Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

HƯỚNG HOÀN THIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG SẢN PHẨM TÍN DỤNG TIÊU DÙNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.84 KB, 44 trang )

Sinh viên thực hiện : Trần Thị Lan
Lớp : Kinh tế đầu tư K48D
GVHD : TS. Phạm Mạnh Hùng
ĐỀ TÀI: HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH
CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG ĐẦU
TƯ & PHÁT TRIỂN VIỆT NAM.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và ý nghĩa khoa học của đề tài.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận trong hệ thống các thị trường tài
chính và đã được phát triển rộng rãi ở các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển. Đây là một kênh huy động vốn quan trọng cho các doanh nghiệp và Chính
phủ để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết về vốn thông qua việc phát hành các loại
chứng khoán. Tuy nhiên, việc phát hành chứng khoán trên thị trường này luôn
tiềm ẩn rủi ro đòi hỏi các chủ thể phát hành phải tìm biện pháp giảm thiểu rủi ro
để huy động vốn được tốt nhất. Một trong các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong
phát hành chứng khoán là phát hành thông qua bảo lãnh phát hành. Đây là một
trong những nghiệp vụ quan trọng trên thị trường chứng khoán sơ cấp do các
công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư, các công ty tài chính…cung cấp, nhằm
bảo đảm cho sự thành công của các đợt phát hành, giúp các chủ thể phát hành
huy động vốn một cách nhanh chóng, thuận lợi với chi phí hợp lý và mức độ rủi
ro thấp.
Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán đã chính thức đi vào hoạt động được
mười năm và đã phần nào thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong việc
hỗ trợ các chủ thể phát hành chứng khoán để huy động vốn. Các nghiệp vụ trên
thị trường đã bước đầu hình thành và phát triển trong đó có nghiệp vụ bảo lãnh
phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Tuy nhiên, do hoạt động của thị
trường chứng khoán còn rất sơ khai, các nghiệp vụ còn khá mới mẻ, thị trường
1
chưa xuất hiện nhiều tổ chức trung gian có tính chuyên nghiệp để có thể vận
hành tốt nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, một trong những nghiệp vụ
đòi hỏi trình độ và sự sáng tạo rất lớn. Bên cạnh đó, những chính sách điều


chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán nói chung và bảo lãnh phát hành
chứng khoán nói riêng còn nhiều chồng chéo và mâu thuẫn khiến cho còn nhiều
hạn chế và ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của thị trường chứng khoán,
đến hoạt động phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp và hoạt động bảo
lãnh phát hành của các tổ chức bảo lãnh. Ngoài ra, cũng chính do sự non nớt của
tổ chức bảo lãnh mà điển hình là công ty chứng khoán trong nghiệp vụ bảo lãnh
phát hành chứng khoán khiến cho việc phát hành, niêm yết chứng khoán bị hạn
chế, số lượng công ty niêm yết tăng chậm, cầu về bảo lãnh phát hành rất ít. Các
doanh nghiệp thì e dè khi phát hành chứng khoán thông qua bảo lãnh còn các
công ty chứng khoán thì e ngại khi nhận bảo lãnh do mức độ rủi ro của nghiệp
vụ này ở Việt Nam là tương đối cao.
Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận một cách đúng đắn thực
trạng bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Việt Nam để từ đó đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán ở Việt
Nam nói chung và tại Công ty chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển VN
nói riêng.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó, cùng với quá trình thực tập tại công ty
“Hoàn thiện hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng
khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp của
mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Đề tài “Hoàn thiện hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại
Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” nghiên
cứu một cách tổng quát, hệ thống cơ sở lý luận chung về hoạt động bảo lãnh
phát hành chứng khoán. Đồng thời đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá, nhận định
cụ thể về thực trạng hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, những tồn tại
2
và nguyên nhân, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng
khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài lấy hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng
khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở một số vấn đề lý luận, thực tiễn có liên
quan trực tiếp đến hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán nói chung và hoạt
động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam.
4. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo phần nội dung của đề
tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về công ty chứng khoán và nghiệp vụ bảo lãnh
phát hành chứng khoán.
Chương 2 : Thực trạng về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán tại
Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh
phát hành chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Viẹt Nam.
3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN VÀ NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH PHÁT HÀNH
CHỨNG KHOÁN.
I. Những vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán
1. Khái niệm công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán,
có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số nghiệp vụ chính là môi giới chứng
khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, và tư vấn đầu tư
chứng khoán.
Thị trường tài chính được chia thành 2 loại là thị trường tiền tệ ( money
market) và thị trường vốn ( capital market ).
Thị trường tiền tệ là một bộ phận của thị trường tài chính mà tại đó diễn ra

các hoạt động giao dịch mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn.
Thị trường vốn cũng là một bộ phận của thị trường tài chính mà tại đó diễn ra
các hoạt động giao dịch mua bán của các công cụ tài chính dài hạn. Công cụ tài
chính dài hạn là các công cụ tài chính có thời gian đáo hạn từ 1 năm trở lên. Thị
trường vốn bao gồm 3 thị trường chính : thị trường thuê mua( leasing market),
thị trường tín dụng trung và dài hạn hay còn gọi là thị trường thế chấp
( mortgage market ) và thị trường chứng khoán ( securities market ). Trong ba
thị trường trên, thì thị trường chứng khoán có vị trí quan trọng nhất trpng việc
tập trung và huy động vốn tài trợ cho đầu tư phát triển của các doanh nghiệp và
của nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường vốn mà tại đó các
chứng khoán được phát hành và mua bán. Trong đó, chứng khoán là bằng chứng
xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần
vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng
chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử bao gồm: cổ phiếu (stock), trái
phiếu( bond), chứng chỉ quỹ đầu tư, quyền mua cổ phần (right), chứng quyền
( warrant ), quyền chọn (option), hợp đồng tương lai (future)…
4
Công ty chứng khoán là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán,
có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số nghiệp vụ chính là môi giới chứng
khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, và tư vấn đầu tư
chứng khoán.
2. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán.
Thứ nhất, chịu ảnh hưởng của thị trường tài chính. TTCK là một bộ phận của
thị trường tài chính do đó những biến động của thị trường tái chính nói chung và
TTCK nói riêng đều có những ảnh hưởng nhất định đến hoạt động, các dich vụ
và có thể cả lợi nhuận của các công ty chứng khoán. Thị trường tài chính càng
phát triển thì sẽ càng có nhiều cơ hội hơn cho sự phát triển của TTCK và các
công ty chứng khoán, các công cụ tài chính, các dịch vụ, sản phẩm hay trình độ
chuyên môn của một thị trường tài chính phát triển sẽ là những cơ hội cho sự

phát triển của TTCK và các công ty chứng khoán.
Thứ hai, trình độ chuyên môn hoá và phân cấp quản lý. Các bộ phận của
một công ty chứng khoán bao giờ cũng hoạt động độc lập với nhau và không
phụ thuộc lẫn nhau do các mảng hoạt động của các bộ phận của CTCK là khác
nhau như môi giới, tự doanh. bảo lãnh phát hành, tư vấn… Do đó mức độ
chuyên môn hoá và phân cấp quản lý của các CTCK là rất cao và rõ rệt, các bộ
phận có thể tự quyết định hoạt động của mình.
Thứ ba, nhân tố con người giữ vai trò quyết định. Do đặc điểm chuyên
môn hoá cao nên con người cần có những khả năng độc lập trong quyết định,
côngviệc. Khả năng làm việc mỗi nhân viên trong công ty là nhân tố rất quan
trọng giúpcho sự thành công của CTCK, họ là cầu nối giữa khách hàng và công
ty, tìm kiếmkhách hàng cho công ty và hiểu được tiềm lực của chính những
khách hàng đó dođó góp phần quan trọng cho thành công của công ty.
5
3. Vai trò của công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà các
chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành tới các nhà đầu tư qua đó huy
động các nguồn vốn nhãn rỗi để sử dụng có hiệu quả. CTCK có vai quan trọng
đối với các chủ thể khác nhau trên thị trường chứng khoán.
 Đối với tổ chức phát hành:
Các CTCK thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành cho các
tổ chức phát hành do đó các CTCK có vai trò rất quan trọng trong việc phát
hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng của các tổ chức phát hành nhằm thực
hiện mục tiêu là huy động vốn thông qua đợt phát hành các chứng khoán ra công
chúng. Ngoài ra các công ty chứng khoán còn hỗ trợ chuyên môn thông qua tư
vấn phát hành cho các tổ chức phát hành, cung cấp cho doanh nghiệp các giải
pháp tổng hợp về vấn đề tài chính, cơ cấu tổ chức công ty, lập và đánh giá dự
án, quản lý tài sản và định hướng đầu tư…
 Đối với các nhà đầu tư:

Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu
tư… CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao
hiệu quả các khoản đầu tư. Các công ty chứng khoán là công ty chuyên nghiệp
trong việc thu thập và sử lý thông tin vì thế sẽ chính xác hơn nếu như các CTCK
đánh giá các khoản đầu tư của khách hàng, và tư vấn cho khách hàng về định
hướng đầu tư của họ. TTCK là một thị trường thường xuyên biến động về giá cả
cũng như mức độ rủi ro cao vì thế với một hoạt động chuyên nghiệp các CTCK
sẽ giúp cho hoạt động của TTCK trở nên hiệu quả và ổn định hơn, giúp cho các
nhà đầu tư xác định đúng giá trị của các chứng khoán. Đồng thời qua hoạt động
tư vấn các CTCK trở thành một kênh thông tin có hiệu quả đối với các nhà đầu
tư như thông tin về giá cả của các chứng khoán, thông tin thị trường, chính sách
kinh tế xã hội… một cách chính xác và kịp thời tới các nhà đầu tư. Qua việc lưu
ký và đăng ký chứng khoán các công ty chứng khoán có vai trò quản lý chứng
khoán hộ khách hàng do đó sẽ dễ dàng trách được các rủi ro về mất hay hỏng
6
chứng khoán, rủi ro về chứng khoán không còn giá trị lưu hành… Nhờ đó kịp
thời đưa ra các quyết đinh xử lý, đảm bảo quyền lợi của khách hàng.
 Đốivớithịtrườngchứngkhoán
- Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị
trường quyết định, tuy nhiên để đưa ra mức giá cuối cùng người mua và người
bán phải thông qua các công ty chứng khoán vì họ không được tham gia trực
tiếp vào quá trình mua bán. Với việc cung cấp cơ chế giá cả, CTCK góp phần
đưa giá chứng khoán phản ánh đúng cung cầu của thị trường. Ngoài ra, CTCK
còn thực hiện vai trò ổn định thị trường. Vai trò này xuất phát từ nghiệp vụ tự
doanh, qua nghiệp vụ này các công ty chứng khoán nắm giữ một tỷ lệ nhất định
các chứng khoán qua đó góp phần bình ổn thị trường. Bằng hoạt động bảo lãnh
phát hành các CTCK tạo ra hàng hoá cho và tạo ra tính hấp dẫn của hàng hoá
cho cho thị trường, các tổ chức phát hành chứng khoán thông qua hoạt động
bảo lãnh của các công ty chứng khoán thì chứng khoán phát hành sẽ có uy tín
hơn trên thị trường và sẽ dễ dàng giao dịch trên thị trường, đồng thời giá của

chứng khoán cũng sẽ được các CTCK xác định một cách chính xác, phù hợp
với tổ chức phát hành góp phần bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu.
Điều này giúp cho chứng khoán của các tổ chức phát hành phát hành thông qua
CTCK sẽ đựoc tín nhiệm hơn góp phần làm tăng tính thah khoản của các chứng
khoán phát hành trên thị trường sơ cấp. Bên cạnh đó, hoạt động môi giới và tư
vấn của các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán thứ cấp tạo nên
tính thanh khoản cho các chứng khoán.
Các chứng khoán có tính thanh khoản càng cao càng hấp dẫn được công
chúng đầu tư hơn từ đó tạo điều kiên thuận lợi cho sự phát triển của các doanh
nghiệp phát hành chứng khoán trên thị trường.
 Đối với cơ quan quản lý thị trường.
Các cơ quan quản lý thị trường có mục tiêu là quản lý và bình ổn thị trường
giúp cho thị trường hoạt động một cách có hiệu quả nhất và trong mục tiêu đó
các công ty chứng khoán có vai trò rất quan trọng là cung cấp các thông tin cho
các cơ quan quản lý để họ thực hiện tốt mục tiêu đó.Các công ty chứng khoán
7
thực hiện được vai trò này là vì các CTCK là công ty hoạt động chuyên nghiệp
trên thị trường nên các thông tin mà họ có được là các thông tin nhanh nhất và
chính xác nhất vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành vừa là người phát hành
chứng khoán ra công chúng thông qua các hoạt động bảo lãnh và đại lý bảo lãnh
phát hành, vừa là trung tâm mua và bán các chứng khoán do đó các thông tin
phải được công khai trên thị trường dưới sự giám sát của các nhà quản lý thị
trường. Việc công khai các thông tin vừa là quy định của hệ thống pháp luật vừa
là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK vì các công ty chứng khoán cần phải
minh bạch trong hoạt động của mình. Nhờ các thông tin này mà các cơ quan
quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng là lũng
đoạn thị trường.
Tóm lại, vai trò của các CTCK có vai trò vô cùng quan trọng trên thị trường
chứng khoán, không chỉ góp phần tạo ra hàng hoá và tính hấp dẫn của hàng hoá
trên thị trường mà còn là nhân tố quan trọng giúp cho thị trường ổn định và phát

triển. Tạo ra lợi ích kinh tế cho toàn xã hội thông qua việc làm giảm chi phí giao
dịch, tạo ra nguồn vốn lớn cho toàn nên kinh tế và thị trường thúc đẩy các luồng
tiền nhãn rỗi đi vào hoạt đầu tư cho sự phát triển của nên kinh tế.
4. Các nghiệp vụ của công ty chứng khoán.
4.1.Các nghiệp vụ chính:
 Nghiệp vụ môi giới chứng khoán:
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng
khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó công ty chứng khoán đại
diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tai SGDCK
hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả
giao dịch của mình.
 Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành:
Để thực hiện thành công các đợt phát hành chứng khoán để huy động vốn tổ
chức phát hành phải cần đến các công ty chứng khoán tư vấn cho đợt phát hành
và thực hiện bảo lãnh phát hành, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây
chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán và là nghiệp
vụ chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng doanh thu của CTCK.
8
Như vậy, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo
lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng
khoán, tổ chức việc phân phố chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán
trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Khi một tổ chức muốn phát hành chứng
khoán tổ chức đó gửi yêu cầu bảo lãnh phát hành đến công ty chứng khoán.
CTCK có thể sẽ ký hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về
loại chứng khoán cần phát hành, số lượng chứng khoán phát hành, định giá
chứng khoán và phương thức phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư thích
hợp.
 Hoạt động tự doanh chứng khoán:
Là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng
khoán cho chính mình. Hoạt động này được thực hiện thông qua cơ chế giao

dịch trên thị trường giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC, nghiệp vụ này
hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh của khách hàng
vừa phục vụ cho chính mình .Vì vậy trong hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi
ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và bản thân công ty. Do đó luật
pháp các nước yêu cầu phải tách biệt rõ ràng hoạt động tự doanh chứng khoán
và hoạt động môi giới chứng khoán, theo đó công ty chứng khoán phải ưu tiên
thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty. Khác với
hoạt động môi giới chứng khoán công ty chứng khoán chỉ làm trung gian thực
hiện lệnh cho khách hàng và hoạt động chỉ vì mục tiêu là hưởng hoa hồng từ các
giao dịch thì hoạt động tự doanh chứng khoán hoạt động bằng chính nguồn vốn
của công ty nên ngoài mục tiêu lợi nhuận là đầu tư để hưởng chênh lệch giá hoạt
động này của các Công ty chứng khoán (CTCK) còn nhằm mục tiêu là bình ổn
thị trường, kiểm soát thị trường hay đóng vai trò là một nhà tạo lập thị trường
cho các chứng khoán phát hành.
 Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư:
Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng
khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng
lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Hoạt động này có thể coi là vì lợi ích
9
của khách hàng theo một hợp đồng đã được ký kết trước giữa khách hành và
công ty chứng khoán theo đó CTCK quản lý nguồn vốn của khách hàng như là
một hoạt động tư vấn cho khách hàng nhưng ở một mức độ cao hơn vì trong
hoạt động này khách hàng uỷ thác cho CTCK thay mặt mình quyết định đầu tư
theo một chiến lược hay theo một danh mục đã được khách hành chấp nhận.
 Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán:
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán thông qua hoạt
động phân tích để đưa ra các lời khuyên, khuyến nghị, phân tích và thực hiện
một số dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho
khách hàng. Hoạt động tư vấn là hoạt động mà người ta sử dụng tri thức, kiến
thức có được để phân tích thị trường và cung cấp thông tin cho khách hàng. Yêu

cầu đòi hỏi nhà tư vấn phải có nhiều kiến thức, kinh nghiệm kỹ năng chuyên
môn đồng thời cần phải có tính trung thực cao, thận trọng trong công việc để
đưa ra được các lời khuyên chính xác, hợp lý vì các lời khuyên này ảnh hưởng
đến lợi nhuận của
khách hàng và hình ảnh của chính bản thân CTCK.
4.2.Các nghiệp vụ phụ trợ:
 Nghiệp vụ lưu ký chứng khoán:
Lưu ký chứng khoán là hoạt động nhằm lưu giữ, bảo quản chứng khoán của
khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký và giúp khách hàng thực hiện các
quyền của mình đối với chứng khoán lưu ký. Đây là quy định bắt buộc trong
giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là
hình thức ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các
CTCK ( Nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ ) hoặc ký gửi các
chứng khoán (Nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất )
Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán CTCK sẽ nhận được các khoản phí
lưu ký, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán.
 Quản lý thu nhập của khách hàng:
Thông qua nghiệp vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng CTCK có trách
nhiệm thông báo cho khách hàng về tình hình của thu lãi, cổ tức của chứng
10
khoán và đứng ra thu nhận cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách
hàng.
 Nghiệp vụ tín dụng:
Hoạt động này là việc các CTCK cho khách hàng vay chứng khoán để khách
hàng thực hiện giao dịch bán khống, hoặc cho khách hàng vay tiền để khách
hàng thực hiện mua ký quỹ.
 Nghiệp vụ quản lý quỹ:
Là nguồn vốn được hình thành từ nguồn vốn góp của các nhà đầu tư trên thị
trường, được uỷ thác cho các công ty quản lý quỹ đầu tư đầu tư nhằm thu lại lợi
nhuận cho nhà đầu tư. Theo pháp luật của một số thị trường các nước cho phép

các CTCK được thực hiện quản lý quỹ đầu tư, các CTCK cử đại diện của mình
để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng
khoán. Công ty chứng khoán được thu phí và dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
Tóm lại, hoạt động của các công ty chứng khoán có vai trò rất lớn đối với
thị trường chứng khoán và toàn nền kinh tế, mỗi nghiệp vụ hoạt động độc lập
với nhau và tuy theo khả năng tài chính hay thế mạnh mỗi CTCK mà các CTCK
có thể phát triển tất cả các nghiệp vụ hoặc các nghiệp vụ khác nhau nhằm thu lại
lợi nhuận lớn nhất cho công ty chứng khoán.
II. Hình thức phát hành chứng khoán
Phát hành chứng khoán: Là hoạt động chào bán chứng khoán có thể
chuyểnnhượng được thông qua tổ chức trung gian cho ít nhất một số lượng
các nhà đầu tưnhất định ngoài tổ chức phát hành. Theo nghị định
144/20003/NĐ – CP của chínhphủ Việt Nam thì số lượng tối thiểu các nhà
đầu tư mà tổ chức phát hành chào bánlà 50 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát
hành. Là hoạt động của thị trường sơ cấp nhằmhuy động vốn cho tổ chức phát
hành, thông thường các tổ chức phát hành sử dụng phương pháp bảo lãnh phát
hành, đấu thầu và phát hành riêng lẻ…
Việc chào bán chứng khoán ra công chúng để huy động vốn được gọi là
phát hành chứng khoán. Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa ra một loại
11
chứng khoán của một tổ chưc lần đầu tiên phát hành ra công chúng thì gọi là
phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ
sung bởi tổ chức đã có chứng khoán cùng loại lưu thông trên thị trường thì
gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung.
1. Phát hành chứng khoán riêng lẻ (Private Placement)
Phát hành riêng lẻ là hình thức phát hành trong đó đơn vị phát hành
chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất định
với những điều kiện hạn chế mang tính chất khép kín.
Các công ty chứng khoán, ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào
việc phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành.

Các công ty thực hiện phát hành chứng khoán riêng lẻ khi:
+ Công ty chưa đủ tiêu chuẩn để phát hành chứng khoán ra công chúng;
+ Số lượng vốn cần huy động thấp, quy mô huy động chưa cần ở mức rộng
rãi, phạm vi hoạt động vẫn mang tính chất nội bộ, khép kín
+ Phát hành cổ phiếu nhằm mục đích tăng cường các mối quan hệ kinh
doanh hoặc phát hành cho nội bộ cán bộ, nhân viên của đơn vị phát hành.
2. Phát hành chứng khoán ra công chúng
Phát hành chứng khoán ra công chúng là hình thức phát hành trong đó
chứng khoán được bán rộng rãi cho quảng đại quần chúng đầu tư ( trong đó
phải dành một tỷ lệ cho nhà đầu tư nhỏ) với quy mô lớn cho một số lượng nhà
đầu tư đảm bảo yêu cầu công khai, minh bạch và tuân thủ pháp luật về chứng
khoán và thị trường chứng khoán.
Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ chịu sự điều chỉnh của pháp
luật về chứng khoán và thị trường chứng khóa. Đơn vị phát hành phải thỏa
mãn một số điều kiện nhất định và phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà
nước về chứng khoán. Phát hành chứng khoán ra công chúng phải tiến hành
công khai và chịu sự giám sát của Luật chứng khoán. Công ty đã thực hiện
phát hành chứng khoán được gọi là công ty đại chúng.
12
Phát hành chứng khoán ra công chúng được phân biệt giữa phát hành cổ
phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu ra công chúng. Đối với phát hành
cổ phiếu ra công chúng, việc phát hành được thực hiện theo một trong 2 hình
thức: phát hành lần đầu ra công chúng và phân phối sơ cấp. Trong khi phát
hành trái phiếu ra công chúng chỉ thực hiện bằng một hình thức duy nhất là
phân phối sơ cấp.
• Phát hành lần đầu ra công chúng ( IPO – Initial Public Ofering): là đợt
phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán rộng rãi cho
công chúng đầu tư.
• Phân phối sơ cấp ( PO – Primary offering): là đợt phát hành cổ phiếu
bổ sung của công ty đại chúng cho rộng rãi công chúng đầu tư và các đợt phát

hành trái phiếu ra công chúng
- Lợi ích phát hành chứng khoán ra công chúng
 Phát hành ra công chúng nhằm huy động vốn
 Phát hành chứng khoán ra công chúng là điều kiện để tham gia niêm yết
trên thị trường tập trung
 Tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
 Nâng cao uy tín, quảng bá hình ảnh
 Giảm chi phí tiếp cận vốn
III. Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán.
1. Khái niệm bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp đơn vị phát hành thực
hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng
khoán và giúp bình ổn giá chứng kháon trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.
Trên thế giới, các ngân hàng đầu tư, các công ty chứng khoán thường là những
tổ chức đứng ra làm bảo lãnh phát hành.
Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng
khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán
để hưởng hoa hồng.
Đối với thị trường chứng khoán Việt Nam thì nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành được coi là nghiệp vụ quan trọng và là một trong năm nghiệp vụ được cấp
13
giấy phép hoạt động của công ty chứng khoán. Hoạt động bảo lãnh phát hành có
nhiều ý nghĩa quan trọng, như giảm chi phí phát hành, tào tính ổn định cho các
chứng khoán mới phát hành trong đó quan trọng nhất là mang lại tính chuyên
nghiệp cho thị trường. Tuy nhiên, hoạt động bảo lãnh phát hành của các CTCK
ở nước ta hiện nay chưa thực sự đóng vai trò như vây là do thị trường chứng
khoán ở nước ta chưa thực sự phát triển số lượng các công ty cổ phần phát hành
chứng khoán ra công chúng còn rất ít, thiếu các dự án khả thi, các doanh nghiệp
vẫn còn thói quen sử dụng nguồn vốn vay nhiêu hơn, lý do thứ hai là do khối
lượng phát hành chứng khoán là nhỏ do đó các tổ chức phát hành (TCPH) không

cần đến hoạt động bảo lãnh phát hành của các CTCK và nguyên nhân quan
trọng nhất xuất phát từ hạn chế của các CTCK, các công ty chứng khoán ở nước
ta hiện nay do hoạt động chưa lâu trên thị trường nên yếu cả về tiềm lực vốn và
nghiệp vụ chuyên môn. Với mức vốn đáp ứng ở yêu cầu tối thiểu khi đăng ký
như hiện nay các tổ chức này chỉ dám tham gia với vai trò đại lý phân phối cho
TCPH, đội ngũ cán bộ của các CTCK hiện nay hầu hết họ đều là những cán bộ
trẻ có năng lực, được đào tạo bài bản tuy nhiên hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán đòi hỏi những cán bộ không chỉ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
giỏi mà còn cần phải có kinh nghiệm, hiểu biết về hoạt động bảo lãnhphát hành
và đó là những hạn chế mà các cán bộ của CTCK ở nước ta còn tồn tại.
14
2. Các phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Việc bảo lãnh phát hành thường được thưc hiện theo một trong các phương thức
sau:
2.1. Bảo lãnh với cam kết chắc chắn:
Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn
bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán này
hay không. Trong hình thức theo “ cam kết chắc chắn”, một nhóm các tổ chức
bảo lãnh phát hình thành một tổ hợp đêt mua chứng khoán của tổ chức phát
hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công chúng ( POP) và bán lại các
chứng khoán đó ra công chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng
khoán của các tổ chức bảo lãnh vơi giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa
hồng chiết khấu.
2.2. Bảo lãnh theo phương thức dự phòng
Đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát
hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển. Trong trường hợp đó,
công ty cần phảo bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công
ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra
công chúng bên ngoài.
2.3. Bảo lãnh với cố gắng cao nhất

Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại
lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức phát hành không cam kết bán toàn bộ số
chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường,
nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại.
2.4. Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không
Trong phương thức này tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh phát
hành bán một số lượng chứng khoán nhất định ra công chúng, nếu không phân
phối được hết sẽ hủy toàn bộ đợt phát hành.
15
2.5. Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa
Là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố găng cao nhất
và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức
phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất
định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tụ do chào bán chứng
khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được
tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ.
3. Các chủ thể tham gia đợt bảo lãnh phát hành chứng khoán.
3.1. Tổ hợp bảo lãnh phát hành
Tổ hợp bảo lãnh phát hành là một nhóm các tổ chức bảo lãnh đứng ra đảm
nhận nghiệp vụ bảo lãnh phát hành nhằm hạn chế rủi ro và đảm bảo việc phân
phối chứng khoán được tiến hành nhanh chóng và có hiệu quả.
3.2. Tổ hợp bảo lãnh chính
Tổ chức này sẽ do đơn vị phát hành lựa chọn. Thẩm quyền của tổ chức bảo
lãnh phát hành chính được quy định trong hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh
tham gia đợt phát hành.
3.3. Nhóm đại lý phân phối
Bao gồm các công ty chứng khoán tự doanh giúp cho việc phân phối chứng
khoán.
4. Quy trình thực hiện đợt bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Gồm 4 bước cơ bản sau: phân tích đánh giá khả năng phát hành; chuẩn bị hồ sơ

xin phép phát hành; bán chứng khoán ra công chúng; bình ổn và điều hòa thị
trường.
4.1 Phân tích và đánh giá khả năng phát hành
Ngay từ trước khi hợp đồng bảo lãnh phát hành được kí kết, tổ chức bảo lãnh
phát hành cũng bắt đầu tìm hiểu đóng vai trò như 1 đơn vị tư vấn phát hành. Tổ
chức bảo lãnh phát hành sẽ cùng đơn vị phát hành lập nhóm nghiên cứu tiền khả
thi để chuẩn bị phát hành. Nhóm này sẽ bao gồm nhân viên phân tích của tổ
chức bảo lãnh phát hành và các cán bộ của đơn vị phát hành. Nhóm chuẩn bị sẽ
16
tiến hành những phân tích, đánh giá về khả năng phát hành ra công chúng trên
những khía cạnh chủ yếu như: tình hình hoạt động của đơn vị phát hành, tiềm
lực tài chính của đơn vị phát hành, tình hình thị trường của các sản phẩm chính,
các khía cạnh pháp lí của việc phát hành chứng khoán ra công chúng, tình hình
thị trường vốn trong nước và nước ngoài.
Kết quả phân tích ban đầu này nhằm cung cấp những thông tin cho hội đồng
quản trị và đại hội đồng cổ đông ra quyết định phát hành. Không nhữg thế
những phân tích trên được tiến hành cũng sẽ góp phần đưa ra những phương
hướng chính về cách thức phát hành và chủng loại phát hành.
4.2 Phối hợp với đơn vị phát hành chuẩn bị hồ sơ đăng kí phát hành
Sau khi hợp đồng bảo lãnh phát hành được kí kết tổ chức bảo lãnh phát hành sẽ
phối hợp với đơn vị phát hành để thực hiện công tác chuẩn bị hồ sơ đăng kí phát
hành. Việc chuẩn hồ sơ đăng kí phát hành cần sự tham gia của các chuyên gia tài
chính, kế toán và pháp lí. Các chuyên gia này là nhân viên của tổ chức bảo lãnh
hoặc cũng có thể là do tổ chức bảo lãnh tập hợp từ các công ty tài chính, kế toán
hay luật pháp khác.
Luật pháp của hầu hết các quốc gia đều quy định tổ chức bảo lãnh phải chịu
trách nhiệm liên đới đối với hồ sơ đăng kí phát hành của đơn vị phát hành. Tức
là tổ chức bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trước sai sót hay thiếu hụt thông tin
trong hồ sơ xin phép phát hành. Quy định này nhằm đảm bảo tổ chức bảo lãnh
có những cố gắng tối đa trong việc kiểm tra tính đúng đắn, đầy đủ và hợp pháp

của các thông tin đưa ra trong hồ sơ xin đăng kí phát hành và các thông tin trong
bản cáo bạch. Quy định này sẽ đảm bảo cho các nhà đầu tư có được những
thông tin xác thực và đầy đủ để đưa ra quyết định đầu tư
Trong trường hợp bảo lãnh phát hành theo hình thức tổ hợp bảo lãnh thì tổ chức
bảo lãnh chính sẽ phải quyết định quy mô tổ hợp và xác định các thành viên
tham gia tổ hợp. Việc thành lập tổ hợp bảo lãnh cũng có những lợi ích nhất định
đối với các tổ chức bảo lãnh bởi nó có thể phân tán rủi ro. Tổ chức bảo lãnh
tham gia tổ hợp bảo lãnh phát hành có thể do tổ chức bảo lãnh chính lựa chọn
17

×