Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Một số giải pháp tài chính góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại tổng công ty chè việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.44 KB, 81 trang )

Chương I.
Những vấn đề lý luận cơ bản về
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước .
I. Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp có trong đó các cổ đông đóng góp vốn
kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mỡnh trờn
cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp có trong đó các cổ đông đóng góp vốn
kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ
sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Công ty cổ phần ra đời từ thế kỷ XVI ở các nước phát triển, đến nay đã
có lịch sử phát triển mấy trăm năm. Công ty cổ phần là sự hình thành một
kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nó ra đời không nằm
trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào mà là một quá trình kinh tế
khách quan.
Cùng với sự phát triển của xã hội ở mỗi thồi kỳ cũng như ở mỗi quốc
gia có quan niệm về công ty cổ phần khác nhau. Theo luật doanh nghiệp công
ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó: Vốn điều lệ được chia làm nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ. Cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp. Cổ đông có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình
cho người khác, cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân. Số lượng cổ đông tối
thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.
1. Vai trò và đặc điểm của công ty cổ phần trong sự phát triển nền kinh
tế thị trường.
1.1. Vai trò của công ty cổ phần.
Công ty cổ phần đã đóng vai trò lịch sử hết sức to lớn trong sự phát
triển nền kinh tế thị trường. Có thể hình dung vai trò của nó ở một số đặc
điểm.
1
- Công ty cổ phần là sản phẩm của xã hội hoá sở hữu, phản ánh quá trình
tích tụ và tập trung tư bản. Công ty cổ phần ra đời góp phần đẩy nhanh quá


trình này về tốc độ và quy mô, làm xuất hiện những xí nghiệp mà với tư
bản riêng lẻ không thể nào thiết lập được. Mỏc đó đỏnh giỏ:” Nếu chưa
phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một số tư bản riêng lẻ lớn lên đến
mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt, thì có lẽ đến ngày
nay thế giới vẫn chưa có đường sắt. Ngược lại , qua các công ty cổ phần sự
tập trung đã thực hiện việc đó trong nháy mắt ”
- Công ty cổ phần là kết quả của sự vận động tách biệt hai mặt của sở hữu
thể hiện ở mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh. Công ty
cổ phần ra đời cho phép mở rộng quy mô sản xuất nhanh chóng mà không
bị gới hạn bởi tích luỹ của từng tư bản riêng biệt, tạo điều kiện đẩy nhanh
quá trình xã hội hoá sản xuất và như thế nó làm cho xã hội phải tiếp nhận
những yêu cầu phát triển của nó và làm cho hệ thống ngân hàng, thị trường
chứng khoán và nhà nước trở thành một bộ máy kinh tế hoạt động và thực
hiện các chức năng quản lý mà lâu nay vẫn nằm trong tay các tư bản cá
biệt. Mỏc đó viết như sau “ Công ty cổ phần là điểm quá độ để biết tất cả
các chức năng trong quá trình tái sản xuất cho đến nay vẫn gắn liền với
quyền sở hữu tư bản đơn thuần thành những chức năng của những người
sản xuất liên hiệp”
- Việc thành lập những công ty cổ phần theo Mỏc đó “ Trực tiếp mang hình
thái tư bản xã hội ( tư bản của những cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với
nhau ) đối lập với tư bản tư nhân, cũn cỏc xí nghiệp của nó biểu hiện ra lò
những xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư nhân. Đó là sự thủ
tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân trong khuôn khổ của bản thân
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần .
Những sự đánh giá của Mác về vai trò của công ty cổ phần cho thấy mô
hình kinh doanh này đã mang nững đặc điểm mơớ, cho phép thích ứng với
những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường mà những hình thái
không thể đáp ứng được.
+ Xét về mặt pháp lý :

2
Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà
vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần. Các cổ
đông, người cấp vốn cho công ty chỉ có trách nhiệm với các cam kết tài chính
của công ty trong gới hạn số tiền mà họ góp dưới hình thức mua cổ phiếu,
nghĩa là các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số tiền mà họ đã bỏ ra.Trong trường hợp công ty bị phá sản thì họ
cũng chỉ mất số tiền đã đầu tư vào công ty mà thôi. Nhờ đặc điểm này nú đó
khắc phục được trở ngại quan trọng mà hình thái doanh nghiệp khác không
mấy khi dám mạo hiểm để thực hiện các dự án kinh doanh lớn. Bằng cách
bỏn cỏc cổ phiếu, trái phiếu cho những người có vốn muốn đầu tư để tăng thu
nhập, nó làm cho những người này không phải e ngại những hậu quả tài chính
có thể xẩy ra với toàn bộ gia sản của họ.
Mệnh giá cổ phiếu của công ty thường định giá rất thấp để có khả năng
khai thác được ngay cả những số tiền tiết kiệm nhỏ nhất trong cụng chúng .
+ Xét về mặt huy động vốn .
Về mặt này công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành công. Bởi vì
những số tiền nhỏ dành dụm của nhiều gia đình nếu để riêng không đủ để
thành lập một doanh nghiệp nhỏ và do đó không thể đem ra kinh doanh được
thì rõ ràng sự có mặt của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho họ có cơ hội .
Các khoản tiền nhỏ có thể gửi ở ngân hàng hay mua trái phiếu. Song
hình thức cổ phần có sức hấp dẫn riêng mà các hình thức khác khác không
thể thay thế được.
Thứ nhất: Việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi tức cổ
phần ( bằng hoặc cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng) mà còn hứa hẹn mang
lại cho cổ đông một khoản thu nhập “ngầm” nhờ việc gia tăng trị giá cổ phiếu
khi công ty làm ăn có hiệu quả.
Thứ hai: Các cổ đông có quyền được tham gia quản lý theo điều lệ của
công ty và được pháp luật bảo đảm điều đó trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn
hơn .

Hình thái công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu khỏi
quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tạo
3
nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của đông đảo công chúng một bên, còn
bên kia là tầng lớp cỏc nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản
xã hội cho các công cuộc kinh doanh quy mô lớn. Hình thái công ty cổ phần
đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu khỏi quá trình kinh doanh, tách
quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tạo nên một hình thái xã hội hoá
sở hữu của đông đảo công chúng một bên, còn bên kia là tầng lớp các nhà
quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho các công cuộc
kinh doanh quy mô lớn.
Những người đóng vai trò sở hữu trong công ty cổ phần không trực tiếp
đứng ra kinh doanh mà uỷ thác chức năng đó cho bộ máy quản lý của công ty.
Bản thân công ty được pháp luật thừa nhận như một pháp nhân đọc lập tách
rời với các cá nhân góp vốn và kiểm soát nó. Nhờ đó Công ty cổ phần tiến
hành được tất cả các hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa của chính mình
và nhận trách nhiệm đến cùng về trách nhiệm tài chính của công ty.
Trong cơ cấu tổ chức của một công ty cổ phần, phản ánh rõ đặc điểm
và sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền sở hữu kinh doanh. Luật công ty
của nhiều nước nêu ra hai tổ chức chính đại diện cho quyền sở hữu của các cổ
đông trong công ty. Đại hội cổ đông và hội đồng quản trị. Quyền sở hữu tối
cao đối với công ty thuộc đại hội cổ đông. Đại hội cổ đông thường được tổ
chức mỗi năm một lần để lùa chọn và bãi miễn. Hội đồng quản trị được bầu ra
có trách nhiệm bảo toàn và phát triển giá trị các khoản vốn đầu tư của cổ
đông. Chức năng chủ yếu của nó là đưa ra những chỉ dẫn mang tính chiến
lược bao gồm những kế hoạch tài chính và những quyết định đầu tư lớn. Bên
cạnh đó Đại hội cổ đông cũng bầu ra ban kiểm sát thực hiện việc kiểm tra
giám soát hoạt động của công ty để bảo vệ lợi Ých của người góp vốn.
Các cổ phiếu và trái phiếu thông thường của Công ty cổ phần có thể
được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán .

Các cổ đông có thể rút lại vốn của mình để đầu tư vào công cuộc kinh
doanh khác bằng cách bỏn cỏc cổ phiếu, trái phiếu và các cổ phiếu trái phiếu
ở các công ty mà mình muốn. Mặt khác các cổ phiếu ở một công ty cổ phần
chỉ được thanh lý khi công ty bị phá sản vì thế bất kể có bao nhiêu cổ đông
bán cổ phiếu hoặc chết đi và bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu lần
4
do bán hoặc thừa kế, cuộc sống doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình
thường mà không bị ảnh hưởng.
Nhờ vai trò và những đặc điểm ưu việt của hình thái công ty cổ phần
trong nền kinh tế thị trường nờn nú là con đường hữu hiệu nhất để cải tổ cách
doanh nghiệp nhà nước đồng thời vẫn cũng cố được vai trò của khu vực kinh
tế nhà nước bằng cách di chuyển các nguồn vốn linh hoạt, các nguồn vốn cổ
phần của mình vào các công ty cổ phần ở các lĩnh vực cần thiết có sự điều tiết
và kiểm soát của nhà nước.
II. Doanh nghiệp nhà nước.
1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước.
Theo báo cáo tình hình xã hội thế giới , năm 1985 của liên hợp quốc ,
kinh tế quốc doanh ( hay còn gọi là kinh tế nhà nước) được hiểu là khu vực
kinh tế bao gồm “ Những doanh nghiệp do nhà nước nắm toàn bộ hoặc một
phần sở hữu và nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra
quyết định của doanh nghiệp ”. Ở mỗi nước đều có quy định khác nhau về
doanh nghiệp nhà nước .
Theo luật doanh nghiệp nhà nước ở nước ta ( ngày 20 /04/95). Quy định :
“doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập
và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công Ých, nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao Theo luật doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta ( ngày 20 /04/95). Quy định : “doanh nghiệp nhà
nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý,
hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công Ých, nhằm thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội do nhà nước giao

Định nghĩa trên cho thấy doanh nghiệp nhà nước có những đặc điểm
sau:
Một là: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế được nhà
nướcthành lập để thực hiện những mục tiêu do nhà nước giao.
5
Hai là: Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn nên tài sản
trong doanh nghiệp là thuộc sở hữu của nhà nước, doanh nghiệp quản lý sử
dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là nhà nước.
Ba là: Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều
kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật.
Bốn là: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu trách nhiệm
hữu hạn, nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi số tài sản doanh nghiệp quản lý .
Doanh nghiệp nhà nước có thể phân loại theo các tiêu chí sau
.
- Theo mục đích hoạt động:
Doanh nghiệp nhà nước được chia thành: doanh nghiệp nhà nước hoạt
động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công Ých .
+ Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp nhà nước
hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận .
+ Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công Ých là doanh nghiệp nhà nước hoạt
động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà nước
hoặc trực tiếp nhiệm vụ quốc phòng, an ninh
- Theo phần vốn góp :
Doanh nghiệp nhà nước được chia thành: doanh nghiệp 100% vốn của
nhà nước, doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước và doanh nghiệp có
cổ phần đặc biệt của nhà nước …
+ Doanh nghiệp 100% vốn góp của nhà nước, vốn nhà nước giao cho doanh
nghiệp quản lý và sử dụng bao gồm vốn ngân sách cấp, vốn có nguồn gốc
ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ.

+ Doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước bao gồm :
Cổ phần của nhà nước chiếm trên 50% tổng số cổ phần của doanh nghiệp, cổ
phần của nhà nước Ýt nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong
doanh nghiệp
6
+ Doanh nghiệp có cổ phần đặc biệt của nhà nước không có cổ phần chi phối,
nhưng có quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo
thoả thuận trong điều lệ doanh nghiệp .
- Theo hình thức tổ chức sản xuất:
Doanh nghiệp nhà nước được chia ra thành doanh nghiệp nhà nước độc
lập và tổng công ty nhà nước.
+ Doanh nghiệp nhà nước độc lập là doanh nghiệp nhà nước đơn nhất không
ở trong cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp khác, dưới sự quản lý trực tiếp
của nhà nước đây là loại doanh nghiệp nhà nước truyền thống.
+ Tổng công ty nhà nước là doanh nghiệp nhà nước được thành lập và hoạt
động trên cơ sở liên kết của nhiều đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với
nhau về lợi Ých kinh tế công nghệ cung tiêu, dịch vụ và thông tin …
Hoạt động trong một số ngành chính nhằm tăng cường khả năng kinh
doanh của các đơn vị thành viên (Đơn vị hạch toán độc lập, đơn vị hạch toán
phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp )và thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát
triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ.
Hình thành các tổng công ty nhà nước nhằm mục đích thúc đẩy quá
trình tích tụ, tập trung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất để tạo ra
những tập đoàn kinh tế lớn.Tổng công ty nhà nước được hình thành trong quá
trình tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, giải thể các xí nghiệp liên
hợp và liên hiệp các xí nghiệp. Tổng công ty nhà nước được phân thành 2
loại: thành lập theo quyết định 90/TTG ngày 7-3-1994 của thủ tướng chính
phủ gọi tắt là tổng công ty 90, loại thành lập theo quyết định 91/TTG ngày 6-
4-1994 của thủ tướng chính phủ thường gọi tắt là tổng công ty 91 .
- Theo hình thức tổ chức quản lý:

Doanh nghiệp nhà nước được chia ra thành: Doanh nghiệp nhà nước được
chia ra thành:
+ Doanh nghiệp nhà nước có Hội đồng quản trị, ban giám sát tổng giám đốc
hoặc giám đốc và bộ máy giúp việc.
7
+ Doanh nghiệp nhà nước không có Hội đồng quản trị là doanh nghiệp mà
trong cơ cấu tổ trức quản lý không có Hội đồng quản trị, chỉ có giám đốc với
bộ máy giúp việc.
2. Tính cấp thiết của cải cách doanh nghiệp nhà nước .
Trước đây, nước ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện mô
hình kế hoạch hoá tập trung, lấy mở rộng và phát triển khu vực kinh tế nhà
nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân là mục tiêu cho công cuộc cải tạo
và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, các doanh nghiệp nhà nước đã được
phát triển một cách rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng
tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân, bất chấp hiệu quả đích thực mà chúng
mang lại.
Sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và Chủ nghĩa xã hội được
đồng nhất với nhau. Nhiều dự án, kế hoạch và một số lượng rất lớn vốn đầu tư
của Nhà nước được dành cho những công trình đồ sộ về xây dựng các doanh
nghiệp nhà nước trong các nghành khai khoáng, luyện kim, cơ khí chế tạo…
Đây là những công trình tốn kém nhiều tiền của có thời gian xây dựng lâu dài,
chậm thu hồi vốn và mang lại lợi nhuận. Nhà nước vừa là chủ thể hành chính
vừa là chủ thể kinh tế làm chủ điều hành và can thiệp vào các hoạt động của
các doanh nghiệp nhà nước.
Trên thực tế khu vực kinh tế nhà nước bên cạnh những tác động tích
cực không thể phủ nhận thì đây là khu vực kinh tế hoạt động kém hiệu quả
nhất gây ra những tổn thất to lớn về các nguồn lực phát triển đất nước đòi hỏi
phải được đổi mới một cách cấp thiết.
Một là, các doanh nghiệp nhà nước được sinh ra và trưởng thành trong
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài hàng chục năm. Với chính sách cấp

phát, giao nộp, cỏc doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong điều kiện vốn
được nhà nước bao cấp, vật tư được nhận theo chỉ tiêu kế hoạch, sản phẩm
làm ra được giao nép theo địa chỉ quy định các điều kiện vật chất được nhà
nước cân đối theo chỉ tiêu định mức, trong thực tế doanh nghiệp đơn thuần là
đơn vị “gia cụng” hàng hoá cho nhà nước. Chính vì vậy, doanh nghiệp không
còn là một đơn vị tự chủ, khi chuyển sang cơ chế thị trường, nó bộc lé yếu
8
kém của mình về hiệu quả sản xuất – kinh doanh cơ cấu chắp vá, không đồng
bộ và xơ cứng trong thích ứng với cơ chế vận động của nền kinh tế thị trường.
Hai là, các doanh nghiệp nhà nước đã từ lâu không đặt trong môi
trường cạnh tranh không gắn với thị trường, không chú trọng đổi mới trang
thiết bị, công nghệ. Điều tất yếu xảy ra là vốn liếng không được bảo toàn và
phát triển, thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu hàng chục năm so với mức trung
bình của thế giới. Nói chung sức cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp nhà nước
còn yếu, một bộ phận không nhỏ sản phẩm làm ra không tiêu thụ được phần
vì giá thành cao, chất lượng thấp, phần vì không phù hợp với nhu cầu thị hiếu
người tiêu dùng.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo nguyên tắc độc quyền,
không phụ thuộc vào lợi nhuận mà nó mang lại dẫn đến làm mất tác dụng của
cơ chế cạnh tranh kích thích tính hiệu quả của doanh nghiệp.
Ba là, quan niệm không rõ ràng về chế độ sở hữu trong các doanh
nghiệp nhà nước đã làm cho bộ máy quản lý của chúng trở nên cồng kềnh
chồng chéo, xơ cứng không thích nghi với những biến động của nền kinh tế
thị trường. Tình trạng làm chủ chung chung mà thực chất là vô chính phủ tồn
tại một cách phổ biến ở hầu hết các doanh nghiệp nhà nước.
Mặc dù với số lượng nhân viên nhiều hơn hẳn các doanh nghiệp tư
nhân, công tác thông tin từ doanh nghiệp nhà nước cho chính phủ thường với
chất lượng thấp, làm tăng tính chủ quan của nhà nước trong việc can thiệp vào
hoạt động chính của doanh nghiệp kết hợp giữa quản lý yếu kém với công
nghệ lạc hậu của các doanh nghiệp nhà nước, đã làm cho năng suất lao động

và hiệu quả sản xuất chỉ đạt ở mức thấp .
Bốn là, phân phối khụng dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động mà
chủ yếu nhằm phục vụ chính sách xã hội mang nặng tính bình quân chủ nghĩa,
không có tác dụng kích thích cán bộ quản lý và công nhân trong các doanh
nghiệp nhà nước nâng cao hiệu suất lao động. Thêm vào đó, một bộ phận cán
bộ quản lý lỏng các doanh nghiệp nhà nước không thạo kinh doanh, không đủ
kiến thức và kinh nghiệm cần thiết về quản lý nền kinh tế thị trường, thiếu
năng động và khụng giỏm mạo hiểm trong kinh doanh để giành thắng lợi
nhanh chóng.
9
III Giải pháp tài chính thúc đẩy tiến tình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước .
1 . Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Nhờ vai trò tính ưu việt của hình thái công ty cổ phần trong nền kinh tế
thị trường mà xem cổ phần hoá là con đường hữu hiệu nhất để cải tổ khu vực
doanh nghiệp nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo của nó bằng cách di
chuyển các nguồn vốn cổ phần của mình vào các công ty cổ phần ở các lĩnh
vực cần thiết phải có sự điều tiết và kiểm soát của nhà nước.
Cổ phần hoá theo nghĩa rộng là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ các
hình thức tổ chức kinh doanh khác sang hình thái công ty cổ phần. Còn khái
niệm cổ phần hoá thông thường ở nước ta hiện nay được dùng để chỉ quá
trình chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Nhiều
người quan niệm đồng nhất cổ phần hoá và tư nhân hoá nhưng về thực chất
thì đây là hai khái niệm có khác biệt nhất định. Quá trình tư nhân hoỏ cú hai
cách hiểu là tư nhân hoá theo nghĩa rộng và tư nhân hoá theo nghĩa hẹp về tư
nhân hoá theo nghĩa rộng liên hợp quốc đưa ra định nghĩa:
Tư nhân hoá là biến đổi tương quan giữa nhà nước và thị trường trong
đời sống kinh tế của nhà nước theo hướng ưu tiên thị trường. Theo cách hiểu
này thì toàn bộ những chính sách, luật lệ, thể chế nhằm khuyến khích, mở
rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân hoặc các thành phần kinh tế phi
quốc doanh. Giảm thiểu can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh doanh

của các đơn vị kinh tế cơ sở, dành cho thị trường, vai trò điều tiết đáng kể
thông qua tù do hoá giá cả. Đều có thể coi như là các biện pháp phát triển tư
nhân.
Tư nhân hoá theo nghĩa hẹp là: quá trình giảm thiểu quyền sở hữu nhà
nước hoặc kiểm soát của chính phủ trong doanh nghiệp thông qua nhiều
phương thức và biện pháp khác nhau, trong đó phổ biến nhất là cổ phần hóa.
Về hình thức, cổ phần hoá tức là nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ
giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc
tư nhân trong và ngoài nước, hay cho các cán bộ quản lý và công nhân viên
chức của doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hoặc thông qua thị trường
chứng khoán để hình thành các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ
phần .
10
Về thực chất: cổ phần hoá là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu,
chuyển hình thức kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước duy nhất trong
doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu nhằm tạo ra mét
doanh nghiệp hiện đại thích ứng với yêu cầu của kinh doanh hiện đại trong
nền kinh tế hiện đại.
Ở nước ta hiện nay, cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước không
phải là tư nhân hoá nền kinh tế. mà là quỏ trình giảm bớt sở hữu nhà nước
trong các doanh nghiệp nhà nước và đa dạng hóa sở hữu.
1.1. Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Mục tiêu cổ phần hoá của nhiều nước trên thế giới là “ Nâng cao hiệu quả
hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước” và “ Giảm thâm hụt ngân sách nhà
nước” là hai mục tiêu đầu tiên và trực tiếp. Thực hiện hai mục tiêu này sẽ góp
phần đạt được các mục tiêu của cải cách kinh tế và nâng cao hiệu quả của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi nước
mà có quan điểm bổ sung.
Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển bổ sung thờm cỏc chỉ tiêu :
- Xoá bỏ độc quyền được nhà nước quy định cho một số doanh nghiệp nhà

nước.
- Tạo điều kiện để nhà nước tập trung vào những nghành then chốt mòi nhọn
đòi hỏi lượng vốn lớn và trình độ khoa học công nghệ cao nâng cao sức
cạnh tranh của các sản phẩm quan trọng của đất nước trên thị trường thế
giới.
- Thực hiện phân phối có lợi cho những người có thu nhập thấp tạo lập ổn
định xã hội trong giai đoạn nền kinh tế đang lâm vào giai đoạn trì trệ,
khủng hoảng
Ở các nước đang phát triển ngoài hai mục tiêu trên cần phải bổ sung
thêm :
- Giảm các khoản nợ nước ngoài đang ngày càng tăng do phải bù đắp vào các
khoản thâm hụt ngân sách để trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước.
11
- Thu hút cỏc nguồn đầu tư nước ngoài , đổi mới kỹ thuật và học tập quản lý,
tạo ra nền kinh tế mở cửa tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà
nước nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ trong nước.
- Tạo dựng và phát triển một thị trường tài chính trong nước hoàn chỉnh, bao
gồm thị trường tư bản tài chính chứng khoán và tài chính tiền tệ.
Còn ở nước ta chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần
nhằm các mục tiêu sau ( Theo nghị định số 44/1998/NĐ-C P ngày 29-6
1998 của chính phủ ) :
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế tổ chức xã
hội trong và ngoài nước để đầu tư và đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm,
phát triển doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước.
- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và người
góp vốn được làm chủ thực sự thay đổi phương thức quản lý tạo động lực
thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước nâng
cao thu nhập của người lao động góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
1.2. Phương hướng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

1.2.1. Đối tượng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Để xác định đối tượng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chính phủ
các nước thường xuất phát từ tầm quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân
đem phân toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước thành bốn loại.
- Các doanh nghiệp nhà nước không hoặc chưa cổ phần hoá. Đây là các
doanh nghiệp nhà nước toàn phần do nhà nước thành lập và đầu tư vốn
100%, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công Ých và các
doanh nghiệp sản xuất, cung ứng những sản phẩm hoặc dịch vụ có quan hệ
lớn đến quốc tế dân sinh và an ninh quốc phòng mà nhà nước cần phải độc
quyền kinh doanh .
- Các doanh nghiệp nhà nước được đưa vào diện cổ phần hoá để chuyển thành
các công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước tư nhân, trong đó nhà nước vẫn cần
nắm giữ quyền chi phối hoặc kiểm soát với mức độ khác nhau tuỳ theo tỷ lệ
12
cổ phần của nhà nước trong công ty. Đây là bộ phận doanh nghiệp nhà nước
chủ yếu cần phải tiến hành cổ phần hoá .
- Các doanh nghiệp nhà nước cần tiến hành cổ phần hoá để chuyển thành các
công ty cổ phần tư nhân. Nhà nước không cần nắm quyền chi phối hoặc
kiểm soát các công ty tư nhân, các công ty tự chủ trong kinh doanh hoạt
động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
- Các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài nhiều năm không còn
khả năng khôi phục hoạt động trong các ngành nghề không thật cần thiết
cho quốc tế dân sinh, cần kiên quyết cho giải thể, phá sản hoặc sát nhập vào
các công ty cổ phần tư nhân nhằm giảm nhẹ cho ngân sách nhà nước.
1.2.2. Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước .
Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được đề ra căn cứ vào mục
tiêu của chiến lược cải cách khu vực kinh tế nhà nước nhằm phát triển nền
kinh tế thị trường hỗn hợp cho phép đạt hiệu quả kinh tế –xó hội cao. Chủ yếu
có :
- Bán đấu giá hoặc bán trực tiếp các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ

hoạt động trong các nghành thương nghiệp và dịch vô.
- Giữ nguyên phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, phát triển cổ phiếu và
bán cho tất cả ai muốn mua thông qua cơ sở giao dịch chứng khoán. Qua
đó thu hút thờm vốn để đổi mới và phát triển doanh nghiệp. Hình thức
này được sử dụng để cổ phần hoỏ cỏc doanh nghiệp nhà nước có quy mô
lớn.
- Bán một phần vốn cố định của doanh nghiệp nhà nước cho một nhóm cá
nhân hoặc công ty mà họ có khả năng tài chính để cải cách hoạt động của
doanh nghiệp để cho có hiệu quả hơn.
- Bán với giá thấp hơn giá thị trường cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước
cho cán bộ, công nhân viên chức làm việc tại các doanh nghiệp đó hoặc
cho những người nghèo khó có thu nhập thấp nhằm giải quyết những vấn
đề xã hội.
Ở Việt Nam cổ phần hoá được tiến hành theo các hình thức sau đây.
13
1. Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành
cổ phiếu thu hót thêm vốn để phát triển doanh nghiệp.
2. Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp
3. Tỏch mét bộ phận hiện có tại doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá .
4. Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển
thành công ty cổ phần .
1.2.3 Những nhân tố tác động đến quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta .
a. Yếu tố thuận lợi .
Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập tại tất cả các
doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “ thương mại
hoỏ” cỏc hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, là tiền đề cơ bản
và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoỏ cỏc doanh nghiệp nhà nước.
- Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoỏ cỏc
doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc

ban hành các văn bản dưới luật nhằm thực hiện chương trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước như luật doanh nghiệp. Nghị định số 28 CP của
chính phủ “ về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ
phần” Nghị định 44/1998 NĐ- CP “ về chuyển một số doanh nghiệp nhà
nước thành công ty cổ phần …”
Cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này góp phần xác định góp
phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp
mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp để triển khai thực hiện .
- Tình hình kinh tế của đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tớch cự. .
Giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định mức lạm phát đã được
kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất ở mức khuyến khích
các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh … Điều này đã tạo điều kiện
thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ
phiếu trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá.
14
- Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần của nhà nước mấy năm qua thu nhập của dân cư được nâng cao. Số
người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu
tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh
nghiệp được cổ phần hoá.
- Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng đã xuất
hiện đội ngũ cỏc nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn,
người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức tác
phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất chất
lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn góp
phần thuận lợi cho việc cổ phần hoỏ cỏc doanh nghiệp nhà nước
- Với luật đầu tư nước ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng
kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu và
các doanh nghiệp nhà nước được tiến hành cổ phần hoá.

- Ngoài ra, những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước trên thế giới
trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ là những bài học bổ
Ých và quý giá để nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức
thực hiện công việc cổ phần hoỏ cỏc doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam .
b. Các yếu tố khó khăn và cản trở .
- Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá
ở nhiều nước đang phát triển là khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Điều này
cũng đúng với Việt Nam, sự nhỏ bé yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản
ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh
nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến . Hình thái công ty
cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ cho cả
người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thái cổ phiếu và do đó,
làm cho việc tiến hành chương trình cổ phần hoá ở nước ta phải thực hiện
trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái
công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng
15
- Sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự trong đó có thị trường
chính khoán ( thị trường chính khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt
động của các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường ). Ở nước ta sở
giao dịch chứng khoán đã đi vào hoạt động hơn một năm, nhưng vẫn còn
non nít và chưa phát huy hết tác dụng của nó dẫn đến việc định giá doanh
nghiệp để cổ phần hoá phát hành và lưu thông cổ phiếu, việc mua bán cổ
phiếu còn gặp nhiều khó khăn.
- Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của nhà nước về luật pháp, thuế
khoá, tiền tệ …Chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho người muốn đầu tư lâu
dài. Nhiều chính sách ra đời chồng chéo mâu thuẫn lẫn nhau và thay đổi đột
ngột .
- Các doanh nghiệp nhà nước hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ ,công
nghệ lạc hậu, biên chế cồng kềnh, khả năng cạnh tranh thấp Do đó khó có
thể tiến hành cổ phần hoỏ cỏc doanh nghiệp này, số doanh nghiệp có mức

lợi nhuận đủ sức hấp dẫn để cổ phần hoá. Điều này sẽ gây khó khăn cho
việc lùa chọn các doanh nghiệp cổ phần hoá cũng như thu hót sự hưởng ứng
của đông đảo người có vốn đầu tư bằng cổ phần .
- Về tư tưởng, tâm lý của đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với
vấn đề mới mẻ này, thậm chí cũn cú những phản ứng nhất định ở những
người đang sống yên ổn trong khu vực nhà nước .
- Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt các
vấn đề liên quan đến chương trình cổ phần hoá như các khoản trợ cấp cho
ngưũi lao động thất nghiệp, chi phí đào tạo lại nghề mới và thời gian tìm
việc …
- Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất
. Điều này trở ngại cho việc đánh giá, giá trị doanh nghiệp tình hình và triển
vọng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được cổ phần hoá …và do
đó gây khó khăn cho việc cung cấp thông tin trung thực tin cậy cho những
người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu với những doanh nghiệp này.
2. Vấn đề tài chính trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
16
Bất kỳ một doanh nghiệp, một tổ chức hay một cá nhân muốn tiến hành
kinh doanh cũng đò hỏi có một lượng vốn nhất định để hình thành nên tài sản
doanh nghiệp, đảm bảo doanh nghiệp đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vốn của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau gọi là
nguồn vốn. Như vậy tài sản và nguồn vốn chỉ là hai mặt khác nhau của vốn.
Một tài sản có thể được tài trợ từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Chẳng hạn bên
cạnh nguồn vốn chủ sở hữu, tài sản có thể được hình thành bằng nguồn vốn
vay hoặc thu mua. Ngược lại, một nguồn vốn có thể tham gia hình thành nên
nhiều tài sản.Về mặt lượng tổng tài sản bao giê cũng bằng tổng nguồn vốn
hình thành tài sản bởi chúng là hai mặt khác nhau của cùng một lượng vốn
Tài sản = Nguồn vốn hay Tài sản = Vốn sở hữu + công nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu không phải là một khoản nợ, vốn chủ sở hữu chính là
số vốn để cổ phần hoá. Quy mô của vốn chủ sỡ hữu này phụ thuộc vào giá trị

của tài sản và quy mô vốn công nợ. Vấn đề đặt ra trong quá trình cổ phần hoá
là xác định giá trị tài sản và quy mô công nợ để từ đó xác định giá trị của vốn
chủ sở hữu hay chính là giá trị phần vốn nhà nước trong cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước.
Giá trị doanh nghiệp đem cổ phần hoá phải là giá trị hữu dụng của
doanh nghiệp tức là số thực huy động được vào trong kinh doanh.Với ý đú
cỏc khoản tổn thất do kinh doanh thua lỗ, nợ nần dây dưa, vật tư, hàng hoá
tồn kho, kém phẩm chất, tài sản cố định không cần dùng đang chờ thanh lý
…. Không được đưa vào giá trị doanh nghiệp để bán cổ phần.
Người bán cổ phần thường có xu hướng định giá doanh nghiệp cao để
tránh mất vốn trong khi người mua cổ phần thường có xu hướng định giá
doanh nghiệp thấp để tránh rủi ro. Hai nhu cầu đối kháng này đòi hỏi phải có
giải pháp dung hòa bằng việc xác định cho một mức giá hợp lý sau khi đã giải
quyết các tồn đọng về tài sản và công nợ nhằm tăng tính hấp dẫn với người
mua đồng thời phải có giải pháp đảm bảo khả năng phát triển của doanh
nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hoá.
Do đó các vấn đề tài chính có thể chia làm hai nhóm: Vấn đề cổ phần
hoá bao gồm xử lý tồn tại về tài sản, vốn, đặc biệt là công nợ của doanh
nghiệp CPH và định giá doanh nghiệp; Vấn đề sau khi CPH bao gồm cơ cấu
17
vốn và khả năng tăng giảm vốn sau khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ
phần .
2.1. Xử lý vấn đề tài chính trước và sau khi doanh nghiệp nhà nước
chuyển sang công ty cổ phần.
2.1.1 Xử lý tồn tại về tài sản, vốn trước và sau khi doanh nghiệp nhà nước
chuyển sang công ty cổ phần.
• Về tài sản:
Tài sản không cần dùng cần được nhượng bán và thanh lý ngay. Nếu
như chưa xong thì sau khi cổ phần hoá công ty cổ phần kế thừa và tiếp tục xử
lý.

Các tài sản, vật tư tiền vốn mất mát, thiếu hụt xác định rõ nguyên nhân,
nếu trách nhiệm thuộc về cá nhân thì cá nhân đó phải đền bù số còn lại doanh
nghiệp phải dùng quỹ để bù đắp nếu không đủ thỡ tớnh giảm phần vốn nhà
nước trong doanh nghiệp.
Nguyên tắc và thủ tục nhượng bán và thanh lý tài sản phải theo chế độ
hiện hành
• Về vốn
Những khoản vốn hay giá trị tài sản và vốn của doanh nghiệp nhận liên
doanh liên kết thuê mướn trước khi cổ phần hoá cần xác định phân loại rõ
ràng để Công ty cổ phần tiếp nhận và có phương án xử lý.
Các khoản chênh lệch giá vật tư chênh lệch tỷ giá tuỳ trường hợp cụ thể
để xử lý tăng vốn hoặc lãi theo chế độ hiện hành
• Về công nợ
Công nợ là vấn đề phát sinh thường xuyên của quá trình sản xuất kinh
doanh nợ phải trả trên bảng cân đối kế toán phản ánh trách nhiệm của doanh
nghiệp nhà nước đối với các chủ nợ .
Các chủ nợ có thể là: Nhà nước (trong trường hợp nợ thuế và các khoản
phải nép ngân sách nhà nước), các tổ chức kinh tế (doanh nghiệp khác, ngân
18
hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác ) cá nhân (cán bộ nhân viên
người bán hàng, khách hàng khác cá nhân khác)
Ngược lại, nợ phải thu trên bảng cân đối kế toán phản ánh trách nhiệm
các con nợ đối với doanh nghiệp nhà nước. Trách nhiệm được đề cập đến ở
đây là việc bắt buộc phải thanh toán trả nợ đúng thời hạn. Đây là nguyên tắc
quan trọng để giữ gìn mối quan hệ giữa bên đầu tư vốn và bên nhận vốn đầu
tư phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vì quyền sở hữu thuộc về
các chủ nợ, khách nợ vay vốn chỉ có quyền sử dụng vốn vay phải hoàn trả gốc
vay đúng thời gian.
Trước khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước phải thanh toán hết công
nợ, thanh lý mọi hợp đồng đã ký hoặc phải các quyền lợi và nghĩa vụ cũ sang

công ty cổ phần mới .
Với vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn, nợ phải trả luôn là nhân tố quan
trọng ảnh hưởng đến giỏ trị doanh nghiệp.
công nợ là một yếu tố thuộc tài sản, nợ phải thu cũng ảnh hưởng đến giá
trị doanh nghiệp
Nếu không xác định được nợ còn lại thì không thể tính được giá trị
doanh nghiệp.
Mục đích của việc xử lý nợ là phân loại các khoản nợ để thu hồi hoặc
thanh lý để có biện pháp loại trừ ra khỏi bảng cân đối, làm lành mạnh tình
hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó xác định giá trị doanh nghiệp
Đối với các khoản phải thu khú đũi cú nguyên nhân khách quan được xử
lý theo nguyên tắc:
- Đối với các khoản nợ đã có đủ chứng cớ xác định là các khoản nợ không
đòi được như con nợ bị giải thể, phá sản, con nợ bỏ trèn, con nợ thi hành án
và mất khả năng thanh toỏn… thỡ được hạch toán vào kết quả sản xuất kinh
doanh ( nếu có lãi) hoặc giảm giá trị doanh nghiệp trước khi thực hiện
chuyển đổi sở hữu ( nếu không có lãi).
- Đối với các khoản nợ chưa đủ căn cứ để xử lý như nguyên tắc trên nhưng
là những khoản công nợ dây dưa đã phát sinh trên 5 năm mà con nợ còn
đang tồn tại, doanh nghiệp đã tích cực áp dụng nhiều giải pháp ( bao gồm cả
19
giải pháp đề nghị toà án giải quyết phá sản con nợ như quy định tại điều 7
luật phá sản doanh nghiệp ) nhưng vẫn không thu hồi được nợ thì hạch toán
vào kết quả kinh doanh, giảm lãi trước khi thực hiện chuyển đổi (nếu doanh
nghiệp cú lói) hoặc được giảm giá trị doanh nghiệp (phần vốn Nhà nước)
trước khi chuyển đổi doanh nghiệp với mức tối đa không vượt quá phần vốn
Nhà nước tại doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp không có lãi hoặc bị lỗ )
Các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá vẫn tiếp tục có trách nhiệm theo
dõi, thu hồi các khoản nợ đã được xử lý theo nguyên tắc trên và nép vào ngân
sách nhà nước.

Đối với các khoản nợ do chủ quan đã quy được trách nhiệm cá nhân
hoặc tập thể thì phải xử lý trách nhiệm bồi thường vật chất. Phần tổn thất sau
khi đã xử lý trách nhiệm được xử lý như đối với các khoản nợ khú đũi cú
nguyên nhân khách quan.
Đối với các khoản nợ đọng ngân sách.
Về nguyên tắc, các doanh nghiệp phải có biện pháp thanh toán các
khoản nợ đọng ngân sách trước khi thực hiện cổ phần hoá.
Trường hợp doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh có
hiệu quả nhưng khó khăn về tài chính do đầu tư tài sản cố định thì doanh
nghiệp phải lập phương án xử lý nợ, huy động hết các nguồn hiện có ( như
quỹ đầu tư phát triển, nguồn vốn khấu hao, thu hồi công nợ…) Để bù đắp các
khoản chiếm dụng của ngân sách để đầu tư. Trường hợp đã huy động hết
nguồn hiện có nhưng vẫn đủ nguồn bù đắp thì doanh nghiệp phải báo cáo cơ
quan có thẩm quyền để thực hiện ghi thu ghi chi tăng vốn Nhà nước cho
doanh nghiệp.
Trường hợp doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán do bị thua lỗ
thì doanh nghiệp báo cáo cơ quan có thẫm quyền xem xét, cho phép xoá nợ
ngân sách với mức tối đa bằng số luỹ kế của doanh nghiệp tại thời điểm có
quyết định thực hiện cổ phần hoá.
Đối với các khoản nợ vay ngân hàng thương mại quốc doanh.
20
Việc khoanh nợ, xoá nợ ngân hàng là nhằm hỗ trợ những doanh nghiệp
nhà nước thực hiện cổ phần hoỏ cú khó khăn về tài chính, hoạt động kinh
doanh có thể bị lỗ nhưng chưa lâm vào tình trạng phá sản theo nguyên tắc:
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn trong thanh toán, không
cân đối được nguồn để thanh toán các khoản nợ quá hạn… thì được xem xét
khoanh các khoản nợ quá hạn có đến thời điểm quyết định triển khai cổ
phần hoá trong thời hạn từ 3-5 năm.
- Đối với các doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ, mất khả năng thanh toán thì
cho phép xoá nợ lãi vay ngân hàng mà doanh nghiệp chưa thanh toán với

mức không vượt quá số lỗ còn lại sau khi xử lý nợ ngân sách. Phần nợ gốc
quá hạn còn lại doanh nghiệp tiếp tục điều chỉnh khoanh nợ trong 5 năm để
giảm bớt khó khăn về tài chính. Các khoản tổn thất của ngân hàng thương
mại quốc doanh do khoanh nợ hoặc xoá nợ cho doanh nghiệp nhà nước
trước khi thực hiện cổ phần hoá được hạch toán vào chi phí hoạt động kinh
doanh, quỹ bù đắp rủi ro của ngân hàng, giảm trừ vào nợ vay của ngân hàng
nhà nước hoặc được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần khi các ngân hàng
thương mại không đủ nguồn để bù đắp theo hướng dẫn của bộ tài chính.
- Đối với nợ bảo hiểm xã hội do doanh nghiệp mất khả năng thanh toỏn.Về
nguyên tắc, trước khi thực hiện cổ phần hoá, doanh nghiệp có trách nhiệm
thanh toán dứt điểm các khoản nợ đối với công ty bảo hiểm xã hội.Trường
hợp doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán thì khoản nợ đối với công
ty bảo hiểm xã hội được giảm trừ vào giá trị doanh nghiệp trước khi thực
hiện chuyển đổi.
2.1.2 .Định giá doanh nghiệp
• Khái niệm:
Giá doanh nghiệp được quan niệm là giá cả thực tế mà người mua trả
cho người bán khi nhận quyền sở hữu một phần hay toàn bộ doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp theo kinh tế học hiện đại có thể hiểu là mức độ thoã
dụng hay lợi Ých mà một doanh nghiệp sẽ mang lại trong suy nghĩ của các
đối tượng tham gia mua bán.
21
Định giá doanh nghiệp là các hoạt động có phương pháp mang tính đơn
phương của từng bên liờn quan nhằm đưa ra một mức giá mà họ cho là gần
nhất với giá trị doanh nghiệp.

Định giá doanh nghiệp một cách chính xác sẽ tránh được thiệt hại cho
bên mua hoặc bên bán khi doanh nghiệp được xác định thấp hơn giá trị thực
thì có thể làm mất vốn nhà nước. Ngược lại, khi giá doanh nghiệp được xác
định cao hơn giá trị thực sẽ làm thiệt hại cho bên mua.

• Các nhân tố xác định giá trị doanh nghiệp .
- Giá trị tài sản doanh nghiệp.
Giá trị tài sản doanh nghiệp là chỉ tiêu dễ thấy nhất thể hiện giá trị doanh
nghiệp, được theo dõi hết sức chặt chẽ trong toàn bộ quá trình vận hành
doanh nghiệp bằng hệ thống hoạch toán kế toán .
Tài sản của doanh nghiệp gồm:
+ Tài sản hữu hình: Đất đai doanh nghiệp đã sử dụng vào sản xuất kinh
doanh, máy móc thiết bị.
+ Tài sản vô hình: quyền sử dụng đất, chi phí thành lập bằng phát minh
sáng chế, chi phí nghiên cứu phát triển, lợi thế thương mại.
- Khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Mức lợi nhuận là chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh lời của doanh nghiệp
thể hiện lợi Ých mà doanh nghiệp mang lại cho chủ sở hữu, nên là nhân tố
quan trọng để xác định giá trị của doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp chính là
giá trị hiện tại hoỏ dũng lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi bán doanh
nghiệp.
- Quan hệ cung cầu về doanh nghiệp.
Trong ngắn hạn, độ co giãn của cung cầu thường giả định không thay
đổi. Khi đó, biến động của giá doanh nghiệp theo quy luật cung cầu thường
giả định không thay đổi. Khi đó, biến động của giá doanh nghiệp theo quy
luật cung cầu phụ thuộc chủ yếu vào lượng cung, lượng cầu về doanh nghiệp.
Đôi khi cung cầu về doanh nghiệp gây ra sự chênh lệch lớn giữa giá trị doanh
22
nghiệp và giá cả doanh nghiệp tạo nên các cú sốc cung cầu giả tạo trong ngắn
hạn. Sự tăng giảm như vậy chứng tỏ cung cầu doanh nghiệp là một nhân tố
khách quan không thể bỏ qua trong xác định giá doanh nghiệp .
- Tình hình kinh tế, tài chính quốc gia.
Nếu những dự đoán về tình hình kinh tế, tài chính quốc gia trong tương
lai được coi là bất ổn định thì giá doanh nghiệp sẽ được đánh giá thấp xuống.
Ngược lại thì giá doanh nghiệp sẽ được định giá cao hơn. Sự chênh lệch giữa

hai mức giá này do mức độ rủi ro mà nhà đầu tư dự đoán phải được lưu tâm
đến khi đến khi định giá doanh nghiệp.
• Các phương pháp định giá doanh nghiệp
- Phương pháp giá trị tài sản thuần.
Phương pháp giỏ trị tái sản thuần xác định giá trị doanh nghiệp đưa trên giá trị
thị trường của trị trường của các loại tài sản đó của nã. Phương pháp
giá trị tái sản thuần xác định giá trị doanh nghiệp đưa trên giá trị thị trường
của trị trường của các loại tài sản đó của nó.
Theo phương pháp nào, giá trị thị trường của tài sản được tớnh dựa trờn bảng
cân đối tài sản và tham khảo giá trị thị trường của tài sản tương tù hoặc cùng
loại giá trị của vốn cổ phần được tính toán như sau: Theo phương
pháp nào, giá trị thị trường của tài sản được tính dựa trên bảng cân đối tài sản
và tham khảo giá trị thị trường của tài sản tương tự hoặc cùng loại giá trị của
vốn cổ phần được tính toán như sau:
V
E
=V
A
-V
D.
V V
E
: giá trị thị trường của vốn cổ phần .
V
A
: giá trị thị trường của toàn bộ tài sản.
V
D
: giá trị trường cửa nợ.
- Phương pháp định giá theo khả năng sinh lời.

Phương pháp này dựa trờn cơ sở xem xét doanh nghiệp không phải đơn
thuần là tổng sè sè học giá trị các tài sản hiện có mà là một hệ thống phức tạp
các giá trị kinh tế được đo bằng khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Điều mà
người đầu tư trông đợi là lợi nhuận, là khả năng sinh lời của doanh nghiệp
23
trong tương lai và chính nó là cơ sở để định giá doanh nghiệp. Với cách nhìn
nhận đó ta có 2 phương pháp định giá sau:
+ Phương pháp lợi nhuận.
Giá trị doanh nghiệp theo phương pháp lợi nhuận được xác định theo
công thức:
Để xác định lợi nhuận sau thuế bình quân hàng năm dự tính thu được
người ta có thể căn cứ vào số liệu thống kê cuả các năm gần nhất với thời
điểm định giá và được tính theo phương pháp bình quân số học. Công thức
tính như sau:
Trong khi tính toán cũng cần xem xét để loại trừ các ảnh hưởng đột
biến đến lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đồng thời cũng cần phân tích,
dự đoán tình hình sắp tới để điều chỉnh lợi nhuận sau thuế bình quân đã tính
toán cho phù hợp.
Đối với việc lùa chọn tỷ suất vốn hoá cũng còn nhiều ý kiến khác nhau.
Nhưng có thể thấy nên chọn tỷ suất lợi tức trái phiếu dài hạn làm tỷ suất vốn
hoá là có cơ sở và hợp lý hơn, bởi vỡ nú phản ánh khả năng thu được lợi
nhuận ở mức trung bình mà người đầu tư có thể đạt được trên thị trường.
Về bản chất phương pháp lợi nhuận là phương pháp hiện tại hoá lợi
nhuận sau thuế bình quân thu được hàng năm. Thật vậy, nếu gọi lợi nhuận sau
thuế hàng năm là P với tỷ suất hiện tại hoá là "i", số năm có khoản thu về lợi
nhuận sau thuế là "n", ta có giá trị doanh nghiệp V là:
(Ghi công thức )
Nếu lợi nhuận P là cố định và n+ thì
(Ghi công thức )
24

i
Pr
V =
n
n
k
k
P
P

=
=
1
Phương pháp này phù hợp với các doanh nghiệp không có nhiều tài sản
cố định phải khấu hao, khả năng tích luỹ vốn từ khấu hao hạn chế; mặt khác
cũng đòi hỏi lợi nhuận sau thuế hành năm là tương đối ổn định. Trong trường
hợp lợi nhuận sau thuế không ổn định hoặc đối với doanh nghiệp mới thành
lập, chưa có số liệu quá khứ để xem xét thì việc dự đoán lợi nhuận sau thuế
bình quân thu được hàng năm sẽ khó khăn hơn nhiều.
2.2. Cơ cấu vốn và khả năng tăng giảm vốn sau khi doanh nghiệp nhà
nước chuyển sang công ty cổ phần .
Trong công ty cổ phần, nguồn hình thành vốn được chia làm 3 loại:
- vốn cổ phần
- vốn vay
- lợi nhuận tích luỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Khi doanh nghiệp mới chuyển sang công ty cổ phần, nguồn tài chính chỉ
bao gồm vốn cổ phần và vốn vay. Sau một thời gian hoạt động, thì công ty cổ
phần cú thờm một nguồn vốn bổ sung là lợi nhuận thu được
Tỷ trọng của vốn cổ phần, vốn vay lợi nhuận trong nguồn vốn của công
ty phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố: danh tiếng của công ty trên thị trường

tiền tệ, mức độ và tính chất mất ổn định của lợi nhuận công ty, hệ thống thuế
thu nhập doanh nghiệp hiện hành đối với công ty, lãi xuất tiền vay, tình hình
kinh tế chung của đất người nước…
- Khả năng tăng giảm vốn cổ phần.
• Tăng vốn cổ phần của công ty.
+ Phát hành cổ phiếu mới: các loại cổ phiếu có thể phát hành là cổ phiếu
thường và cổ phiếu ưu đãi.
+ Chuyển quỹ dự trữ vào vốn của công ty:
Quỹ dự trữ của CTCP là một loại quỹ bắt buộc công ty phải trích lập theo luật
định. Đây là một nguồn tài chính dự phòng nhằm bù đắp những rủi ro trong
kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu tăng vốn để phát triển sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, khi có nhu cầu bổ sung tăng vốn điều lệ của CTCP có thể chuyển một
phần quỹ dự trữ vào vốn của công ty.
25

×