Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Thi pháp tiểu thuyết tạ duy anh 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (849.34 KB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN THỊ TUỆ NHƢ

THI PHÁP TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số:

60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS.

TÔN THẤT DỤNG

Đà Nẵng, Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Tôn Thất Dụng.
Số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được công bố trong bất kì một công trình nào khác.

Ngƣời cam đoan

Nguyễn Thị Tuệ Nhƣ




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 3
3. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 3
4. Tổng quan về lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................... 4
5. Cấu trúc luận văn .....................................................................................11
CHƢƠNG 1. TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH TRONG BỐI CẢNH
ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975.........................................12
1.1. KHÁI LƢỢC VỀ NHỮNG THÀNH TỰU CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT
NAM SAU 1975...................................................................................................12
1.1.1. Tiểu thuyết và cuộc hành trình của một thể loại................................12
1.1.2. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975- nhìn từ những thành tựu ................17
1.2. VỊ TRÍ CỦA TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH TRONG QUÁ TRÌNH
VẬN ĐỘNG CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975 .............................29
1.2.1. Tạ Duy Anh - “lão Khổ” trong văn chƣơng ......................................29
1.2.2. Vị trí của tiểu thuyết Tạ Duy Anh trong quá trình vận động của tiểu
thuyết Việt Nam sau 1975 ...........................................................................34
CHƢƠNG 2. THẾ GIỚI HÌNH TƢỢNG CỦA TIỂU THUYẾT TẠ
DUY ANH ...........................................................................................................40
2.1. HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT ........................................................................40
2.1.1. Đặt nhân vật trong vòng xoáy của tội ác ...........................................41
2.1.2. Để nhân vật tự bộc lộ bản thể qua những giấc mơ ............................53
2.1.3. Bút pháp phê phán nhân vật đám đông..............................................59
2.2. HÌNH TƢỢNG KHÔNG GIAN ...................................................................67
2.2.1. Không gian hiện thực - một không gian tù đọng và đầy bất trắc ......68
2.2.2. Không gian tâm tƣởng - không gian của nỗi sợ hãi và sự cô đơn .....72



2.3. HÌNH TƢỢNG THỜI GIAN ........................................................................76
2.3.1. Thủ pháp phân mảnh thời gian ..........................................................77
2.3.2. Thiên về khai thác chiều thời gian quá khứ .......................................86
CHƢƠNG 3. KẾT CẤU VÀ NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU
THUYẾT TẠ DUY ANH ...................................................................................90
3.1. KẾT CẤU ......................................................................................................90
3.1.1. Cách tổ chức sự việc theo hƣớng phi lí .............................................90
3.1.2. Sự dịch chuyển liên tục giữa các điểm nhìn trần thuật .....................97
3.2. NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT ........................................................................105
3.2.1. Dồn nén lƣợng thông tin cho ngôn ngữ ...........................................106
3.2.2. Giễu nhại bằng hình thức nói mỉa....................................................111
KẾT LUẬN .......................................................................................................119
TÀI LIỆU THAM KHẢO
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (BẢN SAO).


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 3.1

Tên bảng
Bảng liệt kê các sự việc trong tiểu thuyết Lão Khổ theo
thứ tự xuất hiện
Bảng liệt kê các sự việc trong tiểu thuyết Đi tìm nhân
vật theo thứ tự xuất hiện
Bảng liệt kê các sự việc trong tiểu thuyết Giã biệt bóng

tối theo thứ tự xuất hiện
Bảng liệt kê các điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết
Giã biệt bóng tối

Trang
78

82

84

101


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, chúng ta dễ dàng bắt
gặp rất nhiều những mẩu tin về tội ác của con ngƣời. Nào là con giết cha, vợ
giết chồng, trẻ em chƣa thành niên phạm tội giết ngƣời cƣớp tài sản,… Những
thông tin đó gieo vào lòng ngƣời đọc hôm nay những nỗi đau, hoài nghi và sự
trăn trở. Chúng ta băn khoăn tự hỏi liệu bản chất con ngƣời có phải thực sự là
ác nhƣ thế không? Và những khúc mắc trăn trở về bản chất con ngƣời, những
nhức nhối nghĩ suy về tội ác của con ngƣời đã khiến chúng tôi tìm đến với
gƣơng mặt Tạ Duy Anh nhƣ một sự lựa chọn tự nhiên, bởi Tạ Duy Anh là nhà
văn viết nhiều về cái ác, cái xấu với một nỗi đau khôn nguôi về bản chất của
con ngƣời. Nhƣ chính nhà văn từng tâm sự: “Tự tôi đặt cho mình sứ mệnh
phải viết, để cho cái ác nếu không biến mất thì cũng vì những trang viết của
tôi mà mỗi ngày ít đi một chút, một chút, nhƣ những hạt bụi” [52].

Nhìn lại tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, có thể thấy, đến nay chúng
ta đã có một quãng thời gian đủ dài để nhìn lại chặng đƣờng gần 30 năm đổi
mới văn học. Sự xuất hiện của nhiều cây bút trẻ tài năng đã làm nên diện mạo
mới mẻ cho văn học nƣớc nhà. Và, dù sau này tƣơng lai văn học Việt Nam có
bừng rộ nhƣ thế nào, ngƣời ta cũng không thể quên những ngày đầu đổi mới
đầy khó khăn với những gƣơng mặt tiên phong, trong đó, nổi bật lên là Tạ
Duy Anh - ngƣời góp phần không nhỏ tạo nên bƣớc chuyển quan trọng trong
hành trình đổi mới văn học. Tràn đầy tinh thần cách tân, Tạ Duy Anh đã sử
dụng một cách tối đa khả năng của ngôn ngữ và của thể loại để biểu đạt một
cách hiệu quả ý tƣởng, tình cảm của mình. Tạ Duy Anh là tác giả của những
tác phẩm luôn làm bạn đọc giật mình và suy ngẫm bởi những vấn đề gai góc
của xã hội hiện đại. Trong lăng kính đa chiều, Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực
một cách lí trí, lạnh lùng nhƣng đầy thƣơng xót con ngƣời. Cái tên Tạ Duy


2

Anh thực sự đã tạo ra một “từ trƣờng” riêng hấp dẫn và lôi cuốn độc giả. Tạ
Duy Anh còn là tác giả của tác phẩm Bức tranh của em gái tôi - một truyện
ngắn đoạt giải nhì trong cuộc thi viết Tương lai vẫy gọi của báo Thiếu niên
Tiền Phong, in trong tập Con dế ma - Nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, năm
1999, và đƣợc đƣa vào chƣơng trình Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 6 (tập 2,
trang 30). Ngoài ra, trong chƣơng trình phổ thông nhà trƣờng, chúng ta còn
đƣợc gặp Tạ Duy Anh qua đoạn trích Cánh diều tuổi thơ trong Sách giáo
khoa Tiếng Việt 4 (tập 1, trang 146).
Cho đến nay, nghiên cứu về Tạ Duy Anh đã không còn là công việc
hoàn toàn mới mẻ. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm Tạ Duy
Anh ở nhiều phƣơng diện khác nhau và ở những thể loại khác nhau. Tuy
nhiên, một điều thú vị là càng tiếp xúc với tác phẩm của Tạ Duy Anh càng
phát hiện ra những điều mới mẻ, lôi cuốn và cả những điều chờ đƣợc “nhận

thức khác đi”. Bởi những đứa con tinh thần của nhà văn này - dù là truyện
ngắn hay tiểu thuyết - đều gây đƣợc hiệu ứng đa chiều ở độc giả và tạo ra sự
phân cực sâu sắc trong tiếp nhận. Thời gian trôi qua chúng ta lại càng có điều
kiện nghiền ngẫm kĩ lƣỡng về những gì Tạ Duy Anh đã viết. Nhằm khẳng
định sâu sắc hơn nữa đóng góp của Tạ Duy Anh cho nền văn học đƣơng đại
và nhằm hƣớng đến một công trình có tính khái quát cao về giá trị của văn
chƣơng Tạ Duy Anh, đặc biệt là ở mảng tiểu thuyết, chúng tôi đã chọn đề tài:
Thi pháp tiểu thuyết Tạ Duy Anh. Bởi dù có ngƣời đã cáo chung cho thể loại
tiểu thuyết thì thể loại này vẫn có vị thế cột sống và đóng vai trò quyết định
căn cốt diện mạo một nền văn học. Bởi đối với Tạ Duy Anh thì tiểu thuyết
chính là nơi thể hiện rõ nhất tài năng cũng nhƣ sự dấn thân “khƣớc từ truyền
thống” của anh để xác lập những hình thức nghệ thuật mới cho văn học.
Nghiên cứu về thi pháp tiểu thuyết Tạ Duy Anh vừa nhằm khẳng định những


3

nét đặc sắc riêng trong ngòi bút của nhà văn này vừa khẳng định đƣợc giá trị
của thể loại tiểu thuyết nói chung trong việc thể hiện cuộc sống.
Nghiên cứu tiểu thuyết Tạ Duy Anh ở góc độ thi pháp học có ý nghĩa
quan trọng trong việc đánh giá tài năng Tạ Duy Anh nói riêng và giá trị của
văn chƣơng đƣơng đại nói chung. Việc triển khai nghiên cứu theo hƣớng này
sẽ giúp việc thẩm định một hiện tƣợng văn học vốn có nhiều luồng ý kiến trái
chiều đƣợc chính xác, có cơ sở, độ tin cậy cao, khắc phục dần sự tùy tiện, võ
đoán khi thƣởng thức tác phẩm.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài này là những tiểu thuyết của Tạ Duy
Anh, tập trung vào bốn tiểu thuyết sau:
1. Lão Khổ


2. Đi tìm nhân vật

3. Thiên thần sám hối

4. Giã biệt bóng tối

- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài triển khai trên một số bình diện thi pháp tiểu thuyết Tạ Duy Anh
nhƣ thế giới hình tƣợng, kết cấu và ngôn từ nghệ thuật.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp vận dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu, trong đó đặc
biệt là các phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp: “thi pháp” vốn là vấn đề không thể
nhận thức một cách trực quan đƣợc, muốn tiếp cận nó phải thông qua một
khâu trung gian là hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Vì vậy, cần sử dụng
thao tác phân tích để chia tách các yếu tố hình thức trong tác phẩm, sau đó
tổng hợp để nhận diện về vấn đề thi pháp.
- Phƣơng pháp khảo sát - thống kê: đề tài không nhằm hƣớng đến thi
pháp trong một tác phẩm cụ thể mà là vấn đề thi pháp trong nhiều tác phẩm


4

tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. Vì vậy cần sử dụng phƣơng pháp khảo sát thống kê nhƣ một công cụ hữu hiệu nhằm tìm kiếm sự lặp lại của các yếu tố
hình thức trong các tác phẩm cũng nhƣ tăng thêm tính khoa học cho các kết
luận đƣợc nêu ra.
- Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu: luận văn sử dụng phƣơng pháp này
để làm rõ thi pháp tiểu thuyết Tạ Duy Anh với những nét độc đáo trong bút
pháp thể hiện. Phƣơng pháp này nhằm tìm ra những nét đặc sắc của Tạ Duy

Anh so với một số gƣơng mặt cùng thời khác về thi pháp tiểu thuyết.
- Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống: chúng tôi chú trọng phƣơng pháp này
vì coi thi pháp tiểu thuyết Tạ Duy Anh là một chỉnh thể toàn vẹn, thể hiện sự
thống nhất của tác giả về mặt thi pháp khi viết tiểu thuyết.
Những phƣơng pháp này sẽ đƣợc chúng tôi vận dụng một cách linh hoạt
trong quá trình nghiên cứu.
4. Tổng quan về lịch sử vấn đề nghiên cứu
Các ý kiến xung quanh về tác phẩm của Tạ Duy Anh trong vòng gần 20
năm qua đã có không dƣới 100 bài. Các ý kiến về Tạ Duy Anh đa số đều có
những lập luận xác đáng, dựa trên cơ sở phân tích những đóng góp của nhà
văn trên cả hai phƣơng diện tƣ tƣởng và nghệ thuật. Đặc biệt, nhiều nhà
nghiên cứu chỉ ra đƣợc trong những sáng tác của Tạ Duy Anh những cách tân
nghệ thuật rất cần thiết cho một khuynh hƣớng văn học mới. Trong khuôn
khổ đề tài, chúng tôi chỉ đặc biệt chú ý đến những bài viết, những công trình
trực tiếp hoặc ít nhiều đề cập đến các tác phẩm tiểu thuyết của Tạ Duy Anh.
Các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Tạ Duy Anh có thể chia thành 2 cấp
độ: một là những bài viết, phỏng vấn, bình luận, điểm sách,… đăng trên các
báo, tạp chí, và trên một số trang mạng uy tín - đây là những bài viết quy mô
nhỏ; hai là những công trình nghiên cứu có tính chất chuyên sâu hơn, ở quy
mô lớn hơn, là những khóa luận, luận văn khoa học.


5

4.1. Những bài viết quy mô nhỏ
Sau tiểu thuyết Khúc dạo đầu không gây đƣợc tiếng vang là sự thành
công liên tiếp của Tạ Duy Anh với bộ ba tiểu thuyết: Lão Khổ, Đi tìm nhân
vật, Thiên thần sám hối và mới gần đây là tiểu thuyết Giã biệt bóng tối.
Giáo sƣ Hoàng Ngọc Hiến đã đánh giá rất cao tiểu thuyết Lão Khổ: “Tạ
Duy Anh bước qua lời nguyền để đi đến Lão Khổ. Thêm một giả thiết văn học

về bản chất và thân phận ngƣời nông dân Việt Nam. Đây là một cuốn tiểu
thuyết rất quan trọng” [53].
Báo Thể thao văn hóa số 47 năm 2004 đã đƣa ra nhận định khẳng định
chữ “tâm” trong ngòi bút Tạ Duy Anh: “Có thể coi ông là nhà văn đạo đức,
văn chƣơng của ông có lúc hiện lên bằng một gƣơng mặt thế sự, đớn đau, riết
róng chuyện thánh thiện, tàn ác, liêm sĩ và vô lƣơng nhƣng không phải nhƣ
những khái niệm truyền bản chết khô, mà thông qua sự cảm nhận đau đớn về
số phận…”, “mối quan tâm lớn nhất của Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh
mất mình của con ngƣời dƣới sự giằng giật xiêu dạt của lịch sử. Trên con
đƣờng truy tìm lại mặt mình, cũng nhƣ khả dĩ gƣơng mặt thực của quá khứ,
con ngƣời vấp phải và bị phong tỏa bởi thói gian trá, đớn hèn, vật dụng, tàn
ác, kể cả trong mỗi cá nhân. Phúc âm duy nhất là tình yêu, tình cảm trong
sáng bản thể của hiện tại và cái nhìn trung thực, nhân đạo đối với những vết
thƣơng, lỗi lầm của quá khứ” [54].
Báo Pháp luật số 140 năm 2004 có nhận định “hầu hết những tác phẩm
của ông (trừ truyện viết cho thiết nhi và tản văn) đều rất gai về nội dung thể
hiện dƣới cái nhìn hiện thực ở góc khuất” [53]. Đi tìm nhân vật là “bức tranh
hiện thực ngọt ngào của quyền lực, cái chết, sự đồi bại… còn Thiên thần sám
hối là một cuốn tiểu thuyết rất hay gần đây viết về nỗi đau làm ngƣời và chƣa
đƣợc làm ngƣời qua câu chuyện của một hài nhi đang lựa chọn có nên làm
ngƣời hay không”. Tác giả bài báo đã có cái nhìn thật công tâm khi cho rằng


6

Tạ Duy Anh là một tác giả tâm huyết, trăn trở với số phận con ngƣời, nhất là
khi họ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng nhân cách.
Báo Giáo dục và thời đại số 80 năm 2004 cũng đặt câu hỏi: “Số phận
con ngƣời phải chăng luôn là sự trăn trở, dằn vặt trong ông?” và tác giả bài
báo cũng đƣa ra câu trả lời rằng nhân vật nào của Tạ Duy Anh cũng thấp

thoáng bóng dáng của chính bản thân nhà văn.
Tác giả bài Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác [52] gọi Tạ Duy Anh là
“nhà văn của thời điểm” và đƣa ra một số cái nhìn cơ bản về quan niệm con
ngƣời của tác giả Tạ Duy Anh: “Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung
gian, nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình. Ngƣời xấu thì cực xấu nhƣ lão
Phụng… ngƣời đẹp thì nhƣ hoa nhƣ ngọc nhƣ Quý Anh, chị Túc, bà Ba, nhƣ
sản phụ chờ sinh. Nhƣng bản chất con ngƣời thì luôn ở ranh giới thiện - ác.
Nhân vật nào cũng luôn luôn bị đặt trong trạng thái đấu tranh với xã hội với
môi trƣờng, với kẻ thù, với ngƣời thân, với chính bản thân mình. Đã thế nhà
văn lại có cái giọng rất quyết liệt, nhiều hình dung từ và động từ mạnh, chõi
nhau…”, nhà văn lắm lúc quằn quại rên rỉ vì không ngăn nổi một hành động
ác, cũng có khi “lạnh lùng cố ý trƣớc sự trả thù” [52].
Tạ Duy Anh luôn theo đuổi kiểu nhân vật “vừa là tác giả, vừa là nạn
nhân của những bi kịch xã hội”. Đây là một trong những chiều hƣớng tƣ
tƣởng của ngòi bút Tạ Duy Anh. Điều này thể hiện rõ ở tiểu thuyết Lão Khổ
khi “nhân vật lão Khổ trở đi trở lại trong tác phẩm, một ngƣời nông dân chất
phác, vô tội, yếu đuối, bị ám ảnh bởi lời nguyền thâm thù hoàn toàn riêng tƣ
giữa hai dòng họ, đã tự biến mình và đồng loại thành vừa là thủ phạm vừa là
nạn nhân của cuộc giết chóc tàn phá trả thù” [48].
Trong bài viết Tạ Duy Anh - người đi tìm nhân vật, tác giả Thụy Khuê đã
nhận thức về nhân vật Tạ Duy Anh với cái nhìn lịch sử: “Những nhân vật của
Tạ Duy Anh qua bao tác phẩm từ hơn mƣời năm nay vẫn gắn bó mật thiết với


7

nhau trong một tƣơng quan chặt chẽ, họ hàng, làng nƣớc. Họ xuất thân cùng ở
làng Đồng, họ cùng tiềm ẩn thù hận dòng họ, hận thù giai cấp…” [57]. Trong
bài báo này Thụy Khuê chủ yếu nghiên cứu Tạ Duy Anh từ tiểu thuyết Đi tìm
nhân vật. Bài báo đánh giá cao những nỗ lực cách tân của Tạ Duy Anh trong

việc tìm đến một hình thức nghệ thuật tiểu thuyết mới. Đặc biệt bà nhấn mạnh
tính đa âm trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh: “Lão Khổ vẫn giữ bút pháp hiện
thực cổ điển, Đi tìm nhân vật đã biến chuyển nhiều để tạo ra một hiện thực
mới, mà kí ức, hồi ức không còn thụ động, không còn bất động trong nỗi trở
về. Những nghi vấn đầu tiên này đã là một bƣớc ngoặt đặt ra cho tiểu thuyết:
đi từ xác định đến hoài nghi, đẩy ngƣời đọc vào tình trạng không thể có một
sự đọc mà có nhiều sự đọc” [57].
Dƣơng Thuấn trong bài viết Tạ Duy Anh - Đi tìm nhân vật đã khẳng định
sự cách tân về mặt nghệ thuật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh. Tác giả cho rằng
Tạ Duy Anh đã thoát khỏi hoàn toàn lối viết truyền thống quen thuộc là “hiện
thực bị che phủ bởi nhiều lớp mùng màn, miêu tả dầm dề, hành động chậm
chạp, ngôn ngữ sạch bóng trơn tru” để chọn phƣơng pháp tiếp cận hiện thực
đa diện, đa chiều và gần nhất.
Phạm Xuân Nguyên trong Văn học Việt Nam- nỗi buồn tiểu thuyết nhận
xét Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh là một cuốn khá, đạt đến một tầm cỡ tiểu
thuyết nhất định, và nếu chỉ đau đời mà không đau nghề thì khó viết đƣợc,
nhất là trong mặt bằng thấp của tiểu thuyết Việt Nam hiện nay [64].
Riêng tiểu thuyết Thiên thần sám hối, ngay khi vừa mới ra đời (2004) đã
đƣợc Hội Nhà văn Hà Nội tiến hành thảo luận nghiêm túc. Hầu hết các ý kiến
đánh giá cao những đổi mới trong nghệ thuật trần thuật của Tạ Duy Anh. Tuy
nhiên có ý kiến cho rằng, cách kết thúc tác phẩm này ít nhiều thỏa hiệp với
truyền thống. Việt Hoài thì ghi nhận Tạ Duy Anh đã bắt kịp với lối viết của
các nhà văn trên thế giới: “Sự lao động nghiêm túc của nhà văn thể hiện một


8

nỗ lực tìm tòi đổi mới kỹ thuật viết của mình. Nhà văn đã dùng những kỹ
thuật viết hiện đại của thế giới, những phá cách về mặt cấu trúc, tính đa thanh,
phức điệu, điểm nhìn mới từ một bào thai trong bụng mẹ và lăng kính nhận

thức đa chiều, Việt hóa các môtíp trong văn học thế giới, cách viết ẩn dụ, ngụ
ngôn, hiện thực huyền ảo” [52].
Gần đây nhất, vào ngày 15.5.2008, Phòng Văn học Việt Nam đƣơng đại
- Viện Văn học đã tổ chức buổi tọa đàm “Tiểu thuyết Giã biệt bóng tối trong
bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại”. Một số ý kiến đáng chú ý là ý kiến
của PGS.TS Mai Hƣơng: “hiện thực trong tác phẩm đa dạng và nhất quán với
quan niệm của Tạ Duy Anh: viết những cái xấu, cái ác để hƣớng con ngƣời
đến Chân - Thiện - Mĩ”; ý kiến của PGS.TS Đỗ Ngọc Thống: “hãy kiên quyết
giã biệt bóng tối, hay đúng hơn khƣớc từ bóng tối - bóng tối của cuộc đời và
bóng tối trong chính mỗi con ngƣời. Đấy chính là âm hƣởng nhân bản vang
vọng khi thiên truyện khép lại”; ý kiến của PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn:
“những nhan đề tác phẩm từ Bước qua lời nguyền đến Giã biệt bóng tối và
cuốn tiểu thuyết chƣa xuất bản Sinh ra để chết đều thể hiện tâm thế nhìn lại
cuộc đời với ý tƣởng chung là “sinh kí, tử quy” và kết cấu, cốt truyện, tình tiết
đều quy tụ vào tính luận đề”...
Ngoài những ý kiến mang tính chất học thuật nhƣ đã nói đến ở trên,
ngƣời đọc còn đƣợc tiếp xúc với Tạ Duy Anh qua những bài trả lời phỏng vấn
đƣợc đăng tải trên internet nhƣ: Tôi sẵn sàng trả giá cho sự mạo hiểm; Chỉ
thân xác không thôi thì rất đáng sợ; Tôi là người không dễ bị khuất phục; Nhà
văn Tạ Duy Anh không từ bỏ gốc gác nhà quê,...
4.2. Những công trình nghiên cứu chuyên sâu
Đó là những khóa luận, luận văn khoa học. Trong phạm vi nghiên cứu
nhà trƣờng, tác phẩm Tạ Duy Anh đã đƣợc tìm hiểu trong một số luận văn
thạc sĩ sau:


9

+ Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Nguyễn Thị Mai Loan)
+ Cảm thức về cái Phi Lý trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Cao Tố Uyên)

+ Tạ Duy Anh - từ quan niệm Nghệ thuật đến những đổi mới trong sáng
tác truyện ngắn (Phạm Thị Hƣơng)
+ Đặc điểm truyện ngắn Tạ Duy Anh (Trần Văn Viễn)
+ Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Phạm Quỳnh
Dƣơng)
+ Nghệ thuật kết cấu trong một số tiểu thuyết huyền ảo triết luận của Tạ
Duy Anh, Châu Diên, Hồ Anh Thái (Nguyễn Thị Kim Lan)
+ Nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh (Võ Thị Xuân Hà)
+ Tạ Duy Anh và việc làm mới nghệ thuật (Nguyễn Thị Hồng Giang)
Trong đó chúng tôi đặc biệt chú ý đến các công trình sau:
Luận văn Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị
Mai Loan (ĐHSP HN, 2004). Trong luận văn này tác giả nghiên cứu những
đổi mới của Tạ Duy Anh về mặt tƣ tƣởng và nghệ thuật tiểu thuyết ở đề tài
nông thôn.
Luận văn Tạ Duy Anh từ quan niệm nghệ thuật đến những đổi mới trong
sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Thị Hƣơng (ĐHSPHN, 2005). Trong luận
văn này tác giả đã nghiên cứu quan niệm sáng tác cũng nhƣ những nỗ lực đổi
mới trong tác phẩm truyện ngắn Tạ Duy Anh từ nhiều góc độ: hiện thực, con
ngƣời, đổi mới về quan niệm nghệ thuật, gia tăng yếu tố kỳ ảo và chất tiểu
thuyết trong truyện ngắn Tạ Duy Anh.
Luận văn Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986
đến nay của Nguyễn Thị Minh Thủy (Đại học Vinh, 2005). Luận văn này
trong khi nghiên cứu sự cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam từ
1986 đến nay đã xem Tạ Duy Anh nhƣ một hiện tƣợng nổi bật của nỗ lực
cách tân tiểu thuyết. Tuy nhiên vì phạm vi bao quát của luận văn là cả một


10

giai đoạn văn học nên những nghiên cứu về Tạ Duy Anh còn ở mức khái

quát. Tác giả đã nghiên cứu những nét mới trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh
gồm: hệ đề tài, chủ đề, kết cấu, nhân vật và ngôn ngữ. Bên cạnh đó tác giả
cũng nêu lên những hạn chế của Tạ Duy Anh trên con đƣờng cách tân tiểu
thuyết.
Luận văn Nhân vật tiểu thuyết Tạ Duy Anh của Võ Thị Xuân Hà (Đại
học Vinh, 2006). Có thể nói, đây là lần đầu tiên có một luận văn đặt vấn đề
nghiên cứu nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh một cách tƣơng đối hệ
thống và toàn diện. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã kế thừa
đƣợc nhiều kết quả nghiên cứu quý báu về thế giới nhân vật trong tiểu thuyết
Tạ Duy Anh- một trong những phƣơng diện quan trọng làm nên thi pháp tiểu
thuyết Tạ Duy Anh.
Tiểu kết: Trên đây, chúng tôi đã điểm qua một số bài viết và công trình
đƣợc coi là khá tiêu biểu về tiểu thuyết Tạ Duy Anh. Đối với những bài viết
có quy mô nhỏ, có thể thấy, mặc dù mỗi bài có những phát hiện và cách lí giải
riêng nhƣng tựu trung lại, đa số các ý kiến đều gặp nhau ở chỗ thừa nhận giá
trị đặc sắc của tiểu thuyết Tạ Duy Anh và những đóng góp của nhà văn này
trong quá trình hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết. Những ý kiến trên có tính
chất định hƣớng, gợi mở, giúp cho chúng tôi có điều kiện để hiểu hơn về
mảng sáng tác đặc sắc này của nhà văn.
Trong các luận văn khoa học mà chúng tôi bao quát đƣợc, có thể thấy
chƣa có công trình nào mang tính chuyên sâu khảo cứu về thi pháp tiểu thuyết
Tạ Duy Anh, hay nói cách khác là tiểu thuyết Tạ Duy Anh ở góc nhìn thi
pháp học. Tuy nhiên, những công trình chúng tôi đã điểm qua ở trên sẽ là
những gợi ý quý báu cho chúng tôi thực hiện đề tài này. Với góc độ khám phá
riêng biệt và mang tính tổng hợp cao, luận văn này muốn trên cơ sở kế thừa


11

nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về Thi

pháp tiểu thuyết Tạ Duy Anh.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng một: Tiểu thuyết Tạ Duy Anh trong bối cảnh đổi mới tiểu thuyết
Việt Nam sau 1975.
Chƣơng hai: Thế giới hình tƣợng trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh.
Chƣơng ba: Kết cấu và ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh.


12

CHƢƠNG 1

TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH TRONG BỐI CẢNH
ĐỔI MỚI TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975
1.1. KHÁI LƢỢC VỀ NHỮNG THÀNH TỰU CỦA TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM SAU 1975
1.1.1. Tiểu thuyết và cuộc hành trình của một thể loại
Dƣờng nhƣ bất kì một thể loại văn học nào cũng mang trong mình những
số phận thăng trầm nhất định. Chỉ có khác là sự thăng trầm đó ít hay nhiều mà
thôi. Tiểu thuyết, tuy sinh sau đẻ muộn so với những ngƣời bạn thể loại khác
của nó, nhƣng đã phải trải qua cả một hành trình dài đầy gian nan, thử thách
để hôm nay có một địa vị thật xứng đáng trên văn đàn thế giới.
Tiểu thuyết ra đời từ thời điểm nào trong lịch sử thì chƣa ai có thể khẳng
định chắc chắn, chỉ biết rằng từ thế kỉ XIX trở về trƣớc, nó - tiểu thuyết, bị
đối xử nhƣ một “vịt con xấu xí” bởi sự thắng thế của các thể loại khác. Khi
tâm thế con ngƣời đang đề cao những gì là chính thống, khuôn mẫu, đang chỉ
muốn nghe những gì là hào hùng, rực rỡ của cuộc sống thì ngƣời ta chỉ coi
trọng sử thi, ngƣời ta chẳng buồn quan tâm đến tiểu thuyết - cái mà nội dung
phản ánh chỉ toàn là những điều thông tục, thiếu thi vị, ngổn ngang chất sinh

hoạt đời thƣờng. Rồi đến thời kì xã hội bùng nổ thông tin, ngƣời ta lại dành
cái nhìn ƣu ái cho truyện ngắn- một thể loại cô đọng gọn gàng, rất phù hợp
với nhịp sống hối hả của họ, ngƣời ta lại tiếp tục lãng quên tiểu thuyết - cái
thể loại đồ sộ về quy mô, dài lê thê đến cả ngàn trang giấy. Nhƣng biết làm
sao đƣợc, bởi “điểm xuất phát” của tiểu thuyết, theo quyển Sơ lược lịch sử
tiểu thuyết Trung Quốc (Lỗ Tấn) thì nó chỉ là những lời nói nhỏ, vụn vặt, tầm
thƣờng. Dần dần, theo thời gian, nó cũng vƣơn mình đến tƣ cách của một thể
loại, nhƣng có lẽ cái tính chất “tầm thƣờng” thì ngƣời ta vẫn cứ gán cho nó


13

nhƣ thế, bản thân nó chƣa tự rũ bỏ đƣợc. Ở phƣơng Tây, số phận tiểu thuyết
cũng chẳng khấm khá hơn. Ban đầu ngƣời ta dùng từ “roman” - một từ trong
tiếng thổ ngữ, chứ không phải trong tiếng La tinh cao quý để chỉ thể loại tiểu
thuyết. Ngƣời ta dùng từ này bởi ngƣời ta xem nội dung phản ánh của tiểu
thuyết chỉ là nội dung bịa đặt, hoang đƣờng hoặc chỉ là những chuyện tình
lãng mạn đầy mộng ảo. Thế là, suốt một thời gian dài, tiểu thuyết không có
chỗ đứng trong văn học chính thống, không đƣợc nhắc tới trong các công
trình lí luận. Thậm chí, có lúc, có ngƣời đã tuyên bố về cái chết của nó.
Thế nhƣng, số phận tiểu thuyết đã sang trang từ thế kỉ XIX. Giống nhƣ
từ vịt con xấu xí, nó thoắt trở thành thiên nga xinh đẹp trong mắt mọi ngƣời.
Thực ra, thì vẫn là nó đấy thôi, nhƣng giờ đây quan niệm về nó đã thay đổi.
Sự thay đổi trong cách nhìn cuộc sống của con ngƣời chính là tiền đề để tiểu
thuyết lên ngôi. Giờ đây, đứng trƣớc thời đại mới, ngƣời ta nhận thấy đời
sống sao mà bề bộn, hỗn loạn, sao mà phức tạp, sao mà đa diện,... và chỉ có
tiểu thuyết - một “thể loại đa thể loại”, một thể loại phức hợp mới có thể giúp
họ nhận thức và cảm nhận toàn vẹn về cuộc sống.
Đến thế kỉ XX, tiểu thuyết lại một lần nữa làm một cuộc đột phá. Nhƣng
lần này không phải để khẳng định vai trò của mình nhƣ ở thế kỉ XIX, mà để

thay đổi các quan niệm về chính bản thân nó. Quan niệm về tiểu thuyết từ thế
kỉ XX (chúng tôi gọi là “quan niệm hiện đại”) đã có sự khác biệt nhất định
với quan niệm về tiểu thuyết của thế kỉ XIX (chúng tôi gọi là “quan niệm
truyền thống”).
Quan niệm truyền thống cho rằng tiểu thuyết mang tính cách hiện thực,
mục đích chủ yếu của nó là nhằm phản ánh một cách đầy đủ và trung thực
hiện thực của đời sống (còn cái hiện thực đó đƣợc nhìn theo lăng kính nào thì
sẽ phân chia ra các khuynh hƣớng phản ánh khác nhau). Cả Bêlinxki và
Turghênhep đều nhấn mạnh đến chức năng phản ánh của tiểu thuyết. Bêlinxki


14

thì viết: “Tiểu thuyết là sự phản ánh nên thơ đời sống xã hội”, còn
Turghênhep thì khẳng định: “Tiểu thuyết là lịch sử cuộc sống”. Tiểu thuyết
phải bao quát những bức tranh hiện thực lớn lao, những hình tƣợng kì vĩ,
những thăng trầm lịch sử,... Song song với việc quan niệm tiểu thuyết phải
phản ánh trung thực đời sống, quan niệm truyền thống còn cho rằng tiểu
thuyết nhất thiết phải tồn tại trên một cốt truyện và chủ yếu thuyết phục ngƣời
đọc ở các diễn biến sự kiện. Tiểu thuyết đến với ngƣời đọc bằng cách kể
chuyện, và ngƣời đọc thích thú theo dõi các diễn biến đời sống của một hay
nhiều nhân vật trong đó.
Với sự xuất hiện của các tiểu thuyết hiện đại, quan niệm về tiểu thuyết
cũng có những biến đổi sâu sắc so với quan niệm truyền thống. Quan niệm
hiện đại cho rằng tiểu thuyết không thể phản ánh trung thực đời sống vì khả
năng hạn chế của ngôn ngữ - phƣơng tiện mà nó, dù muốn hay không cũng
phải sử dụng, nếu muốn đứng vào hàng ngũ của các thể loại văn học! Hơn
nữa, không phải chỉ là chuyện “không thể”, mà tiểu thuyết “không nên”, và
cũng “không cần” phải phản ánh cho đúng cái đời sống bên ngoài làm gì. Bởi,
tất cả những gì đƣợc coi là hiện thực, trên thực tế không gì khác hơn chỉ là sự

hình dung về nó. Bởi, nhà văn cũng chỉ là một cá nhân nhỏ bé giữa cuộc đời
này, làm sao có thể biết hết, và chắc gì cái anh ta biết đã đúng mà yêu cầu anh
ta phải phản ánh vào tiểu thuyết cho đúng. Tiểu thuyết hiện đại, do vậy,
không chủ tâm khai thác bề mặt sự kiện, mà chủ tâm nói cho đƣợc những tầng
sâu của ý thức con ngƣời trƣớc những vấn đề xã hội. Đó là những suy nghĩ, ý
nghĩ hết sức tế vi bên trong tâm hồn con ngƣời. Nhà văn có thể kể một hiện
thực vô lí, một điều không thể xảy ra trong đời thực, nhƣng miễn là anh ta nói
đƣợc những mảng màu đa sắc đang diễn ra ở thế giới bên trong con ngƣời.
Cảm hứng về sự thật bên trong tâm hồn con ngƣời đã thay thế cho cảm hứng
phơi bày hiện thực. Lúc này, hiện thực chỉ còn là cái nền mà thôi. Hiện thực


15

đời sống đã không còn quan trọng bằng hiện thực của những ý nghĩ về đời
sống! Hiện thực mà con ngƣời tồn tại đã không còn quan trọng bằng trạng
thái tồn tại của con ngƣời trong hiện thực, sự hiện hữu của con ngƣời! “Tiểu
thuyết suy xét hiện hữu chứ không phải hiện thực. Hiện hữu không phải là cái
gì xảy ra, hiện hữu là thế giới của những khả hữu con ngƣời, bất cứ cái gì con
ngƣời có thể trở nên, bất cứ cái gì hắn có khả năng làm. Tiểu thuyết gia là
ngƣời vẽ bức bản đồ sự hiện hữu bằng cách khai phá khả hữu này hay khả
hữu kia của con ngƣời” [59].
Cuộc sống trên cõi trần gian này đúng là “một cõi nhân gian bé tí” mà đa
sự. Tiểu thuyết hiện đại dƣờng nhƣ rất thấm thía điều này, bằng “sự hiền minh
của hoài nghi” (chữ dùng của Kundera), nó giúp ngƣời đọc hiểu ra sự phức
tạp khôn cùng của cuộc sống, mà trƣớc hết là những phức tạp trong chính tâm
hồn mình. Tiểu thuyết hiện đại không ngừng phát hiện những điều mới mẻ và
tra vấn con ngƣời ở mọi khía cạnh sâu kín, kể cả bằng cách mỉa mai và khiêu
khích. Quả là, tiểu thuyết hiện đại đang nỗ lực để “kể cái không thể kể” những cái không xảy ra theo trình tự thời gian vật lí, không xảy ra trong
không gian địa lí, mà là những cái hỗn mang nằm sâu trong tiềm thức và vô

thức, những cái nằm ngoài lí luận của hiện thực tỉnh táo.
Đi liền với sự thay đổi trong quan niệm về nội dung phản ánh của tiểu
thuyết là sự thay đổi trong quan niệm về chức năng của chính thể loại này. Từ
chỗ “đạo mạo hóa” vai trò của tiểu thuyết, xem nó phải là một công cụ hữu
ích truyền dạy một bài học nào đó cho ngƣời đọc, hoặc giả, phải chứa đựng
một triết lí lớn lao nào đó..., quan niệm hiện đại xem tiểu thuyết chỉ nhƣ một
“trò chơi”. Vì là lãnh địa của trò chơi nên sẽ không có những điều khẳng định,
mà chỉ có những giả thuyết do nhà văn công khai một cách lộ liễu là mình
đang bày ra, còn ngƣời đọc tin hay không là tùy, thậm chí việc có tham dự
vào trò chơi này nữa hay không cũng là tùy ở độc giả. Vì là lãnh địa của trò


16

chơi nên tiểu thuyết hiện đại luôn có những tín hiệu nhấp nháy nhằm nhắc
nhở độc giả rằng: đây chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, chứ không phải là một
sự phản ánh hiện thực gì cả, và phải coi chừng, những điều tay ấy kể, có thể
rất láo lếu! Vì là lãnh địa của trò chơi nên tiểu thuyết đƣơng nhiên không có
sứ mệnh phải đi tìm chân lí, đó chỉ là một trò chơi thôi mà! Vả lại, làm gì có
chân lí tuyệt đối mà tìm, ở đời có vô số chân lí cùng tồn tại đồng thời, chẳng
cái nào “phải” hơn cái nào, chẳng cái nào là chính, là tuyệt đối, tối cao, độc
tôn, bởi, vạn vật với bao cách nhìn khác nhau, mỗi ngƣời đều có thể biện
minh cho góc nhìn của mình. Nói nhƣ Kundera: “Cuộc đời là một mớ chân lí
tƣơng đối mà những con ngƣời chia lấy cho nhau”. Có thể nói, quan niệm
hiện đại xem tiểu thuyết chính là một trò chơi, chỉ có điều nó không phải là
một trò chơi vô bổ mà là “nỗ lực biểu đạt nghĩa đầy chủ động của nhà văn”,
tức có dụng ý nghệ thuật và bộc lộ một quan niệm nhất định của tác giả về đời
sống. Nguyên nhân của tính trò chơi trong tiểu thuyết bắt nguồn từ quan niệm
của nhà văn về cuộc sống, từ đặc điểm thể loại và đặc điểm của độc giả hiện
đại.

Quan niệm mới về tiểu thuyết đã nâng tiểu thuyết vƣợt khỏi phạm trù là
một thể loại văn học để đến với phạm trù của một kiểu tƣ duy - tƣ duy tiểu
thuyết. Các nhà lí luận văn học hiện đại xem tiểu thuyết là một cấp độ mới
trong tƣ duy nghệ thuật của con ngƣời về thế giới. Văn học đạt đến tƣ duy
tiểu thuyết là khi nó từ bỏ niềm tin cố hữu về trật tự tuyến tính nhân quả, về
tính tất định của cuộc đời, và thừa nhận sự bất định mới là cái phổ biến của
cuộc đời này, thừa nhận sự phi chân lí độc tôn, thừa nhận tính đa nguyên chân
lí của thế giới. Mọi vật đều ngang nghĩa và ngang giá trong thế giới của cái
hỗn độn, nơi mọi giá trị đều bị hạ bệ!
Nhƣng tính chất trò chơi không mâu thuẫn với sự lao động sáng tạo
nghiêm túc trong văn học nghệ thuật. Nó nhấn mạnh hơn đến khía cạnh tự do


17

của nghệ thuật, nhất là tự do trong sáng tạo những hình thức nghệ thuật mới.
“Đi theo tiếng gọi của trò chơi” (cách nói của Nguyễn Đăng Điệp), những ảo
tƣởng về sức mạnh tuyệt đối của văn học đã đƣợc gỡ bỏ, văn học đƣợc tự do
hơn, tính dân chủ cao hơn. Rõ ràng là với tính chất trò chơi này, các tiểu
thuyết hiện đại đang mở ra cái gì đó chƣa có trong truyền thống.
Bêlinxki từng nêu lên một quan điểm biện chứng rằng: “Nếu nhƣ có tƣ
tƣởng của thời đại thì cũng có những hình thức của thời đại”. Thể loại tiểu
thuyết, theo sự thay đổi của thời gian, qua mỗi thời kì cũng đã tự biến chuyển
mình cho phù hợp với tinh thần của thời đại. Và chỉ riêng sự tồn tại của nó
theo suốt chiều dài lịch sử văn học cũng đã đủ cho thấy giá trị không thể thay
thế của thể loại này.
1.1.2. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975- nhìn từ những thành tựu
Sau 1975, đất nƣớc ta bƣớc sang một thời kì mới: thời kì từ chiến tranh
chuyển sang hòa bình, từ đời sống bất bình thƣờng của những “ngày có giặc”
chuyển sang đời sống bình thƣờng của những điều lo lắng, vụn vặt thƣờng

nhật. Có những chuyện hôm qua văn học chƣa kịp nói đến, chƣa đƣợc đề cập,
vì hoàn cảnh khách quan mà còn phải nhìn một cách phiến diện thì nay có
điều kiện để đề cập đến và nhìn nhận lại... Văn học nƣớc ta sau 1975, không
chỉ phải “đọc lời ai điếu cho một nền văn chƣơng minh họa”, tức là “đọc lời ai
điếu” cho chính bản thân nó trƣớc đó mà còn phải tự tìm tòi, tự đổi mới để
chuyển mình kịp với thời đại, để có thể thích nghi với hiện thực mới. Yêu cầu
này xem ra không phải dễ dàng gì bởi lực cản của “quán tính”, của “thói
quen”, và bởi việc rũ bỏ chính bản thân mình bao giờ cũng khó khăn gấp bội
việc rũ bỏ cái gì đó ở ngoài mình. Lẽ dĩ nhiên, yêu cầu bức thiết này không
loại trừ thể loại tiểu thuyết, một thể loại đƣợc xem nhƣ chiếc “máy cái” của
nền văn học hiện đại.


18

Để có thể nhìn nhận về những thành tựu của tiểu thuyết Việt Nam sau
1975 thƣờng có 2 cách để xem xét. Thứ nhất, là nhìn nhận theo tiến trình vận
động của thời gian. Thứ hai, là nhìn nhận theo cụm các tác phẩm có sự khác
biệt về phƣơng diện nghệ thuật. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975, nếu nhìn từ
phƣơng diện nghệ thuật có thể dễ dàng nhận ra hai xu hƣớng chính: hƣớng
làm mới tiểu thuyết trên nền truyền thống và hƣớng cách tân theo tinh thần
hiện đại. Tuy nhiên, không thể tránh khỏi hiện tƣợng có những tác phẩm nằm
giữa đƣờng biên của hai xu hƣớng này. Do đó, chúng tôi chọn cách thứ nhất,
dù rằng cách này hiện nay vẫn chƣa có đƣợc sự thống nhất trong cách phân
kì. Có nhà nghiên cứu chia thành ba chặng đƣờng: từ 1975 đến 1985, từ 1986
đến đầu thập kỉ 90 và từ 1993 đến nay. Có ngƣời lại chia thành hai chặng: từ
1975 đến 1985 và từ 1986 đến nay. Trên cơ sở tôn trọng những điểm đã thống
nhất của các nhà nghiên cứu, kết hợp với việc xem xét ý nghĩa của những thời
điểm lấy làm cột mốc, chúng tôi cho rằng tiểu thuyết Việt Nam hơn 30 năm
qua, có thể chia thành ba chặng đƣờng: từ 1975 đến 1985; từ 1986 đến hết thế

kỉ XX và chặng đƣờng của những năm đầu thế kỉ XXI.
a. Chặng đường từ 1975 đến 1985
Diện mạo của tiểu thuyết ở chặng này có thể khái quát trong hai từ:
“chuyển tiếp” và “dự báo”. Đây là thời kì “chuyển tiếp” từ văn học thời chiến
tranh sang văn học thời hậu chiến với những tín hiệu có tính “dự báo” về một
sự đổi mới thể loại sẽ bùng nổ ở chặng tiếp theo. Cho nên ngƣời ta còn gọi
tiểu thuyết ở chặng này là tiểu thuyết những năm tiền đổi mới. Các tác phẩm
ở chặng này chính là những dấu hiệu cho thấy ý thức đổi mới thể loại đang
rõ dần.
Từ 1975 đến 1980, tiểu thuyết vẫn theo đà quay “quán tính” nghiêng về
sự kiện, về sự bao quát hiện thực trong một diện rộng, cảm hứng sử thi vẫn
chiếm vị trí đáng kể trong tƣ duy nghệ thuật của nhà văn. Có thể kể ra nhƣ:


19

Miền Cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) của Nguyễn Minh Châu;
Cha và Con và...(1979) của Nguyễn Khải; Đất trắng (tập I- 1979) của
Nguyễn Trọng Oánh; Năm 75 họ đã sống như thế (1979) của Nguyễn Trí
Huân; Trong cơn gió lốc (1980) của Khuất Quang Thụy; ... Những tác phẩm
này vẫn tiếp tục mạch cảm hứng chủ đạo trong thời kì chiến tranh dù rằng ít
nhiều đã cho thấy ý thức khắc phục cái nhìn lí tƣởng hóa một chiều về hiện
thực. Các tác phẩm kể trên đã đề cập kịp thời những vấn đề mới nảy sinh
trong buổi giao thời từ chiến tranh sang hòa bình, khi mà cuộc sống lúc này
không chỉ có niềm vui của hòa bình, của chiến thắng, của đoàn tụ mà còn của
bao phức tạp, khó khăn và cả những mâu thuẫn mới nảy sinh. Các nhà văn lúc
này không chỉ thấy mặt trƣớc của tấm huy chƣơng mà đã bắt đầu nhìn vào
phía sau của tấm huy chƣơng ấy. Nguyễn Trọng Oánh cho thấy qua Đất
trắng, thời điểm khốc liệt nhất của chiến tranh là khi con ngƣời dao động,
biến chất, niềm tin hao hụt. Nguyễn Minh Châu đƣa ra những dự cảm về một

thời hậu chiến nhiều phức tạp trong lòng ngƣời (Miền Cháy), hay tình trạng
những ngƣời lính anh hùng nhƣng gắn với chiến trận quá lâu đang trở thành
xa lạ với văn hóa thời bình (Lửa từ những ngôi nhà). Có thể nói, từ 1975 đến
1980, tiểu thuyết nƣớc ta đã bắt đầu có sự thay đổi nhƣng dẫu sao cũng chỉ
mới dừng lại ở việc mở rộng đề tài, đề cập đến nhiều vấn đề hơn... còn về cơ
bản vẫn gần với đặc điểm của tiểu thuyết giai đoạn trƣớc.
Từ 1980, tiểu thuyết không chỉ mở rộng đề tài mà còn cố cƣỡng lại “từ
trƣờng” của tƣ duy sử thi để gia tăng chất “đời tƣ”, “thế sự”. Nếu nói theo
Nguyễn Minh Châu thì cái “lớp men trữ tình hơi dày” mà các nhà văn thƣờng
“tráng lên” hiện thực đang đƣợc cố gắng gột tẩy. Gặp gỡ cuối năm (1983) của
Nguyễn Khải là cuộc đối thoại của nhiều luồng tƣ tƣởng, nhiều quan niệm giá
trị, ở đó chân lí cách mạng bị đặt dƣới sự phán xét của những ngƣời “phía bên
kia”. Thời gian của người (1985) cũng của Nguyễn Khải, là phép “tƣơng


20

chiếu” những lựa chọn khác nhau: một ông linh mục, một ông giám đốc nông
trƣờng cao su, một chiến sĩ tình báo, một nữ chiến sĩ biệt động năm xƣa hôm
nay là bí thƣ huyện uỷ. Hoàn cảnh xuất thân của họ khác nhau, con đƣờng đi
của họ không giống nhau, nhƣng họ lại gặp nhau ở chỗ đều có tính cách mạnh
mẽ, đều tôn thờ một cách sống: sống say mê, sống hết mình cho một niềm tin
tốt đẹp nên đều có khả năng để lại “dấu vết” trong dòng thời gian miên viễn.
Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985) của Ma Văn Kháng, Cù
lao Tràm (1985) của Nguyễn Mạnh Tuấn khẳng định nhân cách của những
ngƣời “đi trƣớc thời đại”, biết “phản biện” lại chân lí cũ, chỉ ra cái lỗi thời của
cơ chế kinh tế bao cấp và cái bất cập trong những tiêu chí đánh giá con ngƣời
nặng về ý thức hệ... Ở các tác phẩm này, bên cạnh cảm hứng ngợi ca đã xuất
hiện cảm hứng phê phán, nhận thức lại; góc độ quan sát đánh giá con ngƣời
dịch chuyển dần về phía đạo đức, thế sự. Sự dịch chuyển này nhìn bề ngoài

tƣởng nhƣ đơn giản nhƣng đó là cả một quá trình trăn trở vật vã, tìm tòi thầm
lặng mà quyết liệt của những nhà văn có mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc sống
và có ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình. Những tìm tòi bƣớc đầu
này đã mở ra cho văn học những hƣớng tiếp cận mới với hiện thực nhiều mặt,
và là tiền đề để thực sự bƣớc vào giai đoạn đổi mới ở chặng tiếp theo.
b. Chặng đường từ 1986 đến hết thế kỉ XX
Phải đến 1986, khi đất nƣớc chính thức bƣớc vào thời kì đổi mới, trong
không khí dân chủ của đời sống văn học, tiểu thuyết mới thực sự đƣợc thay da
đổi thịt. Diện mạo của tiểu thuyết ở chặng này có thể hình dung một cách giản
lƣợc qua các cụm từ: cảm hứng nhìn thẳng vào sự thật với tinh thần nhân bản.
Tiểu thuyết, với đặc trƣng thể loại riêng biệt, đã bộc lộ ƣu thế của mình trong
cách “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Và tiểu
thuyết bƣớc vào mùa nở rộ! Đội ngũ ngƣời viết ngày càng đông đúc, số lƣợng
tác phẩm ngày càng dồi dào. Có thể kể ra đây hàng loạt các tác phẩm đã làm


×