Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Khủng hoảng ở Mỹ.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 40 trang )

Tác động tiêu cực không quá mạnh
21/09/2008 10:53
Cần thận trọng trong chiến lược đầu tư
(HNM) - Thị trường chứng khoán Việt Nam tuần qua đón nhận hàng loạt tin dữ đến từ nước Mỹ khi những tên tuổi lừng danh phố U-
ôn lần lượt bị nhấn chìm trong khủng hoảng.

Ngày 16-9, thị trường tài chính toàn cầu rung chuyển dữ dội bởi dư chấn từ “trận động đất” mang tên Lehman Brothers và cú sốc Merrill
Lynch. “Đại gia” bảo hiểm Mỹ AIG- nơi cung cấp hàng trăm tỷ USD tiền vốn cho các ngân hàng cũng rơi vào cảnh đường cùng và chênh vênh
trên bờ vực sụp đổ. Chính phủ Mỹ đã buộc phải ra tay cứu AIG nhằm ngăn chặn cuộc khủng hoảng dây chuyền làm sụp đổ thêm các thị
trường tài chính thế giới.

Các nhà đầu tư nên cẩn trọng khi thị trường chứng khoán đang trong thời gian biến động. ảnh: Linh Tâm

Nội lực vẫn là yếu tố quyết định

Trên thị trường tài chính thế giới, một cuộc đổ vỡ dây chuyền đã không xảy ra. TTCK Á - Âu đã tăng điểm trở lại, giới đầu tư đã phần nào
được trấn an sau khi Tập đoàn Bảo hiểm Mỹ AIG được Chính phủ nước này cứu nguy. Ngoài Ngân hàng trung ương Mỹ, các ngân hàng quốc
gia của những nước khác trong những ngày qua cũng đã đổ hàng tỷ đô la, euro hoặc yên vào các hệ thống ngân hàng để cố làm dịu sự tụt
dốc của chứng khoán. Theo báo New York times, tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đối với các ngân hàng châu Á không lớn như với
các ngân hàng Mỹ và châu Âu. Điều này được phản ánh trên thị trường ngoại hối, nơi đồng yên Nhật được xem là một chiếc phao an toàn so
với đồng USD. Hiện giá đồng yên đang tăng mạnh so với đồng USD.

Những chấn động của thị trường tài chính Mỹ và thế giới phần nào có ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và TTCK nói riêng vì 2
lý do chủ yếu. Thứ nhất là Việt Nam đã hội nhập vào kinh tế thế giới, vì vậy các biến động cũng như những điều chỉnh chính sách kinh tế từ
Mỹ đều ảnh hưởng đến Việt Nam rõ ràng và nhanh hơn trước. Thứ hai, TTCK nước ta đang có sự tham gia rất quan trọng của các quỹ đầu tư
quốc tế. Tính đến thời điểm này, có khoảng 70 quỹ đầu tư lớn nhỏ thực hiện giải ngân trên TTCK Việt Nam. Rất nhiều quỹ đầu tư được thành
lập và huy động vốn để đầu tư vào thị trường tài chính Việt Nam, đặc biệt là các lĩnh vực “nóng” như OTC và thị trường cổ phiếu niêm yết.
Khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ khiến các luồng đầu tư trên thế giới bị ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam. Các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ khó huy
động vốn hơn hoặc họ sẽ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi những thị trường lớn của họ đang có vấn đề. Luồng tiền
đầu tư nóng vào Việt Nam cũng có thể bị ảnh hưởng và có khả năng sẽ chảy ngược ra nếu tình hình tài chính thế giới tiếp tục xấu đi.


Tuy nhiên, theo nhận định chung của nhiều chuyên gia, mặc dù TTCK Việt Nam có liên thông với thị trường thế giới nhưng những tác động
của thị trường tài chính của Mỹ cũng như của thế giới đến Việt Nam là không quá mạnh và trực tiếp. Mặc dù phải có thời gian nhất định, tâm lý
thị trường mới có thể bình ổn lại được nhưng thời điểm khủng hoảng nhất của TTCK Việt Nam đã qua. Có thể nói, những thay đổi của chỉ số
VN-Index thường không liên quan trực tiếp đến những thay đổi của các TTCK quốc tế. Ví dụ rõ nhất là thời điểm tháng 5, 6 vừa qua, khi
chứng khoán thế giới phục hồi mạnh thì VN-Index vẫn cứ rơi thảm hại. Ở đây, yếu tố quan trọng và quyết định nhất vẫn là nội tại của nền kinh
tế Việt Nam.

Thời điểm cần thận trọng trong chiến lược đầu tư

Ảnh: Hồng Vĩnh

Nhận định về thị trường của số đông các chuyên gia là: Lạc quan song cần cẩn trọng. Lạc quan ở chỗ tình hình kinh tế vĩ mô vẫn đang diễn
biến theo chiều hướng tích cực, những tác động của lạm phát đang lắng dịu. Giá dầu đã được điều chỉnh giảm. Hệ thống ngân hàng cũng đã
ổn định trong hoạt động tín dụng và thanh khoản... Đây chính là nền tảng để TTCK tăng trưởng trong trung và dài hạn. Chỉ số giá tiêu dùng
tháng 9 sắp được công bố và dự báo là tích cực hơn so với tháng trước. Những thông tin khả quan về kết quả kinh doanh của nhiều DN niêm
yết quý III cũng sẽ là một cú hích cho thị trường hồi phục. Theo một số chuyên gia chứng khoán, có nhiều lý do để tin rằng chúng ta không rơi
vào khủng hoảng như các NĐT đang lo ngại. TTCK Việt Nam tuy có sự tham gia của các tổ chức đầu tư nước ngoài nhưng quy mô đầu tư còn
khiêm tốn so với các thị trường khác. Các tên tuổi lớn như Lehman Brothers, Merrill Lynch hầu như chưa đầu tư vào TTCK Việt Nam hoặc chỉ
ở quy mô nhỏ mang tính thăm dò. Bên cạnh sự lạc quan, những yếu tố cần cẩn trọng là tình hình kinh tế - xã hội nước ta vẫn đang phải đối
mặt với không ít thách thức lớn như: môi trường kinh doanh gặp khó khăn; thị trường vốn chưa vững chắc; nhập siêu còn cao; sản xuất đang
chậm lại; việc thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ tiếp tục tác động đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Bên cạnh đó tình hình lũ lụt,
dịch bệnh đang có những diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn đối với nền kinh tế.

Các chuyên gia khuyến cáo NĐT cần hết sức bình tĩnh trong bối cảnh hiện nay. Có thể nói đây chính là thời điểm cần cân nhắc trong chiến
lược đầu tư đối với những NĐT dài hạn cũng như những nhà đầu cơ.
Theo dòng sự kiện cuộc khủng hoảng tài chính 2008
21:07' 03/10/2008 (GMT+7)
Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ cuối năm 2007 và năm 2008 đột nhiên lâm vào một trong những cuộc khủng hoảng chưa từng
có. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan. Sự lây lan vẫn chưa chấm dứt, hậu quả vẫn chưa lường hết. VietNamNet xin tóm tắt lại diễn tiến cuộc
khủng hoảng tồi tệ nhất trong gần 80 năm qua để bạn đọc theo dõi.

Cập nhật sự kiện:
Ngày 8/10: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu
Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng
của cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930.
>>> Toàn cảnh khủng hoảng tài chính Mỹ 2008
Cuộc khủng hoảng đã lan ra khỏi nước Mỹ (ảnh minh họa: AP,
NYT, Yahoo Finance)
* Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân
hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới
chuẩn ở Mỹ.
* Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu
trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.
* Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân
hàng cho vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.
* Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và
trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
* Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các
phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao
dịch ở Sydney.
Những người phản đối kế hoạch giải cứu tại Phố Wall. (Ảnh:
Foxbusiness)
* Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại
Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
* 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do
những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
* 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
* 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị
tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
* 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu.
* 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ

USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.
* 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng
lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
* 31/7/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD.
Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
* 7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp
Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ.
* 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
Các nhân viên của Lehman Brothers. (Ảnh: foxbusiness)
* 14/9/208: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cp sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers
* 15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9
năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American International
Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.
Tập đoàn AIG. (Ảnh: Foxbusiness)
* 16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng
thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào
AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
* 17/9/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban
Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống.
* 19/9/2008: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp
khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính.
* 20-21/9/2008: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành
tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.
* 22/9/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng
mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.
* 23/9/2008: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và
Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.
* 25/9/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường
cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản
kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn

nhất trong lịch sử Mỹ.
Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ
USD.
WaMu - một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ
cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp.
(Ảnh: Foxbusiness)
* 29/9/2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công
nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
* 1/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo
luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ
quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD.
* 3/10/2008: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần thứ hai và thông qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171. Không đầy
2 giờ sau đó, Tổng thống Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật.
* Ngày 4/10/2008: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp thượng đỉnh khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh Châu Âu là
Anh, Pháp, Đức và Ý. Phiên họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng hoảng, nhưng không thống nhất được một gói giải pháp tổng thể theo mô hình
của Mỹ.
* Ngày 5/10/2008: Mặc dù Thủ tướng Đức Angela Merkel đã chỉ trích quyết định của Ireland tuần trước về bảo hiểm toàn bộ các tài khoản ngân hàng tại
Ireland, ngày Chủ nhật 5/10 Bộ trưởng Tài chính Đức đã thông báo tất cả các tài khoản tiền gửi ngân hàng tại Đức sẽ được bảo hiểm không có giới hạn.
* Ngày 6/10/2008: Trong đêm Chủ nhật 5/10, ngân hàng BNP Paribas SA của Pháp gửi email thông báo đã thỏa thuận chi 14,5 tỷ Euro (tương
đương 19,8 tỷ USD) để mua lại ngân hàng Fortis, trong đó có 9 tỷ Euro bằng cổ phiếu và 5,5 tỷ Euro bằng tiền mặt. BNP sẽ sở hữu 75% Fortis
tại Bỉ, 67% Fortis tại Luxembourg, và toàn bộ mảng bảo hiểm của Fortis tại Bỉ.
* Ngày 8/10/2008: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và
4 ngân hàng trung ương các nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tồi
tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930.
(Tiếp tục cập nhật...)
• Hà Linh (Tổng hợp từ Thomson Financial, Cbs3, Foxbusiness
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đi về đâu?
Lao Động Điện tử Cập nhật: 8:12 AM, 17/09/2008
(LĐĐT) - LTS: TS Vũ Quang Việt (Cục Thống kê
LHQ - New York) gửi đến Lao Động những phân tích

về nguyên nhân và các diễn tiến
hoảng tài chính hiện nay tại Mỹ đồng thời chỉ rõ
những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này đến kinh
tế toàn cầu và những lưu ý đối với Việt Nam.
Sau khi cứu Bear Stearns, Fed đã phải dồn dập cứu
Fannie Mae và Fredie Mac tuần trước, và hiện nay là
Lehman, Merrill Lynch, hai công ty tài chính lớn số 4
và số 3 của Mỹ, và công ty AIG, một công ty bảo
hiểm lớn nhất Mỹ.
Số tiền bỏ ra để cứu nguy vượt hẳn số tiền bỏ ra cứu Bear Stearns. Tình hình nghiêm trọng đã đưa chỉ số chứng khoán vào hôm thứ
hai 15.9 xuống hơn 500 điểm, giảm 4,4%.
Cho đến giờ, không ai có thể tiên đoán được cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ đi đến đâu, vì những tiên đoán trước đây cho rằng
tình hình đã ổn định đều sai cả.
FED ra tay
"Tháo chạy" khỏi Lehman Brothers, từng là biểu tượng quyền lực tài chính.
Việc cứu Fannie Mae và Fredie Mac là cuộc cứu nạn thuộc loại lớn nhất của nhà nước Mỹ sau thế chiến thứ hai. Hai công ty tư
nhân Fannie Mae và Fredie Mac, chủ yếu cho vay và bảo hiểm vay nhà đất, mà hiện nay số nợ của họ đã lên tới
la, lớn hơn một phần ba GDP của Mỹ, và bằng nửa tổng số nợ địa ốc của cả nước.
Hai công ty này nguyên là công ty nhà nước được lập ra để bảo hiểm các khoản nợ vay nhà của gia đình nghèo và trung lưu, nhưng
sau này được các nhà chính trị nhằm mục đích kiếm phiếu đã cho phép mở rộng, rồi tư nhân hóa, nhưng vẫn được coi là có nhà
nước đứng sau lưng trợ giúp.
Vì được hiểu ngầm là nhà nước bảo trợ nên hai công ty bành trướng mạnh vào thị trường các loại nợ “rác”, không cần bảo chứng
đủ tin cậy, mục đích là làm lợi nhuận nhanh. Các nhà chính trị ủng hộ chúng được tiếng là giúp dân nghèo và trung lưu có nhà cửa,
và cũng nhận được tiền ủng hộ ứng cử từ hai công ty trên.
Tín dụng thừa thãi, giá nhà lên cao, và bất chấp cảnh báo, Fed vẫn rất nhiều năm giữ lãi suất thấp để bảo vệ thị truờng chứng khoán,
và do đó đẩy giá nhà cửa lên mức phi lý. Khi giá nhà đất xuống, đến nay có đến trên 9% số nợ vay trên mất khả năng chi trả, hai
công ty trên cũng bị đẩy tới mất khả năng chi trả. Và vì số nợ quá lớn nhà nước phải trực tiếp can thiệp.
Để cứu Fannie Mae và Fredie Mac, và có thể cần phải dùng ngân sách (tức là tiền thuế của dân) ở mức độ lớn, nhà nước phải truất
quyền quản trị và quản lý của ban quản trị hiện nay và tuyên bố sẵn sàng bỏ ra 200 tỷ đô la trong việc cứu nạn.
Con số này có thể không đủ vì chỉ bằng 4% phần nợ của hai công ty trên (trong khi đó như đã nói, đã có 9% số nợ trên mất khả

năng chi trả và tỷ lệ này vẫn còn tăng và nếu bán tháo để lấy lại tiền thì chưa chắc đã lấy lại được một nửa).
Đây là hình thức quốc hữu hóa dù thực chất chưa rõ ràng. Vì nếu rõ ràng là quốc hữu hóa, thì khi công ty mất khả năng chi trả, giá
trị công ty đã âm (vì nợ lớn hơn tài sản có), giá trị cổ phiếu là con số 0 tròn chĩnh, nhà nước có thể lấy quyền sở hữu, đuổi ban giám
đốc cũ, thay bằng ban giám đốc mới, và có thể trong tương lai sẽ tư hữu hóa trở lại bằng cách bán cổ phần ra thị trường.
Làm như thế, các cổ phiếu ưu tiên mà Trung Quốc và Ngân hàng và công ty tài chính của các nước khác mua sẽ bị mất sạch và sẽ
gây ảnh hưởng lâu dài.
Dường như chính phủ Mỹ vẫn muốn bảo đảm các cổ phiếu ưu tiên này vì kinh tế Mỹ đang phải dựa vào luồng vốn từ nước ngoài
đổ vào, từ năm 2004 đã vượt 500 tỷ và hiện nay vào khoảng 800 tỷ; như vậy chỉ có các cổ phiếu thường là mất sạch giá trị. Sắp tới,
hình thức quốc hữu hóa như thế nào sẽ tùy thuộc Chính phủ sau Bush quyết định.
Các nạn nhân mới
Một tuần sau khi cứu Fannie Mae và Fredie Mac, ngày thứ hai 15.9.2008, Fed lại
đành phải để cho Lehman phá sản. Fed cũng buộc phải đồng ý cho phép công ty
chứng khoán và đầu tư tài chính Merrill Lynch, có khoản nợ 900 tỷ, sau khi tuyên
bố lỗ 40 tỷ đô la, tự cứu bằng cách để cho nhà băng Bank of America mua với giá
rẻ một nửa. Còn AIG, một công ty bảo hiểm lớn nhất Mỹ, cũng đang tìm nguồn tài
chính tự cứu mình vì những hành động phiêu lưu buôn bán tài chính.
Chiều thứ hai cùng ngày, chính phủ Bang New York nơi công ty AIG đặt đại bản doanh đã cho phép nó mượn 20 tỷ từ các công ty
con (bảo hiểm ở tiểu bang) để giúp vốn cho hoạt động đầu tư vào chứng khoán rác, còn Fed thì đề nghị hai công ty tài chính lớn là
Thông tin liên quan
>> Hậu vụ Lehman Brothers "sập": Nguy cơ khủng
hoảng hệ thống ngân hàng toàn cầu
>> Chứng khoán Châu Á lao dốc
>> Ngày 15-16.9: Giá dầu xuống gần 91 USD/thùng
>> Thị trường toàn cầu bị chấn động
>> Phố Wall đứng sát mép vực
>> Khủng hoảng tài chính toàn cầu đang tồi tệ hơn
JPMorgan và Golden Sách bỏ ra 70 tỷ cho AIG vay ngắn hạn. Chưa biết họ có đồng ý không.
Không ai có thể tiên đoán được là tình hình sẽ đi đến đâu vì những tiên đoán trước đây cho rằng tình hình đã ổn định đều sai cả.
Lehman vào đầu tháng 7 có số nợ là 600 tỷ và tất nhiên là số chứng khoán tương đương là 600 tỷ, đã phải chịu bán lỗ, thu về 30 tỷ
(với giá 20 xu đối với mỗi đồng đô la ghi trên chứng khoán), tưởng như có đủ tiền để giải quyết vấn đề nhưng thực sự không đủ và

đến hôm nay thì phá sản.
Nguyên nhân bắt nguồn từ đâu?
Bất ổn tài chính bắt nguồn từ những “phát minh” về tài chính trong thời gian qua, qua đó thế đứng của ngân hàng đã dần dần bị các
công ty kinh doanh tài chính đánh đổ dần, trong lúc Fed chỉ được giao nhiệm vụ kiểm sát hệ thống ngân hàng.
Fed đã cứu công ty tài chính Bear Stearns. Dù không thuộc nhiệm vụ của họ, Fed đã vào cuộc với hy vọng là chận đứng được tình
hình hoảng loạn tài chính, nhưng thật ra họ đã lầm.
Tình hình khủng hoảng tiếp tục mở rộng và Fed không thể đứng ra cứu tiếp, vì đây không phải là nhiệm vụ của Fed, và về mặt
chính trị cũng như khả năng vốn, Fed không thể tiếp tục cứu.
Các công ty tư nhân này đã đòi quyền tự do kinh doanh tài chính làm giầu, không chịu bất cứ sự kiểm soát nào của Fed, thì Fed
không thể lấy thuế của dân để cứu chúng. Bơm tiền cứu sẽ đẩy mạnh thêm lạm phát, hiện nay nếu tính theo 12 tháng chấm dứt vào
tháng 7 vừa qua thì lạm phát đã là 5,6%, nhưng nếu tính dựa vào 3 tháng qua thì lạm phát đã ở mức rất cao là 10,6% một năm và
đang tăng, và không kể thực phẩm và năng lượng thì mức lạm phát tương đương là 2,5% và 3,5%.
Các chuyên gia đều đánh giá rằng lạm phát sẽ tăng trong năm tới. Và như thế khả năng tăng lãi suất cho vay trên thế giới để kiềm
chế lạm phát cũng là điều khó tránh. Đây là điều Fed sẽ phải nhức đầu: Tăng tín dụng để cứu nguy các đại gia hay kiềm chế lạm
phát?
Phát minh tài chính vừa qua là gì?
Đó là việc tập trung tiền cho vay mua nhà, lấy tiền hoa hồng, rồi chia nhỏ hợp đồng vay nợ này thành các chứng khoán (một loại
giấy nợ), rồi bán cho người có tiền (các công ty đầu tư tài chính chấp nhận rủi ro cao, quĩ bảo hiểm, qũi hưu trí và dân chúng), qua
đó họ lại ăn thêm hoa hồng. Tiền bán chứng khoán họ đem trả nợ ngắn hạn dùng lúc đầu để cho vay mua nhà.
khi bán chứng khoán thuộc về người mua chứng khoán, chứ không phải công ty tài chính. Cái mới là ở chỗ đó: ăn nhiều tiền nhưng
mọi rủi ro thì đẩy cho người khác.
Thường thì lãi suất mua nhà là 7%, nhưng
vì tình hình vừa qua, chỉ vì muốn tăng lợi
nhuận và hoa hồng, các công ty tài chính
chẳng cần điều kiện bảo chứng, có thể cho
vay tới 100% giá mua nhà với lãi suất 9%.
Nếu so với lãi tiền để dành khoảng 2% thì
lãi suất trên quả là lớn, lại thêm các khoản
dịch vụ phí cho vay đáng kể khác. Và khi
người mượn mất khả năng chi trả, thì tất

nhiên trong toàn hệ thống số tiền lãi thu
được không đủ để chi cho tiền mất vốn
này.

Với cách làm trên, các công ty tài chính hy
vọng thay thế ngân hàng, bỏ qua sự kiểm
soát của Fed, tha hồ mở rộng hoạt động làm
giầu, bất chấp các định chế tài chính cần
thiết mà Fed áp dụng cho ngân hàng.
Trước cuộc đại khủng hoảng năm 1933, các
ngân hàng ở Mỹ cũng không chịu sự kiểm
soát nào. Nhưng sau này, Fed, một loại
ngân hàng trung ương (NHTU), ra đời đã
thiết lập các định chế về cho vay, dự trữ bắt
buộc, bảo hiểm tiền ký gửi, và qua đó kiểm tra chặt chẽ hoạt động của ngân hàng nhằm bảo đảm khả năng chi trả của chúng và tất
nhiên nếu cần NHTU sẽ đứng ra giải quyết. Vai trò của Ngân hàng Trung ương rất quan trọng bởi vì nếu một ngân hàng thương
mại phá sản, tâm lý bày đàn có thể đẩy mọi người có tiền ký gửi rút tiền, đưa đến sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống, nếu không được
Ngân hàng Trung ương can thiệp.
Về nguyên tắc, cách làm của công ty tài chính cũng không khác gì ngân hàng, tức là làm trung gian giữa người có vốn và người
muốn mua nhà, nhưng quá trình thì ngược, nói chung họ phải là vay nóng, ngắn hạn cho vay mua nhà rồi chia nhỏ thành chứng
khoán, bán ra thu hồi vốn để trả lại nợ ngắn hạn. Đáng lẽ người mua chứng khoán phải chịu mọi thiệt thòi, nhưng trớ trêu thay, các
công ty tài chính đã không thể bán đi hết các khoản nợ để đổ toàn bộ rủi ro cho người khác.
Tình hình đang đi về đâu?
Khó lòng biết tình hình đi về đâu. Nhưng rõ ràng là có một số vấn đề sẽ tiếp tục xảy ra trong nền kinh tế Mỹ:
• Giá nhà sẽ tiếp tục xuống. Cho đến nay giá nhà ở một số nơi như thành phố New York gần như chưa bị ảnh hưởng. Nhưng với số
người trong khu vự tài chính mất việc làm, khả năng xuống giá ở New York là rất cao.
• Lạm phát trong tương lai sẽ tăng cao dù giá xăng dầu xuống vì mức tín dụng được Fed đẩy mạnh để cứu nguy các công ty tài
chính và để nền kinh tế không đi vào suy thoái. Điều có thể xảy ra là nền kinh tế suy thoái hoặc phát triển chậm nhưng lạm phát vẫn
cao.
• Suy thoái ngày càng mang tính toàn cầu. Thị trường chung Châu Âu (quí hai là 0,1%) và Nhật (quí hai là -0,7%) đã đi vào suy

Biểu đồ mô tả doanh thu và lợi tức của Lehman Brothers trong 6 tháng qua. Theo AP.
thoái, còn Mỹ thì quí hai bất ngờ tăng 3,3% vì tăng được xuất khẩu, giảm nhập khẩu và tăng chi tiêu quốc phòng. Nhưng điều này
sẽ không tiếp tục vì đồng Mỹ đang lên giá trở lại và dấu hiệu chi tiêu của dân chúng sẽ giảm mạnh, nhất là vào tháng 8, số thất
nghiệp tăng lên 6,1% và thêm 84 ngàn người mất việc.
• Có thể khủng hoảng tài chính sẽ không xảy ra ở châu Á và châu Âu nói chung, nhưng mất mát tài chính do đầu tư tài chính sang
Mỹ sẽ rất lớn, làm ảnh hưởng đến đầu tư nói chung trên thế giới.
Nói chung lạm phát trên thế giới vẫn có khuynh hướng tăng, dù giá dầu tăng hay giảm, vì tình hình tăng tín dụng nói chung.
Lãi suất do đó cũng sẽ phải tăng để chống lại lạm phát. Việc thực hiện các hứa hẹn đầu tư rất ấn tượng vào Việt Nam, do các nước
muốn chớp thời cơ tranh chỗ sau khi Việt Nam vào WTO, phần lớn là từ các nước Đông hoặc Đông Nam Á như Đài Loan, Mã Lai,
Thái Lan, Singapore, Brunei, …cũng có khả năng khó thực hiện trừ các đầu tư vào lãnh vực dầu hỏa vì không có khả năng tìm ra
nguồn vốn tài trợ.
Mọi suy nghĩ ở Việt Nam cần phải tập trung vào bảo đảm ổn định, chấm dứt từ từ lạm phát, chứ không thể tiếp tục theo đuổi con
đường tăng GDP một cách ấn tượng với các đầu tư phí phạm, trong khi đa số dân chúng có lương không đủ sống. Việc tăng lương
ở khu vực công không phải là không thể nhưng phải được tính toán kỹ lưỡng để không tạo ra lạm phát, như vậy là phải đánh đổi
với việc giảm thêm đầu tư của nhà nước.
Vũ Quang Việt
Khủng hoảng tài chính Mỹ: không còn nơi nào an toàn
20:47' 20/09/2008 (GMT+7)
Trong lúc còn đang bàn thảo về gói giải pháp tổng thể để cứu thị trường tài chính và chờ Quốc hội phê duyệt vào tuần tới,
chính Mỹ và Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) hôm 19/9 đã phải khẩn cấp công bố biện pháp để giảm bớt sự căng thẳng của các quỹ
đầu tư tiền tệ, mặc dù xưa nay đây vẫn được coi là góc an toàn bậc nhất của cả hệ thống.
>>> Toàn cảnh khủng hoảng kinh tế Mỹ
Tổng thống Mỹ với Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân
hàng Trung ương đứng hai bên, đang công bố biện pháp giải
cứu các quỹ đầu tư tiền tệ (ảnh: AP)
Các quỹ này là một phần quan trọng trong hệ thống tài chính Mỹ và là nền tảng cho hoạt động đầu tư tại nước này, với tổng tài sản lên tới
3,300 ngàn tỷ USD.
Cuộc khủng hoảng tài chính đã làm nhiều người lo ngại rút tiền về từ nơi vẫn được coi là an toàn nhất. Để hậu thuẫn cho các quỹ đầu tư tiền
tệ trước làn sóng rút tiền, Bộ Tài chính Mỹ và Fed đã đưa ra một biện pháp gồm 3 bước.
Thứ nhất, Bộ Tài chính sẽ bảo đảm cho các khoản đầu tư của các quỹ tiền tệ với khoản tiền lên tới 50 tỷ USD. Sáng kiến này, kéo dài trong

vòng 1 năm, sẽ bảo đảm giá trị của các chứng chỉ quỹ sẽ không xuống dưới mệnh giá 1 USD.
“Những lo ngại về giá trị tài sản ròng (NAV) của các chứng chỉ quỹ giảm xuống dưới 1 USD đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng tài
chính tồi tệ tại Mỹ và đã gây ra tình trạng căng thẳng nghiêm trọng về tính thanh khoản trên các thị trường toàn thế giới”, Bộ Tài chính Mỹ cho
biết.
Trong khi đó, Fed tiến hành 2 bước nhằm ổn định tài sản của các quỹ. Giá trị tài sản của các quỹ đã giảm thê thảm trong tuần do họ buộc phải
bán các khoản đầu tư của mình ở mức giá thấp trong bối cảnh toàn thị trường đang sụt giảm để đáp ứng nhu cầu rút vốn của các nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư trong tuần trước đã rút ra một lượng tiền kỷ lục là 169 tỷ USD.
Quỹ đầu tư tiền tệ (Money
market mutual fund) là dạng tổ
chức phát hành chứng chỉ quỹ
để đầu tư vào trái phiếu chính
phủ, cũng như vào một số loại
giấy tờ có giá ngắn hạn và an
toàn. Đây là loại hình đầu tư
được coi là an toàn nhất, nhưng
lợi nhuận cũng thấp nhất, chỉ
cao hơn mức lãi suất gửi ngân
hàng.
Các biện pháp cụ thể là Fed sẽ mở rộng chương trình cho vay khẩn cấp để các ngân hàng thương mại mua lại giấy tờ có giá (các khoản nợ
ngắn hạn được phát hành bởi các doanh nghiệp) từ các quỹ tiền tệ này. Hiện tại, các quỹ đang nắm giữ khoảng 230 tỷ USD những giấy tờ loại
này.
Như vậy, trong một động thái hiếm có, Fed đã cho các quỹ vay không cần bảo đảm, điều này cũng đồng nghĩa với việc nếu các giấy tờ có giá
này giảm giá trị thì Fed sẽ phải chịu lỗ. Tuy nhiên, các quan chức cao cấp của Fed cho biết họ hy vọng sẽ không phải chịu một khoản lỗ nào
bởi vì các giấy tờ này sẽ tăng giá trở lại một khi các thị trường ổn định.
Biện pháp thứ hai, Fed sẽ mua lại các loại giấy nợ ngắn hạn phát hành bởi Fannie Mae, Freddie Mac và các ngân hàng cho vay mua nhà…
Động thái này cũng sẽ giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường. Các quỹ đầu tư tiền tệ hiện đang nắm giữ khoảng 69 tỷ USD loại giấy nợ
này.
Các quỹ tiền tệ đã đối mặt với nhiều áp lực từ năm ngoái khi mà khủng hoảng tín dụng tràn vào phố Wall. Tuy nhiên, căng thẳng thực sự bùng
nổ trong tuần này khi mà một đợt “sóng thần” tài chính đã đổ ập vào Mỹ.
Thông thường, có rất nhiều người Mỹ đầu tư vào các chứng chỉ quỹ như là kênh ổn định và có lãi suất cao hơn ngân hàng.

Tuy nhiên, không giống như các sản phẩm của ngân hàng, các quỹ này không được bảo hiểm bởi cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC).
Các nhà đầu tư có thể mất tiền và trên thực tế trong tuần đã có 1 trường hợp như vậy.
Quỹ Reserve Fund vào thứ Ba vừa rồi đã công bố giá một loại chứng chỉ quỹ của mình đã giảm 97 cent (so với mức đầu tư ban đầu là 1
USD).
Theo Bộ Tài chính, quyết định vừa được đưa ra hôm thứ Sáu ngày 9/9 có thể sẽ giúp vực dậy niềm tin trên thị trường và xóa đi những lo ngại
của nhà đầu tư về khả năng các quỹ đầu tư tiền tệ bị thua lỗ.
• Hà Linh (CNN, AP)
Kế hoạch 700 tỷ USD không phải thuốc tiên
Chủ nhật, 5/10/2008, 18:05 GMT+7
Các nhà phân tích cho rằng, kế hoạch giải cứu thị trường trị giá 700 tỷ USD của Chính phủ Mỹ vừa được Hạ viện nước này thông
qua hôm 3/10, không phải là chìa khóa vạn năng hay linh đơn diệu dược gì.
>> Kinh tế Mỹ lao đao vì khối ngân hàng
Mặc dù quả thực nó có thể trợ giúp cho ngành xây dựng và ngân hàng nhưng khó giải quyết xong những trông đợi của thị trường bất động
sản trong một sớm một chiều.
Theo "Liên hợp Tảo báo" của Singapore, kế hoạch giải cứu sẽ đổ tiền vào thị trường tín dụng, khôi phục niềm tin của các nhà đầu tư và người
tiêu dùng.
Song, đối với những vấn đề như cải thiện tình trạng sụt giảm giá cả bất động sản, chủ sở hữu không đủ khả năng chi trả tiền mua nhà... thì tác
động của kế hoạch này lại rất chậm chạp.
Giáo sư kinh tế Shain thuộc trường Đại học Case Western Reserve nói: "Ý nghĩa của kế hoạch giải cứu là dự phòng tương lai xảy ra những
tình huống xấu, nhưng lại khó xoay chuyển tình hình hiện tại".
Đa số các nhà phân tích đều cho rằng, giá bất động sản ở Mỹ tuy đã giảm tới 20% kể từ tháng 7/2006, song chưa thấy đáy. Theo họ, giá bất
động sản phải chạm đáy thì lượng cầu mới tăng lên, và e rằng tình hình này sẽ còn kéo dài thêm 1 năm nữa.
Viễn cảnh nền kinh tế Mỹ cũng khó có thể thay đổi tốt hơn sau khi kế hoạch giải cứu đã được thông qua.
Hạ viện Mỹ hôm 3/10 đã thông qua kế hoạch giải cứu. (Ảnh: THX)
Theo báo cáo ngày 2/10 của Bộ Lao động Mỹ, số người bị mất việc làm trong tháng 9/2008 lên tới 159.000, mức cao nhất trong vòng 5 năm
qua, trong khi tỷ lệ thất nghiệp vẫn đứng ở mức 6,1%.
Trong số những người mất việc làm trong tháng này, có khoảng 35.000 người thuộc ngành xây dựng.
Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp xây dựng quốc gia Mỹ, Jerry Howard, đã ca ngợi kế hoạch giải cứu của Chính phủ, song ông cho rằng, Quốc
hội cần đưa ra thêm những giải pháp khác nữa.
Ông nói, kế hoạch giải cứu "không giải quyết toàn diện vấn đề căn bản về giá nhà đất, Quốc hội cần xem xét làm thế nào để giá nhà đất

ngừng sụt giảm".
Do tình hình tín dụng thu hẹp tiếp tục tồn tại, ngành xây dựng và các tổ chức tín dụng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn.
Giáo sư Leuze thuộc Viện thương mại trường Đại học Chicago nói, kế hoạch giải cứu thị trường chỉ có thể "kéo dài thời gian", còn bản thân
các ngân hàng vẫn phải tập trung tích lũy vốn, để dự phòng vấn đề lâu dài.
Cũng theo các nhà phân tích, trừ phi các khoản vay và thị trường bất động sản được giải quyết, còn không thì hệ thống tài chính khó mà khôi
phục toàn diện. Họ tin rằng, Tổng thống mới của nước Mỹ sau khi lên nhậm chức, vẫn phải đối mặt với nan đề là làm cách nào để hồi phục thị
trường tài chính.
Theo Hải Lăng
Mỹ công bố chiến dịch giải cứu doanh nghiệp
Thứ tư, 8/10/2008, 18:21 GMT+7
Hôm qua (7/10), Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã quyết định thành lập một quỹ đặc biệt nhằm mua vào các loại thương phiếu
(commercial paper) do các doanh nghiệp nước này phát hành.
>> Khủng hoảng tài chính ở Mỹ
Đây được coi là một động thái khẩn cấp của FED nhằm giải quyết tình trạng kẹt tiền mặt cho giới doanh nghiệp trong bối cảnh thắt chặt tín
dụng căng thẳng, khiến các công ty Mỹ không biết tìm đâu ra vốn để trang trải cho các hoạt động của họ.
Động thái này cũng được coi là một bước tiến sát tới việc FED sẽ tiến hành cho vay trực tiếp đối với giới doanh nghiệp Mỹ.
Thương phiếu là gì?
Thương phiếu là những giấy tờ có giá do các doanh nghiệp lớn và phần lớn các tổ chức tài chính hàng đầu của Mỹ phát hành, thường có thời
hạn ngắn, từ 270 ngày trở xuống. Trước đây, các nhà đầu tư cho rằng, thương phiếu là một khoản đầu tư rất an toàn và rất dễ bán lại.
Còn đối với các doanh nghiệp, đây là một nguồn vốn ngắn hạn có vai trò đặc biệt quan trọng vì số tiền thu về từ việc bán thương phiếu được
sử dụng cho việc trả lương công nhân viên, tiền thuê văn phòng, tiền thanh toán cho các nhà cung cấp…
Thương phiếu chủ yếu được bán cho các quỹ đầu tư thị trường tiền tệ và các nhà đầu tư tổ chức khác. Tuy nhiên, sự leo thang của khủng
hoảng, nhất là sau vụ phá sản của Lehman Brothers, đã khiến giới đầu tư trở nên e dè với thị trường thương phiếu, mặc dù những giấy tờ này
do các doanh nghiệp hầu như chẳng dính dáng gì tới hoạt động cho vay dưới chuẩn phát hành, và thậm chí có mức xếp hạng tín nhiệm “đỉnh”.
Thay vào đó, giới đầu tư chuyển sang đầu tư trái phiếu Kho bạc Mỹ cho an toàn hơn. Họ lo ngại sẽ mua phải thương phiếu của một công ty
nào đang có nguy cơ phá sản mà không biết. Do vậy, các loại thương phiếu bỗng chốc ế ẩm, khiến các doanh nghiệp Mỹ không biết xoay đâu
ra vốn giữa lúc các khoản nợ hiện có của họ đã đến hạn phải trả.
Chủ tịch FED Ben Bernanke. (Ảnh: AP)
Trước khi khủng hoảng diễn ra, giá trị dự nợ thương phiếu ở Mỹ là 2.000 tỷ USD. Tuy nhiên, theo số liệu của FED, trong ngày 1/10 vừa qua,
thị trường thương phiếu đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 3 năm là 1.600 tỷ USD, sụt 10% so với mức 1.820 tỷ USD trong ngày 10/9.

Một lượng lớn thương phiếu phát hành từ khi khủng hoảng bắt đầu đã chuẩn bị tới hạn phải gia hạn. Do đó, giới quan sát rất lo ngại rằng, thị
trường thương phiếu có thể còn sụt giảm mạnh hơn nếu không có sự cải thiện nhanh chóng.
Nội dung kế hoạch
Các quan chức của FED cho biết, không có giới hạn đối với lượng thương phiếu sẽ được FED mua vào theo chương trình này, và các điều
kiện thị trường cùng với quyết định của giới đầu tư sẽ quyết định quy mô can thiệp của Chính phủ. Việc chương trình này sẽ bắt đầu vào thời
điểm nào cũng còn là điều chưa rõ.
FED cũng cho biết sẽ chỉ mua vào những loại thương phiếu có mức xếp hạng tín nhiệm cao nhất. Ở thời điểm tháng 8 vừa qua, có khoảng
1.300 tỷ USD giá trị thương phiếu loại này được lưu hành trên thị trường. Trong số này, có 100 tỷ USD thương phiếu dưới dạng nợ không
được bảo đảm của các doanh nghiệp phi tài chính, 600 tỷ USD thương phiếu dưới dạng nợ không được bảo đảm của các doanh nghiệp tài
chính, và 600 tỷ USD thương phiếu dưới dạng nợ được bảo đảm bằng tài sản tại các doanh nghiệp phát hành.
Chương trình của FED sẽ hết hạn vào ngày 30/4 năm sau và có thể sẽ được gia hạn. Một phần số tiền để sử dụng cho chương trình này sẽ là
tiền nộp thuế của người dân. Tuy nhiên, chưa rõ liệu Bộ Tài chính sẽ đóng góp bao nhiêu cho chương trình.
Cần thiết nhưng chưa đủ
“Bộ Tài chính Mỹ tin rằng chương trình này là cần thiết để ngăn chặn sự giá đoạn quy mô lớn trên thị trường tài chính và trong nền kinh tế. Bộ
Tài chính sẽ có một tài khoản tiền gửi đặc biệt tại Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York để hỗ trợ chương trình”, FED cho biết.
Các quan chức của FED hy vọng động thái này sẽ đủ để lấy lại niềm tin của giới đầu tư đối với thị trường thương phiếu, và khiến họ tin rằng
các công ty phát hành thương phiếu có đủ khả năng để chi trả cho các thương phiếu này.
Chương trình này được công bố trong bối cảnh Bộ Tài chính Mỹ chuẩn bị thực hiện chương trình giải cứu thị trường tài chính trị giá 700 tỷ
USD, theo đó, mua lại tài sản xấu của các tổ chức tài chính. Các chuyên gia cũng cho rằng, giống như kế hoạch 700 tỷ USD, kế hoạch mới
của FED sẽ là chưa đủ để phục hồi niềm tin của thị trường.
“Tôi cho rằng, các nhà đầu tư muôn biết xem cơ chế này hoạt động ra sao đã. Tôi không chắc là họ sẽ đẩy mạnh việc mua vào thương phiếu
cho tới khi FED thực sự mua vào”, chiến lược gia thị trường trái phiếu Kevin Giddis của công ty đầu tư Morgan Keegan nhận xét.
Tuy nhiên, chuyên gia này cũng cho rằng, chương trình của FED là một bước tiến cần thiết xét tới mức độ quan trọng của thương phiếu đối
với “sức khỏe” của quá nhiều các doanh nghiệp Mỹ.
Theo Kiều Oanh
Khủng hoảng tài chính Mỹ - Đi tìm nguyên nhân và hệ quả
26/09/2008 12:34 (GMT + 7)
Năm 1932, trong bài diễn văn nhậm chức đọc trước một nước Mỹ đang hoảng loạn vì cuộc Đại Suy Thoái, tổng thống Mỹ Franklin D.
Roosevelt đã nhận định: “Sự sợ hãi chính là điều duy nhất chúng ta phải sợ". Có lẽ đó là điều mà người Mỹ phải suy ngẫm khi
"bóng đen" của cuộc khủng hoảng kinh tế đang lừ lừ tiến tới.

Thứ hai ngày 15 tháng 9 năm 2008, sau khi những nỗ lực huy động vốn bị thất bại do Chính phủ Mỹ từ chối bảo lãnh, Lehman
Brothers, ngân hàng đầu tư hàng đầu trên thế giới với 158 năm lịch sử và trên 26000 nhân viên, tuyên bố phá sản.
Tổng số tiền nợ của Lehman Brothers lên tới 768 tỉ đô la (bao gồm 613 tỉ đô la nợ ngân hàng và 155 tỉ đô la nợ trái phiếu). Giá trị tài
sản xác định trên giấy tờ là 639 tỉ đô la, bao gồm nhiều tài sản mà giá trị thực tế có thể thấp hơn nhiều giá trị sổ sách. Cho đến cuối
năm 2007, doanh thu của công ty còn là 59 tỉ đô la với 4,2 tỉ lãi ròng.
Sự phá sản của Lehman Brothers và những sự kiện diễn ra trong tuần qua đánh dấu sự leo thang của một cuộc khủng hoảng tài
chính mà theo đánh giá của nhiều chuyên gia là tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại Suy Thoái kinh tế vào những năm 1930 của thế kỉ trước.
Cuộc khủng hoảng này đã có những dấu hiệu từ hơn một năm trước, bắt đầu bằng sự sụt giảm của thị trường bất động sản Mỹ.
Mặc dù vậy, những diễn biến trong tuần qua vẫn gây không ít sửng sốt. Chỉ vài tuần trước đây, nhiều chuyên gia Mỹ còn trích dẫn
các chỉ số vĩ mô để khẳng định kinh tế Mỹ vẫn có thể tránh được suy thoái.
Dường như nước Mỹ và cả thế giới đang phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng mà nguyên nhân cũng như hậu quả kinh tế, xã
Nhân viên Mo Grimeh, người từng làm việc cho Lehman Brothers 10 năm, nói chuyện với phóng viên sau khi ngân hàng này tuyên bố phá sản.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×