị của tài sản cố định,thuế động sản là thuế đánh
trên tài sản chính .
• Theo phương thức đánh thuế:
- Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp
thuế .ở thuế trực thu bao gồm: Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao,thuế thu
nhập doanh nghiệp ,thuế nhà đất….
- Thuế gián thu là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của người
nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ .Bao gồm:
Thuế giá trị gia tăng ,thuế tiêu thụ đặc biệt,thuế xuất khẩu và nhập khẩu.
• Theo mối quan hệ đối với khả năng nộp thuế
- Thuế thực là loại thuế không dựa vào khả năng của người nộp thuế .Thuế thực bao

gồm: Thuế điền thổ,thuế nhà cửa,thuế tài sản.
- Thuế cá nhân là loại thuế dựa trên khả năng của người nộp thuế, là thuế đánh vào
thu nhập của người nộp thuế và được thu ngay từ khâu phát sinh thu nhập hoặc do khai
báo. Các loại thuế cá nhân bao gồm: Thuế thu nhập cá nhân, thuế lợi tức, thuế thu nhập
công ty, thuế doanh nghiệp, thuế lợi nhuận siêu ngạch…
• Theo phạm vi thẩm quyền:
- Thuế trung ương: Là các hình thức thuế do các cơ quan đại diện chính quyền nhà
nước ở trung ương ban hành.
- Thuế địa phương: Là các hình thức thuế do chính quyền địa phương ban hành.
1.3. Vai trò:
• Là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước: Một nền tài chính quốc gia lành
mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân.Tất cả các nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước đều được đáp ứng qua các nguồn thu từ thuế, phí và các hình thức
thu khác như: vay mượn, viện trợ nước ngoài, bán tài nguyên quốc gia, thu khác vv
Song thực tế các hình thức thu ngoài thuế đó có rất nhiều hạn chế, bị ràng buộc bởi nhiều
điều kiện. Do đó thuế được coi là khoản thu quan trọng nhất vì khoản thu này mang tính
chất ổn định và khi nền kinh tế càng phát triển thì khoản thu này càng tăng.
Bảng 1: Tình hình tỉ lệ thuế và phí trong tổng thu ngân sách nhà nước ta trong thời gian
qua ( Tài liệu của Tổng cục thuế ).
Năm Tổng số Thuế và Phí (Đơn
vị: Tỷ đồng)
Phần trăm so với
Tổng Thu NSNN
Phần trăm so với GDP
1990 5906 73,7 14,00
1991 9844 92,7 12,83
1992 18514 88,0 16,75
1993 28695 90,5 21,0
1994 36629 89,6 21,75
• Điều chỉnh các mục tiêu kinh tế vĩ mô của Nhà nước: Chính sách thuế được đặt ra

không chỉ nhằm mang lại số thu đơn thuần cho ngân sách mà yêu cầu cao hơn là qua thu
góp phần thực hiện chức năng việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý hướng dẫn và khuyến
khích phát triển sản xuất, mở rộng lưu thông đối với tất cả các thành phần kinh tế theo
hướng phát triển của kế hoạch nhà nước, góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mặt
mất cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân.
• Tái phân phối các nguồn tài chính, góp phần đảm bảo công bằng xã hội: Nhà nước
dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, thông qua việc
trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng. Thông qua thuế thu nhập, Nhà nước thực hiện
vai trò điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu
nghèo và tiến tới công bằng xã hội. Một khía cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều
chỉnh thu nhập là các khoản thuế đánh vào tiêu dùng: Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế Giá trị
gia tăng. Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu việc giảm thuế sẽ có lợi cho người nghèo
hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm bớt. Trái lại những mặt hàng xa xỉ, cao
cấp việc tăng thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập của người giàu trong
xã hội. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh thu nhập, mức thu nên xây
dựng hợp lý tránh tình trạng điều tiết quá lớn làm giảm khát vọng làm giàu của nhà kinh
doanh và giảm khả năng tăng trưởng kinh tế của đất nước.
• Kiềm chế lạm phát: Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả
hàng hoá tăng lên hoặc do chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để điều chỉnh lạm
phát, ổn định giá cả thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì nhà nước dùng thuế để điều
chỉnh bằng cách giảm thuế đối với các yếu tố sản xuất, giảm thuế thu nhập để kích thích
đầu tư sản xuất ra nhiều khối lượng sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời tăng thuế đối với
hàng hoá tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí tăng, gia tăng thất nghiệp,
sự trì trệ của tốc độ phát triển kinh tế, giá cả đầu vào tăng, nhà nước dùng thuế hạn chế
tăng chi phí bằng cách cắt giảm thuế đánh vào chi phí, kích thích tăng năng suất lao
động.
• Kích thích tăng trưởng kinh tế: Để thực hiện các mục tiêu này, một trong những
công cụ quan trọng mà nhà nước sử dụng là chính sách thuế. Nội dung điều tiết của thuế
gồn hai mặt: Kích thích và hạn chế. Nhà nước đã sử dụng chính sách thuế một cách linh
hoạt trong từng thời kỳ nhất định, bằng việc tác động vào cung-cầu nhằm điều chỉnh chu

kỳ kinh doanh- một đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường.
3. Chi tiêu chính phủ
3.1.Phân loại
*Nhóm chi thường xuyên bao gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt động thường xuyên
của nhà nước;
*Nhóm chi đầu tư phát triển là các khoản chi dài hạn nhằm làm tăng cơ sở vật chất của
đất nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
*Nhóm chi trả nợ và viện trợ bao gồm các khoản chi để nhà nước thực hiện nghĩa vụ
trả nợ các khoản đã vay trong nước, vay nước ngoài khi đến hạn và các khoản chi làm
nghĩa vụ quốc tế;
*Nhóm chi dự trữ là những khoản chi ngân sách nhà nước để bổ sung quỹ dự trữ nhà
nước và quỹ dự trữ tài chính.
3.2. Nguyên tắc tổ chức chi ngân sách nhà nước
*Nguyên tắc thứ nhất: gắn chặt các khoản thu để bố trí các khoản chi:nếu vi phạm
nguyên tắc này dẫn đến bội chi nsnn,gây lạm phát mất cân bằng cho sự phát triển xã hội;
*Nguyên tắc thứ hai: đảm bảo yêu cầu kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các
khoản chi tiêu của nsnn;
*Nguyên tắc thứ ba: theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm, nhất là các
khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội;
*Nguyên tắc thứ tư: tập trung có trọng điểm:đòi hỏi việc phân bổ nguồn vốn từ
nsnn phải tập trung vào các chương trình trọng điểm, các ngành mũi nhọn của nn;
*Nguyên tắc thứ năm: phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các cấp
theo quy định của luật;
*Nguyên tắc thứ sáu: phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối
đoái.
III.Chính sách tài khóa Việt Nam
1. Thực trạng chính sách tài khóa Việt Nam năm 2013 – 2014
a) Những kết quả đạt được năm 2013 – 2014:
• Hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước vượt dự toán:
Tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2014 ước đạt 858.053 tỷ đồng, bằng

109,6% dự toán. Trong đó, thu nội địa bằng 107,5% dự toán, thu từ dầu thô bằng 117,5%
dự toán, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 112,9% dự toán. Hầu hết
các địa phương đều thu đạt và vượt dự toán được giao.
Ngay từ đầu năm, ngành Tài chính đã tập trung chỉ đạo, tăng cường quản lý điều
hành tài chính - NSNN, bám sát các nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ. Trong đó:
• Rà soát hoàn thiện các chính sách thu và tăng thu NSNN ở một số sắc thuế, nội
dung thu nhằm bù đắp sự sụt giảm thu NSNN:
Chính sách thu NSNN đã được rà soát và hoàn thiện theo hướng bảo đảm phù hợp
với lộ trình giảm thuế đã cam kết theo các hiệp định tự do thương mại song phương và đa
phương, tăng thuế suất đối với một số mặt hàng không khuyến khích sử dụng như tăng
thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia và thuốc lá theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 70/2014/QH13 ngày 26/11/2014; Điều chỉnh barem về
thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi các mặt hàng xăng, dầu thuộc nhóm 2710 tại Biểu thuế
nhập khẩu ưu đãi tương ứng với giá các mặt hàng dầu trên thị trường thế giới, đồng thời
điều chỉnh tăng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một số mặt hàng xăng, dầu.
Trước đó, Nghị quyết 57/2013/QH13 ngày 12/11/2013 cũng đã quy định thu vào NSNN
75% số tiền lãi dầu, khí nước chủ nhà được chia và tiền đọc tài liệu phát sinh trong năm
2014; Thực hiện thu NSNN đối với cổ tức được chia năm 2014 cho phần vốn Nhà nước
của các công ty cổ phần có vốn góp của Nhà nước do bộ, ngành, địa phương đại diện chủ
sở hữu và phần lợi nhuận còn lại sau khi trích nộp các quỹ theo quy định của pháp luật
của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ.
• Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế, hải quan giảm số giờ thu nộp
ngân sách của người nộp thuế.
Việc tăng cường công tác tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế, đơn giản hóa quy
trình, thủ tục, hồ sơ cũng như số lần khai nộp thuế, hiện đại hóa công tác thu nộp ngân
sách đã giúp giảm 290 giờ nộp thuế của DN (từ 537 giờ/năm xuống còn 247 giờ/ năm,
không tính thời gian nộp bảo hiểm). Ngoài ra, từ năm 2015, khi thực hiện Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của các Luật về thuế số 71/2014/QH13 công tác này sẽ giảm thêm
được 80 giờ (từ 247 giờ/ năm xuống còn 167 giờ/năm).
• Tăng cường thanh tra, kiểm tra, chống thất thu NSNN; chú trọng công tác

quản lý nợ thuế.
Nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường quản lý thu NSNN, công tác thanh tra,
kiểm tra được đẩy mạnh, đặc biệt là thanh tra, kiểm tra về công tác hoàn thuế GTGT và
chống chuyển giá. Năm 2014, ngành Tài chính đã thanh tra, kiểm tra hơn 67.000 DN;
kiểm tra trên 3.000 hồ sơ sau hoàn thuế; thanh tra kiểm tra gần 3.000 DN lỗ, DN có dấu
hiệu chuyển giá và DN có hoạt động giao dịch liên kết.
Công tác quản lý nợ thuế cũng được chú trọng thông qua việc tăng cường áp dụng
các biện pháp đôn đốc thu nợ, cưỡng chế nợ thuế bằng nhiều hình thức phù hợp. Kết quả
là năm 2014 đã thu 50% số nợ thuế tại thời điểm cuối năm 2013.
Các biện pháp nêu trên đã mang lại kết quả thu NSNN tích cực, đồng thời tạo điều
kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN phát triển trong bối cảnh tình hình kinh
tế trong và ngoài nước còn gặp nhiều khó khăn.
• Chi ngân sách nhà nước chặt chẽ, tiết kiệm, kỷ cương tài chính được nâng cao:
Chi NSNN cho đầu tư phát triển cả năm ước khoảng 169.000 tỷ đồng, bằng
103,7% dự toán. Chi NSNN cho đầu tư phát triển đã được tập trung cho các công trình,
dự án quan trọng, đồng thời được bổ sung từ nguồn dự phòng NSNN để thực hiện các dự
án cấp bách về quốc phòng, an ninh, khắc phục sự cố đê, kè xung yếu để chủ động phòng
tránh và giảm nhẹ thảm họa thiên tai, bổ sung tăng dự trữ quốc gia để bù lượng hàng dự
trữ đã xuất cấp
Chi thường xuyên ước đạt 101,9% dự toán đã đảm bảo nguồn lực thực hiện các
nhiệm vụ phát triển sự nghiệp y tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, an
sinh xã hội Trong năm 2014, để khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, ngành Tài
chính đã xuất cấp hàng dự trữ quốc gia với tổng trị giá khoảng 1.025,5 tỷ đồng, trong đó
xuất cấp trên 102,9 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu trợ cho nhân dân ở những vùng
bị thiếu đói, giáp hạt và hỗ trợ học sinh khu vực khó khăn Chi trả nợ, viện trợ đạt 100%
dự toán, đảm bảo thanh toán đầy đủ, kịp thời các khoản nợ theo cam kết.
Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát chi NSNN được chú trọng và tăng cường.
Ước tính năm 2014, hệ thống Kho bạc Nhà nước đã thực hiện kiểm soát chi đối với
944.833 tỷ đồng, bằng 93,8% dự toán, trong đó đã kiểm soát 679.165 tỷ đồng chi thường
xuyên của NSNN (không bao gồm chi trả nợ, viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính,

dự phòng), đạt 96,4% dự toán. Thông qua công tác kiểm soát chi NSNN, các đơn vị Kho
bạc Nhà nước đã phát hiện khoảng 36.500 khoản chi chưa đủ thủ tục theo quy định, từ
chối thanh toán 39 tỷ đồng và đối với kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, hệ thống Kho bạc
Nhà nước đã từ chối chi 65 tỷ đồng.
• Công tác huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển đạt
kết quả cao:
Năm 2014, tổng giá trị huy động vốn thông qua kênh trái phiếu chính phủ đạt trên
248.000 tỷ đồng, tăng 37% so với năm 2013 (kết quả cao nhất từ trước tới nay). Trong
đó, phát hành trái phiếu chính phủ huy động vốn cho NSNN và đầu tư phát triển cơ bản
hoàn thành kế hoạch đề ra. Công tác huy động vốn trong nước những tháng đầu năm có
nhiều thuận lợi do mặt bằng lãi suất huy động giảm, tăng trưởng tín dụng những tháng
đầu năm hạn chế, thanh khoản trong hệ thống ngân hàng tốt. Đặc biệt, việc phát hành
thành công 1 tỷ USD trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế ngày 07/11/2014 với
kỳ hạn 10 năm, lãi suất cố định 4,8%/năm (thấp hơn mức dự kiến 5,125%/năm) là một
thành công lớn bởi đây là mức lãi suất thấp nhất trong các đợt phát hành trái phiếu chính
phủ của Việt Nam ra thị trường vốn quốc tế từ trước đến nay.
• Cân đối ngân sách tích cực, bội chi ngân sách nhà nước được đảm bảo trong
giới hạn cho phép:
Về nguyên tắc, khi thu NSNN tăng so với dự toán sẽ được sử dụng để giảm bội
chi NSNN. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình kinh tế trong và ngoài nước có nhiều biến
động không thuận làm phát sinh nhu cầu chi, hơn thế nhu cầu tăng tổng cầu của nền kinh
tế lớn nên bội chi NSNN năm 2014 được điều hành trong phạm vi Quốc hội quyết định là
5,3% GDP. Nguồn vượt thu ngân sách trung ương so với dự toán được tập trung thanh
toán nợ ngân sách trung ương, hỗ trợ bù giảm thu cho ngân sách địa phương do nguyên
nhân khách quan và bổ sung kinh phí thực hiện các nhiệm vụ cấp thiết phát sinh (sau khi
thưởng vượt dự toán thu phân chia và đầu tư trở lại cho ngân sách địa phương theo quy
định). Đối với nguồn vượt thu ngân sách địa phương được sử dụng để bổ sung đầu tư
phát triển hạ tầng, tạo nguồn cải cách tiền lương và thực hiện các nhiệm vụ cấp bách,
phát sinh.
• Nợ công được cơ cấu lại theo hướng tích cực:

Năm 2014, Việt Nam đảo nợ khoảng 77.000 tỷ đồng thông qua việc sử dụng một
phần vay mới để đảo nợ với kỳ hạn dài hơn, lãi suất thấp hơn, góp phần giảm áp lực trả
nợ trong ngắn hạn và giảm chi phí vay vốn. Đợt phát hành 1 tỷ USD vốn trái phiếu chính
phủ ra thị trường quốc tế đã hoán đổi được 54,4% giá trị gốc của trái phiếu quốc tế năm
2005 và 25,4% giá trị gốc của trái phiếu quốc tế năm 2010 góp phần tái cơ cấu nợ công
theo hướng kéo dài thời hạn vay và giảm áp lực về nghĩa vụ trả nợ. Việc đảo nợ này
không làm tăng nợ công và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tính đến cuối năm 2014, nợ
công của Việt Nam ở mức 60,3% GDP, nợ Chính phủ là 46,9% GDP, nợ nước ngoài của
quốc gia là 39,9% GDP, đảm bảo các chỉ tiêu nợ trong giới hạn cho phép, không tác động
lớn đến kinh tế vĩ mô.
b) Những hạn chế:
Bên cạnh những kết quả tích cực trong thực hiện chính sách tài khóa năm 2014
cũng cho thấy những vấn đề cần quan tâm sau:
• Thứ nhất, tính ổn định trong thu NSNN còn hạn chế. Tổng thu NSNN năm 2014
vẫn chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài, các khoản thu từ tài nguyên, các khoản
thu đặc thù và các khoản thu phát sinh do yếu tố khách quan. Thu nội địa trừ đất mặc dù
tăng 7,5% so với dự toán nhưng nếu loại đi khoản thu cổ tức và lợi nhuận còn lại theo
Thông tư 187/2013/TT-BTC thì ước đạt 490.700 tỷ đồng, đạt 98% dự toán.
Tổng số tiền nợ thuế còn lớn, tăng 14,9% so với cuối năm 2013. Trong đó nợ thế tăng
cao so với năm trước ở một số địa phương như Lai Châu (tăng 80%), Hậu Giang (tăng
57%), Long An (51%), Vĩnh Long (tăng 32,4%)
• Thứ hai, cơ cấu chi NSNN còn bất cập; phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn lực
NSNN còn hạn chế.
Chi thường xuyên có xu hướng tăng nhanh và mạnh trong những năm gần đây. Trong chi
thường xuyên, tỷ lệ chi cho con người cũng tăng mạnh (giai đoạn 2011-2015 bình quân
chiếm 68,2%, tăng 6% so với giai đoạn 2006-2010). Nguyên nhân là do thực hiện các
nghị quyết của Đảng, Nhà nước tập trung chi cho con người và an sinh xã hội. Theo đó,
giai đoạn 2011-2015 NSNN đã dành 474.000 tỷ đồng để thực hiện điều chỉnh lương tối
thiểu 3 lần (năm 2011, 2012, 2013); 2 lần thực hiện điều chỉnh phụ cấp công vụ. Trong
khi đó, số người hưởng lương từ NSNN không có xu hướng giảm cùng với việc gia tăng

ban hành các đề án, chính sách ở các bộ, ngành, địa phương cũng tác động làm chi ngân
sách thường xuyên tăng cao.
Trong phân bổ NSNN, còn tình trạng bố trí vốn cho các dự án chưa đủ thủ tục, phân bổ
vốn không đúng với cơ cấu, chương trình hỗ trợ được giao. Ví dụ Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới, kế hoạch phân bổ vốn của một số tỉnh còn chưa đúng
với nguyên tắc bố trí vốn quy định tại Quyết định số 195/QĐ-TTg như: Phân bổ chưa
bám sát đối tượng ưu tiên, nguyên tắc và mức phân bổ cho các xã theo quy định; chưa có
ý kiến của HĐND cùng cấp
• Thứ ba, hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính NSNN trong khu vực sự nghiệp còn
hạn chế do cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp chưa được đổi mới, việc áp dụng
và thực hiện lộ trình giá dịch vụ đối với các dịch vụ sự nghiệp công còn nhiều khó khăn,
vướng mắc; Thực hiện xã hội hóa các loại hình dịch vụ công đạt thấp.
• Thứ tư, dư nợ công có xu hướng tăng cao (nợ công so GDP đã tăng từ 54,9% năm
2011 lên 60,3% năm 2014), cơ cấu nợ công chưa thật sự bền vững, việc quản lý, sử dụng
vốn vay còn kém hiệu quả.
2. Kế hoạch năm 2015
Với những kết quả, hạn chế trong quản lý, điều hành NSNN và thực hiện chính
sách tài khóa năm 2014, căn cứ vào mục tiêu nhiệm vụ tài chính NSNN năm 2015 là:
“Huy động, phân phối, quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính quốc gia,
từng bước cơ cấu lại NSNN, đảm bảo an ninh tài chính, góp phần tích cực giữ vững ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững và tăng
trưởng hợp lý, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, quốc phòng - an ninh trong tình hình mới”
thì nhiệm vụ của chính sách tài khóa năm 2015 cần tập trung vào những điểm sau:
Một là, tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phục hồi
tăng trưởng, tạo nguồn thu vững chắc, ổn định cho NSNN, đồng thời hạn chế tối đa ban
hành thêm các chính sách mới làm giảm thu NSNN, trừ trường hợp cắt giảm thuế để thực
hiện cam kết quốc tế; Tăng cường công tác quản lý thu, chống thất thu, chống buôn lậu,
gian lận thương mại, chuyển giá; Tập trung xử lý nợ đọng thuế; Đẩy mạnh cải cách thủ
tục hành chính thuế, hải quan;
Hai là, cơ cấu lại các khoản chi trên cơ sở rà soát tổng thể các chính sách an sinh xã hội,

các chương trình mục tiêu quốc gia để cắt giảm, lồng ghép chính sách, chương trình, áp
dụng phù hợp cho giai đoạn 2016-2020; Chỉ ban hành các chính sách làm tăng chi NSNN
trong trường hợp thực sự cần thiết và có nguồn kinh phí đảm bảo; Triệt để tiết kiệm chi
NSNN; Rà soát, quản lý chặt chẽ các khoản chi NSNN; Từng bước tinh giảm biên chế bộ
máy; Giảm tối đa kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, đi công tác nước ngoài; Phân bổ, sử
dụng vốn đầu tư đảm bảo tập trung, có hiệu quả, ưu tiên vốn cho đầu tư kết cấu hạ tầng
trọng điểm; Đẩy mạnh hình thức hợp tác công - tư (PPP) và các hình thức đầu tư không
sử dụng vốn NSNN;
Ba là, đẩy mạnh đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính và tiền lương gắn với kết quả
hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập;
Bốn là, tiếp tục thực hiện cơ cấu lại nợ công theo hướng giảm các khoản nợ ngắn hạn,
tăng các khoản nợ dài hạn có lãi suất phù hợp; tăng cường quản lý chặt chẽ nợ công, đảm
bảo khả năng trả nợ.
Năm là, tăng cường kỷ luật tài khóa và đẩy mạnh cải cách hành chính trong các lĩnh vực
tài chính.

×