Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Luận văn một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương đống đa hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 122 trang )











LU
ẬN V
ĂN:


M
ột số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác ki
ểm tra, kiểm toán nội bộ
đ
ối với
ho
ạt
đ
ộng tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng
công thương Đ
ống
Đa
-
Hà N
ội


.

















Mục lục

Chương i
Những vấn đề cơ bản về kiểm toán kinh tế và kiểm toán nội bộ tronghoạt động
ngân hàng thương mại.
I. CƠ Sở LÝ LUậN CHUNG Về KIểM TOÁN 4
1. Sự hình thành và phát triển của toán trên thế giới và ở Việt nam. 4
2. Bản chất của kiểm toán. 7
3. Vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường. 12
4. Các loại hình kiểm toán và các bước cơ bản để tiến hành một cuộc kiểm toán
14
4.1. Các loại hình kiểm toán 14 a.

Phân loại kiểm toán theo chức năng: 14
b. Phân loại kiểm toán theo chủ thể tiến hành. 16
4.2. Các bước tiến hành một cuộc kiểm toán. 19 a.
Lập kế hoạch và chương trình kiểm toán: 20
b. Thực hiện kiểm toán: 21
c. Hoàn tất và lập báo cáo kiểm toán. 22
d. Theo dõi sau kểm toán: 23
4.3. Các phương pháp, kỹ thuật sử dụng trong quá trình kiểm toán. 23 a.
Phương pháp kiểm toán cơ bản: 23
b. Phương pháp kiểm tra, kiểm soát: 24
c. Phương pháp kiểm toán cân đối: 24
d. Phương pháp đối chiếu: 25
đ. Phương pháp kiểm kê: 25
e. Phương pháp điều tra: 25

f. Phương pháp thực nghiệm (còn gọi là phương pháptrắc nghiệm). 25
g. Phương pháp chọn mẫu kiểm toán : 26
II .KIểM TOÁN NGÂN HÀNG THƯƠNG MạI TRONG NềN KINH Tế THị TRƯờNG:
26
1. Sự cần thiết phải kiểm toán ngân hàng : 26
2. Những hình thức kiểm toán trong ngân hàng thương mại. 28
3. Những lĩnh vực kiểm toán chủ yếu trong Ngân hàng thương mại 30 a. Trong
Kiểm toán tài sản và nguồn vốn, kiểm toán các nội dung sau: 30
b. Kiểm toán hoạt động tín dụng: 30
c. Kiểm toán doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh: 32
III. KIểM TOÁN NộI Bộ ĐốI VớI HOạT ĐộNG TÍN DụNG TạI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MạI
TRONG NềN KINH Tế THị TRƯờNG: 33
1. Kiểm toán nội bộ trong các ngân hàng thương mại. 33 a.
Nhận thức cơ bản về kiểm toán nội bộ trong các NHTM. 33

b. Một số quy định cơ bản về kiểm toán nội bộ trong Ngân hàng. 33
2. Những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng trong các NHTM. 40 a.
Khái niệm tín dụng, đặc trưng, vai trò của tín dụng: 40
b. Các loại tín dụng: 41
3. Kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng trong các NHTM. 44
a. Vai trò, vị trí của kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng trong các
NHTM. 45
b. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng.
46
4. Quan điểm cơ bản khi xây dựng quy trình kiểm toán nội bộ đối với hoạt động
tín dụng tại các NHTM. 48 a.
Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán. 48
b. Thực hiện kiểm toán. 49

c. Hoàn tất công tác kiểm toán và công bố kết quả kiểm toán. 49
d. Theo dõi việc thực hiện kiến nghị đã được Giám đốc thông qua. 50

Chương II
thực trạng công tác kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại chi nhánh
ngân hàng công thương Đống Đa

I. ĐặC ĐIểM KINH Tế XÃ HộI CủA ĐịA BÀN QUậN ĐốNG ĐA.
51
II. ĐÔI NÉT Về HOạT ĐộNG NHCTĐĐ VÀ KếT QUả HOạT ĐộNG KINH DOANH
CủA NGÂN
HÀNG. 54
1. Khái quát về hoạt động của chi nhánh NHCTĐĐ: 54 2.
Khái quát về kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 58
III, THựC TRạNG CÔNG TÁC KIểM TOÁN NộI Bộ ĐốI VớI HOạT ĐộNG TÍN DụNG
TạI CHI

NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐốNG ĐA. 63
1. Tổ chức và hoạt động của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại Chi nhánh
Ngân hàng công thương Đống Đa. 63
a. Cơ cấu tổ chức của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại chi nhánh Ngân hàng
công thương Đống Đa. 63
b. Nhiệm vụ của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại Chi nhánh Ngân hàng công
thương Đống Đa. 65
2. Thực trạng hoạt dộng tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa dưới góc
độ đánh giá của kiểm toán nội bộ. 68 a. Về chỉ tiêu tổng dư
nợ: 69
b. Cơ cấu dư nợ theo thời hạn. 69
c. Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế: 71
d. Cơ cấu dư nợ theo ngàng kinh tế. 72

e. Cơ cấu dư nợ theo loại tiền: VNĐ và ngoại tệ. 73
3. Tình hình công tác kiểm tra nội bộ đối với hoạt đông tín dụng tại ngân hàng.
75
3.1. Những đóng góp của công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ đối với hoạt động
tín dụng tại ngân hàng công thương Đống Đa. 76
a. Việc thực hiện quy chế vế quy trình kiểm tra nghiệp vụ tín dụng của Ngân
hàng Công thương Việt Nam. 77 b,
Những kết quả đạt được qua kiểm tra: 94 c.
Những dạng sai phạm chủ yếu qua kiểm tra, kiểm toán. 96
d. Biện pháp của tổ kiểm tra tín dụng đối với những sai phạm thường xuyên
xảy ra. 98
e. Những đóng góp của tổ kiểm tra, kiểm toán tín dụng với cương vị là kiểm
toán nội bộ NHCTVN. 98
3.2. Những hạn chế cần khắc phục trong công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với
hoạt động tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa.
100

a. Hạn chế về kết quả kiểm toán : 100
b. Hạn chế về mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ phận kiểm tra,
kiểm toán nội bộ tại chi nhánh. 101
c. Công tác kiểm soát từ xa và việc áp dụng công nghệ tin học trong kiểm tra, kiểm
toán còn hạn chế. 102 d. Chức năng của
hoạt động kiểm toán chưa được thực hiện đầy đủ. 102
e. Hạn chế trong phối hợp giữa kiểm tra, pháp chế với phòng kinh doanh tín
dụng. 103 f,
Những tồn tại khác. 103


Chương III
một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra
kiểm toán nội bộ đối vơí hoạt động tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Công
thương Đống Đa
I. Sự CầN THIếT PHảI GIảI QUYếT NHữNG TồN TạI, HạN CHế CủA CÔNG TÁC
KIểM TRA TÍN DụNG TạI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐốNG
ĐA. 106
II. MộT Số BIệN PHÁP NHằM KHắC PHụC HạN CHế, TồN TạI CủA CÔNG TÁC
KIểM TRA,
KIểM TOÁN TÍN DụNG TạI CN NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐốNG ĐA
107
1. Đề xuất về biện pháp khắc phục đối với những tồn tại, hạn chế của công tác
kiểm toán tín dụng. 107
a. Giải pháp để nâng cao chất lượng công tác KTKTNB đối với hoạt động tín
dụng. 107
b. Tăng cường công tác kiểm soát từ xa và áp dụng cộng nghệ tin học vào
kiểm tra kiểm toán 108
c. Đảm bảo tính độc lập trong hoạt động của tổ KTKTNB tín dụng tại Ngân hàng công
thương Đống Đa. 109

d. Phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong kiểm tra kiểm toán, thực hiện tốt giữa tự
kiểm tra nghiệp vụ và kiểm toán nội bộ. 110
e. Thực hiện đầy đủ chức năng của kiểm toán nội bộ. 111
f. Giải pháp cho các vấn đề khác. 111
III. NHữNG KIếN NGHị Cụ THể . 112
1. Đối với các cơ quan Nhà nước và Ngân hàng cấp trên. 113
a. Kiến nghị với NHNN và các cấp có thẩm quyền về hoàn thiện cơ cấu tổ
chức của hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ 113
b. Kiến nghị với các cấp lãnh đạo Ngân hàng cấp trên về việc trang bị thêm máy vi
tính cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ NHCTĐĐ: 114

c. Kiến nghị với NHNN và các cấp về giải quyết TSTC thu hồi nợ tồn đọng.
114
d. Kiến nghị với Ngân hàng cấp trên (NHCTVN) về tăng cường kiến thức thực tế
trong công tác của cán bộ kiểm tra, kiểm toán nội bộ. 115
2. Kiến nghị đối với lãnh đạo Ngân hàng công thương Đống Đa. 116
3. Kiến nghị đối với các cán bộ kiểm tra tín dụng Ngân hàng công thương Đống
Đa. 117
Kết luận

















lời mở đầu

ở Việt Nam, từ khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
nhu cầu về kiểm toán đã trở nên tất yếu, một điều không thể phủ nhận.
Những đóng góp quan trọng của kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập kể từ
khi thành lập đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, hội nhập kinh
tế với khu vực và thế giới ngày càng được khẳng định.
Năm 1991, Chính phủ đẫ ban hành nghị định 07/CP công bố: "Quy chế kiểm
toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân" và đến 11-7-1994, Chính phủ lại ban hành
nghị định 70/ CP về “Thành lập cơ quan kiểm toán Nhà nước, và 24-1-1995, Thủ tướng
Chính phủ ra quyết định 61/ TTG “Ban hành điều lệ tổ chức kiểm toán nhà nước". Đây
là những văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà nước khẳng định vị trí, vai trò và tạo hành
lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán. Chúng ta nhận thức được rằng, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đã thực sự trở thành một nghề, một
lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ độc lập.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, số người quan tâm
đến tình hình tài chính của doanh nghiệp đã mở rộng, cùng với sự quan tâm đến các
thông tin tài chính, họ cũng đòi hỏi các thông tin này phải dược cung cấp một cách chính
xác, song mỗi người lại quan tâm đến một lĩnh vực không giống nhau và với các mục
đích khác nhau. Để đáp ứng tất cả các yêu cầu về thông tin với các khía cạnh khác nhau,
kiểm toán cũng bao gồm nhiều loại hình khác nhau như:kiểm toán hoạt động, kiểm toán
tuân thủ, kiểm toán báo cáo tài chính.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, dưới hình thức
nhận tiền gửi và cho vay, cung cấp các dịch vụ tài chính khác, nhằm mục đích tìm kiếm


lợi nhuận và góp phần ổn định, phát triển nền kinh tế, thực hiện các mục tiêu của chính
sách tiền tệ.
Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, hoạt động của NHTM cũng cần phải
được kiểm toán bởi các chủ thể khác nhau. Hơn nữa kinh doanh ngân hàng là một lĩnh
vực đặc biệt nhạy cảm và có nhiều rủi ro, nên việc kiểm toán mà nhất là kiểm toán hoạt
động đối với NHTM càng là một yêu cầu cấp thiết, là chức năng chủ yếu của kiểm toán
nội bộ.
Kiểm toán nội bộ trong NHTM là một bộ phận hoạt động độc lập, nhằm kiểm tra
tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ và các mục tiêuquan trọng khác.
Nhận xét, đánh giá tính trung thực, chính xác của các thông tin kinh tế, các báo cáo tài
chính, giúp ban quản lý Ngân hàng có quyết định kinh doanh đúng đắn .
Kiểm toán nội bộ là cần thiết và vô cùng quan trọng, trong đó kiểm toán nội bộ
đối với hoạt động tín dụng là bộ phận kiểm toán chủ yếu của NHTM, vì hoạt động tín
dụng là hoạt động kinh doanhn chủ yếu có ảnh hưởng quyết định đến kết quả kinh doanh
của Ngân hàng.
Mục đích của kiểm toán tín dụng là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro
có thể xảy ra, góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ tài sản có của ngân hàng, bảo vệ
an toàn tài sản và ổn định hoạt động các ngân hàng thương mại.
Nhận thức về tầm quan trọng của kiểm toán, kiểm toán nội bộ nói chung và kiểm
toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại các NHTM nói riêng, trong thời gian thực tập
tốt nghiệp tại Chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, em đã chọn đề tài:
"Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm toán nội
bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa -Hà
Nội.
Nội dung khoá luận gồm 3 chương: (ngoài lời nói đầu và kết luận)

Chương 1:
Những vấn đề cơ bản về kiểm toán kinh tế và kiểm toán nội bộ trong
hoạt động ngân hàng thương mại.

Chương 2:
Thực trạng công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín
dụng tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa.
Chương 3:
Một số kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công
tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh
ngân hàng công thương Đống Đa.
Chương i
Những vấn đề cơ bản về kiểm toán kinh tế và kiểm toán nội bộ tronghoạt động
ngân hàng thương mại.
I. Cơ sở lý luận chung về kiểm toán
1. Sự hình thành và phát triển của toán trên thế giới và ở Việt nam.
Kiểm toán là hoạt động khá mới mẻ ở Việt Nam. Trên thế giới, kiểm toán đã xuất
hiện trong xã hội loài người từ rất lâu, vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên.
Thuật ngữ “Audit”có một ý nghĩa lịch sử và phù hợp với hoàn cảnh ra đời của nó, vào
thời kỳ đó chính quyền La-Mã đã tuyển dụng các quan chức chuyên môn để kiểm tra về
tình hình tài chính và thuyết trình lại kết quả kiểm tra này. Chính vì vậy từ “Audit” theo
tiếng La-Tinh có nghĩa là “người nghe” (one who hears). Kiểm toán đã dần hình thành
và gắn liền với sự phát trển của kế toán. Và trong suốt thời kỳ trung đại đến trước khi
cuộc cách mạng công nghiệp ra đời, kiểm toán thực sự chỉ giới hạn ở việc xác định xem
liệu cá nhân giữ trọng trách trong một tổ chức hoạt động kinh doanh hoặc trong chính
phủ có thực hiện đúng trách nhiệm và có báo cáo đúng sự thật không.
Trong suốt thời kỳ cách mạng công nghiệp, số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
tăng mạnh về quy mô, người chủ sở hữu vốn, tài sản bắt đầu phải đi thuê các nhà quản
lý cho các chi nhánh, cơ sở của mình.
Với sự tách biệt về chủ sở hữu và việc quản lý nên phải tăng cường kiểm tra để
bảo vệ tài sản của họ, nhằm chống lại nguy cơ sai phạm không chủ đích hoặc những
gian lận do người quản lý và nhân viên làm công gây ra. Các chủ nhà băng với tư cách

là người bên ngoài, sử dụng các báo cáo tài chính, khi cho vay tiền cũng chú ý đến việc

xem xét các báo cáo tài chính có bị lệch lạc do sai phạm và gian lận không?
Từ những năm 1930, sự phá sản của các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp trong
điều kiện khủng hoảng kinh tế, suy thoái về tài chính, là dấu hiệu chứng minh điểm yếu
của kế toán và kểm tra trước tình hình mới. Kiểm toán viên trở nên có trách nhiệm hơn
với các cơ quan chức năng của Chính phủ, Sở giao dịch chứng khoán, các nhà đầu tư
cũng như các bên khác sử dụng thông tin tài chính. Sự trung thực của báo cáo tài chính
trở thành vấn đề tiên quyết có tầm quan trọng to lớn trong qúa trình lựa chọn các quyết
định đầu tư tài chính.
Khi các doanh nghiệp ngày càng có quy mô lớn, ở Ca-na-da, Anh, Mỹ kiểm
toán viên bắt đầu thực hiện lựa chọn mẫu các nghiệp vụ hơn là kiểm tra các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh. Kiểm toán viên và các nhà quản lý dần dần đi đến một chấp nhận
chung mà một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng các nghiệp vụ theo chọn mẫu sẽ đưa ra các chỉ số
tin cậy, có hiệu quả về sự chính xác của các nghiệp vụ tương tự đã được phản ánh trong
các báo cáo tài chính.
ở Mỹ, sau cuộc khủng hoảng nặng nề về tài chính vào 1929, bắt đầu từ năm1934,
Uỷ ban bảo vệ và trao đổi tền tệ (SEC) đã được thành lập và quy chế về kiểm toán viên
bên ngoài bắt đầu có hiệu lực. Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên công chứng của
Mỹ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về baó cáo kiểm toán tài khoản của công ty
.
Từ những năm 1950, xuất hiện nhiều tổ chức kiểm toán của Chính phủ trong các
lĩnh vực quân đội, hành chính và các xí nghiệp công cộng. Một tổ chức quan trọng là
văn phòng kế toán trưởng (GAO: GERNERAL ACCOUNTING OFFICE) đã có vai trò
quyết định trong việc mở rộng phạm vi kiểm toán. Chuẩn mực GAO vào năm 1972 (rà
soát lại năm 1981), một mặt đã khẳng định lợi ích kiểm toán trong khu vực phi thương
mại, mặt khác đã khẳng định quan điểm chuẩn mực và phương pháp mới để đánh giá
hiệu quả của các nghiệp vụ phi thương mại.

Đạo luật về công ty thương mại của Pháp ngày 24-7-1966, đã xác định công việc
và các chuẩn mực hoạt động của kiểm toán viên bên ngoài một cách độc lập. Đồng thời,
kiểm toán viên nội bộ cũng đã xuất hiện một cách chính thức ở Pháp vào năm 1960.

Trong các Công ty, chi nhánh của các tập đoàn ngoại quốc và các tổ chức Ngân hàng và
được phát triển cùng với sự mở rộng quy mô của các công ty nhằm tăng cường sự ổn
định và hiệu quả của các xí nghiệp.
Năm 1965, hội kiểm soát viên nội bộ của Pháp được thành lập, sau trở thành viện
nghiên cứu của kiểm toán viên và kiểm soát viên nội bộ của Pháp (IFACI) vào năm
1973. Trong lĩnh vực công cộng, kiểm toán cũng có nhiều bước phát triển. Lúc đầu,
kiểm toán nằm trong Uỷ ban đối chiếu tài khoản của các xí nghiệp công, đến năm 1976,
Toà thẩm kế công bố đạo luật tài chính sửa đổi ngày 22-6-1976, giao việc đối chiếu các
tài khoản và quản lý các xí nghiệp công.
ở Việt Nam, kiểm toán còn là hoạt động rất mới mẻ. Khái niệm kiểm toán mới
chỉ được nhắc đến nhiều và sử dụng từ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20. Sau khi Việt Nam
chuyển đổi cơ chế kinh tế, kiểm toán độc lập đã được hình thành. Sau đó kiểm toán Nhà
nước cũng được thành lập. Tuy nhiên, tiền thân của hoạt động này là kiểm tra kế toán
đã có từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Ngày 23-111945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 64/SL thành lập tổ chức thanh tra đặc biệt trực thuộc Chính
phủ, tiếp đó là sắc lệnh 57/SL ngày 4-6-1946 quy định tổ chức bộ máy các bộ, mà trong
đó lập ra các ban thanh tra. Sắc lệnh 76/SL ngày 25-8-1946 về tổ chức bộ máy tài chính
và nha thanh tra tài chính thuộc bộ, khi đó đã quyết định nhiệm vụ của cơ quan tài chính.
Hoạt động kiểm toán ra đời và phát triển gắn liền với bước trưởng thành của kế
toán Việt Nam trong cơ chế thị trường. Năm 1989, trước nhu cầu biến đổi có tính chất
cách mạng trong cơ chế quản lý, cơ chế kinh tế của đất nước, sự thừa nhận một cách tất
yếu của nền sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường và một cách quản lý tương đối phù
hợp với nó, trong đó có việc sử dụng ngày càng hiệu quả các công cụ hạch toán và kiểm
tra, kiểm soát, chế độ kế toán mới đã được ban hành thay thế cho chế độ kế toán cũ đã
lạc hậu. Thực tế, từ năm 1989 đến năm 1990, Bộ tài chính kết hợp với một số ngành
hữu quan lần lượt cải tiến và ban hành một hệ thống các chế độ và văn bản pháp quy về

kế toán mới theo tinh thần kế thừa thành tựu của các chế độ kế toán trước đây. Tuy
nhiên, vẫn còn tồn tại một số nhược điểm của chế độ ban hành năm 1989, chưa bắt kịp
với tình hình phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Do vậy, sau một thời gian

soạn thảo, nghiên cứu và thử nghiệm, tháng 12-1995, Thủ tướng Chính phủ cho phép
Bộ tài chính ban hành hệ thống kế toán tài chính doanh nghiệp, hệ thống kế toán tài
chính này bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đồng thời
hoà nhập được thông lệ phổ biến của kế toán quốc tế, có tính đến điều kiện của Việt
Nam. Trong thời gian này, hệ thống kế toán ngân hàng, mà trước hết là kế toán của ngân
hàng Nhà nước cũng được đổi mới căn bản phù hợp với yêu cầu của Ngân hàng thế giới
(WORLD BANK-WB) và quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF). Trong điều kiện đó, kiểm toán
cũng có điều kiện xuất hiện như một tất yếu khách quan, công tác nội kiểm và kiểm toán
đã thể hiện những hạn chế lịch sử của nó, một chủ thể kiểm tra tách ra, đứng độc lập với
hệ thống tài chính, kế toán để giám định trở lại, qúa trình kiểm toán phải được hình thành
và phát triển theo đúng ý nghĩa, bản chất của nó, và cần có một hệ thống tổ chức thích
đáng.
Cho đến nay, hoạt động kiểm toán đã dần đi đúng quỹ đạo của nó và phát triển
rất mạnh ở hầu khắp các nước trên thế giới. Hiện nay, trên thế giới có những hãng kiểm
toán, liên đoàn, Hội kiểm toán xuyên Quốc gia như: cơ quan kiểm toán tối cao Châu á
( ASOSAI), cơ quan kiểm toán tối cao Quốc tế (INTOSAI), và INCOSAI, hoạt động nổi
tiếng vì đạt đến chuẩn mực nghiệp vụ, và kỹ năng nghề nghiệp trong kiểm toán. Việt
Nam đang trên con đường phát triển đất nước tiến tới hiện đại hoá - công nghiệp hoá,
công tác kiểm toán cần được tăng cường và phát huy vai trò của nó, việc học hỏi kinh
nghiệm kiểm toán của các tổ chức kiểm toán phát triển trên thế giới là một việc làm thiết
thực, đưa kinh tế Việt Nam phát triển, hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
2. Bản chất của kiểm toán.
- Khái niệm kiểm toán: Theo tác giả ALVIN AREN và JAMES K. LOE
Bbecker, phát biểu trong giáo trình kiểm toán hiện đại của mình: "Kiểm toán là quá trình
mà theo đó một cá nhân độc lập, có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về
các thông tin có thể định lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể, nhằm mục

đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng đó với các chuẩn
mực đã được thiết lập ".
Còn theo liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC) đã định nghĩa: “Kiểm toán là việc

các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về bản báo cáo tài
chính”.
- Theo quan điểm chung nhất về kiểm toán, thể hiện tính đầy đủ về kiểm
toán của các nhà kiểm toán chuyên nghiệp thế giới như sau: "Kiểm toán là một chức
năng quản lý, là một quá trình mà trong đó, các kiểm toán viên có thẩm quyền, những
người được đào tạo để có trình độ thích hợp, tiến hành một cách độc lập việc thu thập,
xác minh, đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng liên quan đến các hoạt
động kinh tế - tài chính của một đơn vị và tổ chức kinh tế, nhằm xác định và báo cáo
mức độ phù hợp của các thông tin số lượng đó với các chuẩn mực về kinh tế, về tài chính
và kế toán đã được thiết lập và được pháp luật thừa nhận”.
- Từ định nghĩa trên đây, ta đi phân tích một số cụm từ chủ yếu để nói lên
bản chất của kiểm toán .
+ Thông tin số lượng và chuẩn mực đã được xây dựng:
Thông tin số lượng có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức như: thông tin định
lượng, thông tin về báo cáo tài chính của một công ty, lượng thời gian mà một công nhân
cần để hoàn thành nhiệm vụ được giao, tổng chi phí theo một hợp đồng xây dựng của
Nhà nước và bản khai thuế cá nhân có thể tiến hành kiểm toán được.
Chuẩn mực để đánh giá thông tin số lượng cũng là những nguyên tắc, thể lệ, quy
định pháp luật, chuẩn mực kế toán, các chuẩn mực được chọn sẽ sử dụng phụ thuộc vào
các mục tiêu của cuộc kiểm toán.
+ Tổ chức kinh tế: đối tượng kiểm toán của các kiểm toán viên bao giờ cũng được
xác định, đó là phải kiểm toán tổ chức kinh tế nào, trong hầu hết các trường hợp tổ chức
kinh tế cũng là những pháp nhân như: một Công ty cổ phần, một Ngân hàng thương mại,

tuy nhiên cũng có trường hợp là cá nhân, các phân xưởng Vì vậy kiểm toán viên cần
phải xác định đơn vị, tổ chức kinh tế được kiểm toán là ai để có phương pháp và cách
thức kiểm toán phù hợp.
- Thu thập và đánh giá bằng chứng:
Bằng chứng được định nghĩa là mọi tài liệu thông tin mà kiểm toán viên đã sử
dụng làm cơ sở để xác định xem thông tin số lượng đang được kiểm toán có được trình

bày phù hợp với các chuẩn mực đã xây dựng hay không. Bằng chứng được tồn tại dưới
nhiều hình thức, có thể là những thông tin, lời khai của chính đối tượng được kiểm toán,
cũng có khi là của bên ngoài, và có thể là nhận xét của kiểm toán viên.
Việc thu thập đủ số lượng, chất lượng bằng chứng là rất quan trọng để thoả mãn
các mục đích kiểm toán. Quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng phù hợp với các
chuẩn mực đã xây dựng rất cần thiết của mọi cuộc kiểm toán .
- Cá nhân độc lập có đủ khả năng chuyên môn và thẩm quyền:
Tính độc lập là tiên quyết phải được đảm bảo khi kiểm toán. Mặc dù tính độc lập
chỉ là tương đối song nó phải là mục tiêu hướng tới của kiểm toán viên. Kết quả kiểm
toán thực sự không có ý nghĩa nếu một cá nhân có đủ thẩm quyền mà không vô tư thu
thập chứng cứ. Ngược lại, một kiểm toán viên phải có đủ thẩm quyền để được phép
trong bất kỳ trường hợp nào cũng có thể kiểm toán.
- Báo cáo: Khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán là báo cáo kiểm
toán - bản thông báo về các phát hiện cho người đọc báo cáo.
Báo cáo có thể khác nhau về hình thức, bản chất, trong mọi trường hợp chúng
đều phải thông tin cho người đọc về mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng và
chuẩn mực đã xây dựng. Để hiểu một cách đầy đủ và toàn diện hơn về bản chất của
kiểm toán. Hãy đi phân tích mối quan hệ và sự khác nhau căn bản của kiểm toán trong
mối quan hệ với kế toán, thanh tra.
* Mối quan hệ giữa kiểm toán với kế toán.

- Kế toán: là quá trình ghi sổ, phân loại và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế
một cách có hệ thống, nhằm mục đích cung cấp thông tin tài chính cho quá trình ra
quyết định.
Kế toán - với tư cách là một công cụ để quản lý nền tài chính Quốc gia nói chung
và công tác tài chính trong một doanh nghiệp , một tổ chức kinh tế nói riêng, hạch toán
kế toán đã đem lại những tác dụng to lớn trong việc tăng thu nhập, tiết kiệm chi phí trong
quản lý kinh doanh, kinh tế tài chính có hiệu quả.
Chức năng của hạch toán kế toán là cung cấp thông tin số lượng một số loại nhất
định mà nhà quản lý và những người khác có thể sử dụng để ra quyết định.

- Mặc dù các thông tin kinh tế mà hạch toán kế toán đã đưa ra là cơ sở cho
việc ra quyết định của chủ doanh nghiệp, cơ sở cho việc hoạch định và thực thi các
chính sách kinh tế, cơ sở cho các bộ phận bên ngoài doanh nghiệp quan tâm để ra
quyết định kinh doanh. Song thông tin nào là đúng đắn, là có căn cứ, có độ chính xác
cao, điều này lại hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán
Nhà nước, kiểm toán nội bộ cũng như hệ thống kiểm toán độc lập. Điều này để lên
giữa kiểm toán và kế toán có mối quan hệ hữu cơ với nhau, ở chỗ, nếu kế toán là quá
trình ghi chép, phản ánh, tổng hợp và phân tích các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thì
kiểm toán lại là quá trình phân tích, nhận định, đánh giá, kiểm định, kết luận về độ
chính xác của các thông tin đó. Xét trên một khía cạnh nào đó của mối quan hệ này thì
nhận thấy rằng: sẽ không có quá trình kiểm toán nếu không có kế toán, mặt khác
những thông tin mà kế toán đã đưa ra thông qua quá trình hạch toán các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh không được kiểm toán viên kiểm tra, xác nhận tính trung thực, đúng
đắn thì những thông tin ấy chưa hẳn đã đảm bảo tính pháp lý, hợp thức cao của nó.
Hiện nay, hoạt động kiểm toán còn rất mới mẻ cho nên việc lầm lẫn giữa hai khái
niệm này là không thể tránh khỏi. Vì vậy thông qua quá trình nghiên cứu và phân tích
có hệ thống, có khoa học thì sẽ đảm bảo được sự hiểu biết chính xác về hai loại công
cụ quản lý kinh tế này.
* Sự khác biệt giữa kiểm toán với thanh tra:

Mặc dù hai hoạt động: thanh tra, kiểm toán đều là một trong những yếu tố cấu
thành sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước, có chức năng kiểm tra, kiểm soát, xác nhận
sự đúng đắn trong hoạt của đối tượng kiểm tra, tuy nhiên về cách thức tổ chức hoạt động
và về bản chất cơ bản là khác nhau, cụ thể:
- Về cách thức tổ chức:
+ Thanh tra: hệ thống thanh tra kế toán tài chính được tổ chức theo ngành dọc từ
Trung ương đến địa phương và gắn liền với các tổ chức tài chính, gồm:
./ Thanh tra Nhà nước: là cơ quan của Chính phủ.
./ Thanh tra tài chính: là một ban từ Trung ương xuống địa phương và nằm trong
ngành tài chính.

./ Trong tổ chức của Đảng và công đoàn cũng có hệ thống kiểm tra từ Trung ương
đến địa phương nằm trong các tổ chức đó.
./ Thanh tra của các ngành quản lý.
+ Kiểm toán: hệ thống kiểm toán được tổ chức theo hướng tập trung thống nhất,
bao gồm:
./ Hệ thống kiểm toán Nhà nước với mục đích là kiểm tra tài chính công, trong
đó chủ yếu kiểm tra tính đúng đắn, hợp pháp của các hoạt động thu, chi ngân sách và
chi tiêu tài chính do ngân sách cấp, qua đó xác nhận số liệu báo cáo làm cơ sở cho các
cấp thanh quyết toán, thu chi ngân sách.
./ Hệ thống kiểm toán độc lập: cung cấp các dịch vụ kiểm toán theo yêu cầu của
khách hàng với nhiều mục đích khác nhau. hoạt động của kiểm toán độc lập có tác dụng
lớn giúp cho các đơn vị thực hiện tốt công tác tài chính kế toán, đảm bảo tính khách
quan, trung thực của số liệu, tài liệu kế toán và quyết toán.

./ Hệ thống kiểm toán nội bộ: là việc kiểm toán trong nội bộ từng ngành, từng
đơn vị do bộ máy kế toán của ngành, đơn vị tiến hành đối với các đơn vị và bộ phận trực
thuộc nhằm đảm bảo yêu cầu quản lý và hạch toán của bản thân ngành và đơn vị.
-Về mặt bản chất:
Xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ chính:
+ Thanh tra:
./ Kiểm tra nghiêm ngặt việc chấp hành chính sách, luật lệ, chế độ tài chính Nhà
nước tại các cơ quan chính quyền, các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, các doanh
nghiệp tư nhân, hợp tác xã, các tổ chức đoàn thể, trên cơ sở đó nhanh chóng phát hiện
các vụ việc vi phạm, sai phạm, tham ô, lãng phí vật tư tài sản, tiền vốn của Nhà nước để
trình các cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm minh, đảm bảo kỷ cương phép nước trong
hoạt động kinh doanh, hoạt động kinh tế - xã hội, làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp,
và tài chính Quốc gia.
./ Điều tra công việc, vụ việc có liên quan đến các vấn đề về tài chính kế toán
trước khiếu nại, khiếu tố của công dân, hoạt động chủ yếu của thanh tra là thanh tra theo
vụ việc.

./ Lập các biên bản nhằm chấn chỉnh công việc tài chính kế toán của các đơn vị,
ngành, cơ quan các cấp.
+ Kiểm toán: nội dung trực tiếp của kiểm toán là phân tích và nghiên cứu thực
trạng tình hình tài chính kế toán của đối tượng kiểm toán, từ đó đi đến xác minh, kết
luận mang tính thuyết phục làm cho những người quan tâm có sự tin tưởng vào những
kết luận kiểm toán.
Như vậy, về mặt bản chất kiểm toán không phải là thanh tra nhưng thanh tra,
kiểm tra lại là chức năng cơ bản của kiểm toán. Nếu thanh tra được tiến hành theo vụ
việc, theo yêu cầu thì kiểm toán là hoạt động có tính chất thường xuyên hơn, mọi công
việc kiểm toán đều được tổ chức theo một trình tự khái quát từ việc chuẩn bị, đến lập kế

hoạch và thực hiện kiểm toán, và được thực hiện bởi những kiểm toán viên trong hệ
thống bộ máy kiểm toán.
Mặc dù việc thực hiện các biện pháp quản lý sai phạm không thuộc chức năng,
nhiệm vụ của kiểm toán, nhưng chức năng kiểm tra, xác nhận, đánh giá và kết luận về
đối tượng kiểm toán lại xác lập cho hoạt động kiểm toán tính độc lập, chủ động và khách
quan rất cao. Từ đó có những kiến nghị thoả đáng với cấp có thẩm quyền để có quyết
định đúng đắn trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh.
3. Vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động của bất kỳ một Quốc gia, một tổ chức kinh tế nào đều nhằm tiến tới
sự hoàn thiện và sự phát triển cao , tuy nhiên đây là một lý tưởng, bởi lẽ sự biến động
của môi trường kinh tế - xã hội là tất yếu xảy ra và có tác động tích cực hay tiêu cực tới
kết quả hoạt động của quốc gia, của tổ chức kinh tế đó.
Nói như vậy để khẳng định rằng, những kết quả và những hậu quả của một quá
trình hoạt động và phát triển của một pháp nhân, một chủ thể kinh tế là tất yếu. Sự thất
thoát tài sản, sự xụp đổ một chế độ, đổ vỡ chiến lược kinh doanh và những thành tựu
kinh tế đạt được là hai mặt đối lập luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Vấn đề đặt ra
là, làm thế nào để hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra đối với các chủ
thể kinh tế trong hoạt động và phấn đấu trên con đường tiến tới mục đích của mình.
Câu hỏi này được đặt ra không chỉ đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

mà là vấn đề quan tâm chung của toàn xã hội. Nhận thức được điều này, các nhà quản
lý và hoạch định chính sách kinh tế ở tầm Quốc gia và xuyên Quốc gia đã xây dựng và
áp dụng các công cụ quản lý kinh tế - xã hội. Trong đó, kiểm toán là một công cụ quan
trọng không thể thiếu trong hệ thống các công cụ quản lý nền tài chính, tiền tệ, ổn định
chính trị xã hội Quốc gia, Quốc tế.

Nhìn vào hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, tiền tệ ở khu vực Đông
Nam á, nhiều nhà kinh tế, đặc biệt là các chuyên gia kinh tế của ngân hàng phát triển
Châu á, ngân hàng thế giới, đã đưa ra một số nhận định liên quan đến công tác quản lý
và tổ chức hoạt động của các công ty kiểm toán. Họ cho rằng các doanh nghiệp có thị
trường xuất khẩu lớn ở hầu hết các nước thuộc khu vực Đông Nam á, do bị mất thị phần
dẫn đến doanh thu giảm và lâm vào tình trạng khủng hoảng về tài chính nhưng đã không
3.1.1. Thang đo
Đề tài này nghiên cứu về sự thỏa mãn công việc của nhân viên văn phòng, đây là
một dạng nghiên cứu thái độ của con người về một khía cạnh nào đó trong cuộc sống.
Để xem xét đánh giá được thái độ của người trả lời, trong trường hợp này là sự thỏa mãn
công việc thì người nghiên cứu có thể lựa chọn hai dạng câu hỏi trong bảng câu hỏi của
mình. Dạng câu hỏi đầu tiên là câu hỏi dạng mở, nghĩa là người trả lời có thể tùy theo ý
kiến của mình mà trả lời về cảm nhận của họ về sự thỏa mãn công việc của họ. Dạng
câu hỏi thứ hai là dạng câu hỏi đóng, nghĩa là người thiết kế bảng câu hỏi sẽ đưa ra luôn
những lựa chọn trả lời với các tuyên bố về thái độ của người trả lời như hoàn toàn đồng
ý, đồng ý, không chắc, không đồng ý, hoàn toàn không đồng ý.
Ví dụ thay vì hỏi câu hỏi dưới dạng về mở “Anh/ chị cảm thấy lương của mình
nhận được từ công ty như thế nào?” thì ta có thể hỏi câu hỏi dưới dạng đóng “Mức lương
của anh/chị hiện nay là phù hợp với năng lực và đóng góp của anh/ chị đối với công ty”
kèm theo năm lựa chọn trả lời là: hoàn toàn đồng ý, đồng ý, không ý kiến, không đồng
ý và hoàn toàn không đồng ý. Với dạng câu hỏi đầu tiên, chúng ta sẽ nhận được các câu
trả lời khác nhau và hầu như là mỗi người trả lời một cách. Điều này khiến ta không
kiểm soát được câu trả lời của họ và cũng khó có thể lượng hóa hay rút ra được một kết
luận chung về vấn đề mức lương của họ. Với dạng câu hỏi thứ hai và với câu trả lời có

sẵn, khi nhận được câu trả lời chúng ta sẽ thấy được rõ hơn về đánh giá của người trả
lời đối với mức lương của họ hiện nay.
Như vậy sử dụng câu hỏi đóng trong nghiên cứu thái độ nói chung là thuận lợi
hơn. Ngoài ra, vì một trong những mục tiêu của đề tài này là tìm hiểu, xác định mức độ
thỏa mãn công việc nên việc sử dụng câu hỏi dạng đóng với các lựa chọn trả lời dạng
thang đo Likert là phù hợp nhất. Với câu trả lời của người trả lời dưới dạng thang đo

này, ta sẽ thấy được sự thỏa mãn công việc của người nhân viên ở từng khía cạnh, từng
nhân tố trong công việc ở mức thỏa mãn hay không thỏa mãn và ở mức độ nhiều hay ít
(đối với Likert năm và bảy mức độ). Đồng thời, vì thang đo Likert là thang đo khoảng
nên ta có thể sử dụng số liệu thu thập được để xử lý, phân tích định lượng để xác định
mối quan hệ tương quan, quan hệ tuyến tính giữa các biến nói chung, cũng như giữa các
biến độc lập và biến phụ thuộc.
Tuy nhiên để đảm bảo tính phù hợp của thang đo, theo Kumar (2005) cần giải
quyết hai vấn đề sau:
- Ai là người quyết định thang đo nào được sử dụng để đo lường cái cần đo?
- Làm thế nào để biết được một công cụ nào đó phù hợp dùng để được cái cần đo?
Câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất chính là các nhà nghiên cứu chuyên gia trong
lĩnh vực liên quan. Đối với đề tài này đó là các nhà nghiên cứu về sự thỏa mãn công
việc. Đó là Smith, Kendall và Hullin, những người đã dùng thang đo Likert để đo lường
sự thỏa mãn công việc của người lao động ở năm nhân tố gồm bản chất công việc, tiền
lương, thăng tiến, đồng nghiệp, và sự giám sát của cấp trên. Đề tài nghiên cứu này về cơ
bản cũng sử dụng thang đo Likert để đo lường sự thỏa mãn công việc của nhân viên.
Tuy nhiên, một số nhân tố được thay đổi chút ít về tên gọi cũng như nội dung. Nhân tố
‘tiền lương’ được đổi thành ‘thu nhập’, nhân tố ‘thăng tiến’ được đổi thành ‘đào
tạo thăng tiến’. Việc lấy tên mới trên nhằm mở rộng và bao quát hóa các nhân tố của sự
thỏa mãn công việc. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu của các chuyên gia và các nhà
nghiên cứu khác trong lĩnh vực này và xem xét tình hình cụ thể ở Việt Nam, hai nhân tố
khác cũng theo thang đo Likert là điều kiện làm việc và phúc lợi công ty đã được thêm
vào để xem xét và kiểm định tính phù hợp của nó.

Câu hỏi thứ hai rất quan trọng, có hai phương pháp để tạo dựng nên tính phù
hợp của một công cụ nghiên cứu, đó là dùng lập luận logic và dùng bằng chứng thông
kê. Rõ ràng dùng phương pháp thứ hai thì thuyết phục hơn. Trong thực tế từ các
nghiên cứu liên quan đến sự thỏa mãn công việc thì thang đo Likert đã được các nhà
nghiên cứu sử dụng rộng rãi và thừa nhận tính phù hợp của nó.

Về độ tin cậy của công cụ đo lường, hệ số alpha của Cronbach sẽ được sử dụng
để kiểm định độ tin cậy của các biến (câu hỏi) được sử dụng trong bảng câu hỏi. Ngoài
ra, phân tích nhân tố cũng được tiến hành để kiểm định tính đơn khía cạnh của các câu
hỏi trong nhóm thuộc từng khía cạnh (nhân tố).

Bảng 3-1 Các thang đo được sử dụng trong bảng câu hỏi nghiên cứu
Nhân tố
Biến
Thang đo
Thông tin cá nhân

Thông tin phân loại
nhân viên
Họ tên
Định danh
Email
Định danh
Giới tính
Định danh
Năm sinh
Tỷ lệ
Thời gian bắt đầu làm việc
Tỷ lệ
Trình độ học vấn

Cấp bậc
Vị trí công việc
Cấp bậc
Loại hình doanh nghiệp
Định danh
Thông tin về sự thỏa mã n từng khía cạnh chi tiết trong công việc

Đánh giá chi tiết về mức
độ thỏa mãn ở từng khía
cạnh của công việc
Các chỉ số đánh giá về thu nhập
Likert 5 mức độ
Các chỉ số đánh giá về đào tạo thăng tiến
Các chỉ số đánh giá về cấp trên

Các chỉ số đánh giá về đồng nghiệp

Các chỉ số đánh giá về đặc điểm công việc
Các chỉ số đánh giá về điều kiện làm việc
Các chỉ số đánh giá về phúc lợi công ty
Thông tin về sự độ thỏa mãn của từng nhân tố

Đánh giá chung về mức
độ thỏa mãn công việc
Hài lòng về thu nhập
Likert 5 mức độ
Hài lòng về đào tạo thăng tiến
Hài lòng về cấp trên
Hài lòng về đồng nghiệp


Hài lòng về đặc điểm công việc
Hài lòng về điều kiện làm việc
Hài lòng về phúc lợi công ty
3.1.2. Chọn mẫu
3.1.2.1. Tổng thể
Tổng thể của khảo sát này là toàn bộ nhân viên văn phòng làm việc tại TP.HCM.
Như đã định nghĩa ở phần mở đầu của đề tài, nhân viên văn phòng trong nghiên
cứu này sẽ bao gồm toàn bộ những người làm việc ăn lương, tức không phải làm chủ
doanh nghiệp, hầu hết thời gian làm việc của họ là ở trong văn phòng, nơi công tác có
thể là các tổ chức, công ty, chi nhánh, văn phòng đại diện, phòng giao dịch, v.v. đặt tại
TP.HCM. Như vậy, tổng thể của khảo sát này là tất cả những người thỏa đủ ba đặc điểm
là nhân viên văn phòng, làm công ăn lương và nơi làm việc là TP.HCM.
3.1.2.2. Phương pháp chọn mẫu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra ở phần mở đầu của đề tài, thiết kế
chọn phi xác suất với hình thức chọn mẫu ngẫu nhiên thuận lợi đã được sử dụng và được
xem là hợp lý để tiến hành nghiên cứu đề tài này. Lý do để lựa chọn phương pháp chọn
mẫu này vì người trả lời dễ tiếp cận, họ sẵn sàng trả lời bảng câu hỏi nghiên cứu cũng
như ít tốn kém về thời gian và chi phí để thu thập thông tin cần nghiên cứu.
Theo Cooper và Schindler (1998), lý do quan trọng khiến người ta sử dụng
phương pháp chọn mẫu phi xác suất là tính tiết kiệm về chi phí và thời gian. Về mặt này
thì phương pháp chọn mẫu phi xác suất vượt trội so với chọn mẫu xác suất. Ngoài ra,
hai tác giả cũng nhắc nhở rằng chọn mẫu xác suất không phải lúc nào cũng đảm bảo tính
chính xác và trong một số trường hợp chọn mẫu xác suất là không thể thực hiện được.
Tuy nhiên hai tác giả này cũng khẳng định nhược điểm lớn nhất của phương pháp chọn
mẫu phi xác suất là sự chủ quan thiên vị trong quá trình chọn mẫu và sẽ làm méo mó
biến dạng kết quả nghiên cứu. Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thị Cành (2007) cho rằng chọn
mẫu phi xác suất là dễ phác thảo và thực hiện nhưng nó có thể cho kết quả sai lệch bất
chấp sự phán đoán của chúng ta, do ngẫu nhiên nên có thể chúng không đại diện cho
tổng thể.


Vì đây là nghiên cứu khám phá cùng với phân tích như trên, phương pháp chọn
mẫu phi xác suất với hình thức chọn mẫu thuận tiện là phù hợp nhất. Các bảng câu hỏi
nghiên cứu sẽ được gửi trực tiếp đến bạn bè, người quen để trả lời đồng thời cũng nhờ
những người này gửi cho bạn bè của họ để trả lời thêm cho đến khi đạt được số lượng
mẫu cần thiết.

+ Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của các thông tin kinh tế, tài chính
của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị doanh nghiệp trước khi trình ký duyệt và
công bố.
+ Kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh
đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, các chính sách, chế độ kế toán, các nghị quyết, quyết định
của hội đồng quản trị, Ban Giám đốc của tổ chức kinh tế đó.
+ Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý và trong bảo vệ tài sản,
đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý điều hành kinh doanh
của doanh nghiệp.
Phụ lục các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam và bảng kê phận loại kiểm
toán.
Các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam.
Công ty 100% vốn
nước ngoài.
Công ty liên doanh
Công ty của Việt Nam
Nhà nước
Trách nhiệm hữu hạn

-ERNZT and
YOUNG (E&Y-
1991).
-KPMG(1993)
-PRICE

WATERHOUSE
(1993)
-ARTHUR
ANDESEN(1995)
-VACO-DTTI (1995-
1997)
-C&L&AISC (1995)
VACO (1991)
-AASE (1991).
-AFSC (1994).
-DAC (1994).
-HALO CO
-Công ty Thuỷ
Chung.
-HBP.
-Hoaàng gia.
Phân biệt các loại kiểm toán.
Chỉ tiêu
Kiểm toán
Nhà nước
Kiểm toán
độc lập
Kiểm toán nội bộ
Chủ thể tiến hành
Cơ quan kiểm toán
Nhà nước
Công ty kiểm
toán
Bộ phận kiểm toán
trong doanh nghiệp, tổ

chức kinh tế,tổ chức tín
dụng
Kiểm toán viên
Viên chức Nhà nước
Hành nghề độc
lập.
Công nhân viên của
doanh nghiệp, cơ quan.
Đối tượng kiểm
toán chủ yếu
Kiểm toán tuân
thủ,kiểm toán hoạt
Kiểm toán báo
cáo tài chính.
Kiểm toán hoạt động.

×