Tải bản đầy đủ (.ppt) (23 trang)

Bài giảng lịch sử các học thuyết kinh tế chương 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.69 KB, 23 trang )

CHƯƠNG 9
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
MỘT SỐ HỌC THUYẾT
KINH TẾ HIỆN ĐẠI

1. Kinh tế học thể chế
1.1 Hoàn cảnh ra đời
- Trường phái thể chế xuất hiện từ cuối thế kỷ
XIX và được truyền bá rộng rãi từ những năm
20 - 30 của thế kỷ XX. Sự nảy sinh trường phái
thể chế với tư cách là sự đối lập của giai cấp tiểu
tư sản đối với chủ nghĩa đế quốc. Quá trình này
diễn ra trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển
từ tự do cạnh tranh sang độc quyền và sự thống
trị của độc quyền. Đồng thời có sự thoái trào
của kinh tế chính trị tư sản cổ điển.
- Trường phái thể chế tồn tại song song bên cạnh
các trường phái kinh tế khác nhưng đặc biệt
từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX có tác động ảnh
hưởng rất lớn đến kinh tế các nước TBCN.
- Các giai đoạn phát triển của trường phái thể
chế:
+ 1920 - 1930 Trường phái thể chế cổ điển, thời
kỳ mở rộng trường phái thể chế.
1. Kinh tế học thể chế
+ Trước và sau chiến tranh thế giới thứ II:
Trường phái thể chế thực chứng.
+ 1960 đến nay: Trường phái thể chế mới,
nổi bật là trường phái thể chế gắn rất chặt với
sự tác động ngày càng mạnh mẽ của cách
mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ.


1. Kinh tế học thể chế
1. Kinh tế học thể chế
1.2. Các đặc điểm cơ bản
- Đề cao vai trò của các thể chế xã hội, của khoa
học kĩ thuật trong sự phát triển kinh tế. Coi
động lực của sự phát triển xã hội là các thể chế
xã hội.
- Điểm nổi bật nhất: tính không thuần nhất (tức
là không có định nghĩa chung cho các quá trình
kinh tế, vì thế tạo nên nhiều trào lưu, khuynh
hướng khác nhau ngay trong trường phái).

- Động lực của sự phát triển xã hội là các thể chế
xã hội (gia đình, nhà nước, tổ chức độc quyền,
nghiệp đoàn, có thể là sự biểu hiện của tâm lý
xã hội, động cơ xử sự, phương thức tư duy: tập
tục, truyền thống, biểu hiện về luật pháp, luân
lí, ).
1. Kinh tế học thể chế
- Khẳng định các phạm trù kinh tế (chế độ sở
hữu, thuế, tiền tệ, lợi nhuận, ) là hình thức
thể hiện của tâm lí học trong xã hội.
- Không thừa nhận tác động của các quy luật
kinh tế khách quan, không phân tích sự phát
triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất mà chỉ phân tích sự tiến hóa của tư liệu
sản xuất.
1. Kinh tế học thể chế
- Những nhà kinh tế của trường phái thể chế
muốn: Thay thế môn kinh tế bằng môn lịch

sử và sự phân tích tâm lí (nghiên cứu nếp
sống, thói quen, tập tục, truyền thống, tác
động của các yếu tố xã hội và đạo đức); Thay
thế nghiên cứu lí luận bằng phương pháp mô
tả.
1. Kinh tế học thể chế
- Về đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
+ Đi sâu vào mặt thể chế và kết cấu kinh tế xã
hội, nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển
và tác dụng của các “thể chế” để phân tích xã
hội.
+ Coi mối quan hệ tập thể, các thể chế kinh tế -
xã hội là cơ sở phát triển kinh tế.
+ Đối tượng nghiên cứu vượt khỏi phạm vi của
kinh tế tư bản truyền thống.
1. Kinh tế học thể chế
2. Kinh tế lượng
2.1 Một số định nghĩa về kinh tế lượng:
- Kinh tế lượng là việc áp dụng các phương pháp
thống kê và toán học trong lĩnh vực kinh tế nhằm
kiểm định, đo lường các lý thuyết kinh tế và các
giải pháp kinh tế.
- Kinh tế lượng là xây dựng các mô hình toán mô tả
các mối quan hệ kinh tế, kiểm định sự phù hợp
của các giả thuyết và ước lượng các hệ số nhằm
lượng hóa các tác động của các biến độc lập.
2. Kinh tế lượng
2.2 Hoàn cảnh ra đời
- Khuynh hướng kinh tế lượng được chính thức
hóa trong thời kì khủng hoảng kinh tế đầu

những năm 1930 ở Mỹ.
- Vào năm 1930 ở thành phố Cliplen đã thành lập
hội các nhà kinh tế dưới cái tên “Hội quốc tế
phát triển học thuyết kinh tế gắn liền với thống
kê và toán học”. Sáng lập viên của tổ chức này
là các nhà kinh tế học, toán học và thống kê
học: I. Sumpeter, R. Kharit, I. Fisher, T. Ruder.
- Bắt đầu từ những năm 30 của thế kỉ XX các
thuật ngữ “kinh tế lượng”, “kinh tế toán học”
được sử dụng rộng rãi ở phương Tây. Tuy
nhiên, ở cả phương Tây, cũng như các nước
khác có nhiều cách giải thích khác nhau về
thuật ngữ này.
2. Kinh tế lượng
2. Kinh tế lượng
2.3 Các đặc điểm cơ bản
- Sử dụng các phương pháp toán học vào phân
tích kinh tế, đo lường các chỉ tiêu kinh tế, các
quá trình và hiện tượng kinh tế, có nghĩa là
áp dụng các phương pháp số lượng vào phân
tích kinh tế và lượng hóa các quy luật kinh
tế.
- Ba yếu tố quyết định sự phát triển của
khuynh hướng này:
+ Thứ nhất: Kinh tế lượng gắn chặt với lịch
sử phát triển của lịch sử học thuyết kinh tế.
Kinh tế lượng được sinh ra từ trong lòng học
thuyết kinh tế. Vì vậy, kinh tế lượng cũng
phản ánh được sự tiến hóa của học thuyết
kinh tế.

2. Kinh tế lượng
+ Thứ hai, sự tiến hóa của kinh tế lượng chịu
ảnh hưởng của sự phát triển các phương pháp
phân tích toán học và thống kê học, đặc biệt là
các lập trình toán học, lý thuyết trò chơi, thống
kê toán….
+ Thứ ba, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, sự
nảy sinh các ngành khoa học mới, đặc biệt là
môn điều khiển học, việc tạo ra kỹ thuật máy
tính điện tử đã thúc đẩy việc áp dụng mạnh mẽ
các công cụ khoa học chính xác vào lượng hóa
các quy luật kinh tế.
2. Kinh tế lượng
2.4 Quá trình phát triển
- Nguồn gốc của việc áp dụng các phương pháp
toán trong học thuyết kinh tế có từ thế kỉ trước,
những kinh nghiệm đầu tiên trong việc sử dụng
phương pháp toán trong học thuyết kinh tế đã
được “trường phái ích lợi giới hạn” ủng hộ từ
cuối thế kỉ XIX. Đầu thế kỉ XX người ta đã có ý
định áp dụng toán học trong các học thuyết kinh
tế. Tiêu biểu, Giáo sư L.Walras xây dựng mô
hình cân bằng tổng quát giữa các thị trường”
2. Kinh tế lượng
- W.D.Pareto là người kế tục của L. Walras ở
khoa kinh tế chính trị thuộc Trường Đại học
Tổng hợp Lôzanxki. Ông đề ra nhiệm vụ giúp
cho học thuyết “ích lợi giới hạn” ra khỏi sự bế
tắc do không có khả năng thực tiễn đo lường ích
lợi của các của cải tiêu dùng. Thay thế cho việc

đo lường ích lợi của cải vật chất, Pareto đã đặt
cơ sở cho việc phân tích là sở thích lựa chọn của
cải sử dụng, mà trong đó mỗi cá nhân tính toán
những nguyện vọng chủ quan của mình, mức
thu nhập và giá cả hàng hóa.
2. Kinh tế lượng
- Theo quan niệm của ông, nền kinh tế là một
sơ đồ “cân bằng” lý tưởng được tự động hình
thành theo những “cân bằng cá nhân” vì mỗi
cá nhân người tiêu dùng đã tìm cho mình một
số lượng của cải tối ưu. Các quan niệm của
ông về sở thích lựa chọn tiếp tục được sử dụng
trong các nghiên cứu lý luận kinh tế lượng.
2. Kinh tế lượng
- John Von Neumann (1903 – 1957) đã tiếp tục quan
điểm sở thích lựa chọn của cải vật chất để tìm ra
chức năng của ích lợi. Ông nghiên cứu một mô
hình hành vi của người tiêu dùng mà trong đó ông
sử dụng toán học cho lý thuyết trò chơi, tiền đề
cho từng cá nhân dành được thắng lợi tối đa, quan
niệm về ích lợi của cải vật chất với các tiêu chuẩn
thỏa mãn về mặt tâm lý của nó. Tuy nhiên, dự
định của John Von Neumann đưa học thuyết “ích
lợi giới hạn” ra khỏi khủng hoảng nhờ các
phương pháp toán học cũng không có kết quả.
2. Kinh tế lượng
- Nhà kinh tế học người Mỹ W.Misen và trường
phái Havard do ông là người đứng đầu. Sau đó
đã áp dụng phương pháp toán học rộng rãi
hơn trong môn Kinh tế chính trị tư sản.

- Sử dụng phương pháp này có các nhà kinh tế
học người Italy như E.Beroner, M.Pataleoni,
các nhà kinh tế học người Mỹ như: I.Fisher, E.
Chemberlin, các nhà kinh tế học Thụy Điển
như: K. Vikxen, J. Caxen…
2. Kinh tế lượng
- Việc sử dụng phương pháp toán học trong học
thuyết kinh tế nhằm chứng minh là nền kinh tế
được phản ánh trong các mô hình toán kinh tế
thuộc hành vi xử sự của người tiêu dùng, thị
trường, công ty, cân bằng kinh tế chung.
- Với tư cách là tiền đề của những mô hình này
nó đòi hỏi đưa ra những điều kiện như: “Cạnh
tranh hoàn hảo” loại trừ các tổ chức độc quyền
thống trị; điều kiện lựa chọn tối ưu được
người sử dụng hoặc công ty sử dụng; điều kiện
“cân bằng” của nền kinh tế thị trường.
2. Kinh tế lượng
- Các nhà kinh tế học sử dụng thuật ngữ “kinh tế
lượng” theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp:
+ Cách giải thích theo nghĩa rộng của kinh tế lượng
bao trùm các học thuyết kinh tế có sử dụng
phương pháp toán, trong đó có cả mô hình toán
kinh tế, bổ sung vào các mô hình cả số liệu thống
kê cần thiết để tính toán các thông số và dự tính
theo mô hình. Căn cứ vào các định nghĩa của các
nhà kinh tế nổi tiếng như: R.Kharit, kinh tế
lượng chính là nghiên cứu các hiện tuợng kinh tế
nhờ áp dụng các mô hình toán học.
2. Kinh tế lượng

+ Theo nghĩa hẹp, kinh tế lượng chủ yếu là “sự
luận giải bằng thống kê”, có nghĩa là quá trình
xử lý và đánh giá các thông số của mô hình
bằng các phương pháp thống kê toán và thống
kê kinh tế. Các tác giả của cuốn sách giáo khoa
kinh tế lượng như Gonberger đã giới hạn nội
dung của sách giáo khoa chỉ trong vấn đề phù
hợp với nghĩa hẹp của thuật ngữ. Trong
trường hợp này, người ta gọi việc mô hình hóa
toán kinh tế và giải các bài toán kinh tế trên cơ
sở các mô hình là môn “Kinh tế học toán”.
2. Kinh tế lượng

×