Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BÀI TẬP TÌNH HUỐNG: Xử lý hành vi trốn thuế trong hoạt động kinh doanh lâm sản trên địa bản huyện Thanh Thủy Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.42 KB, 14 trang )

Lời nói đầu
Lịch sử xã hội loài ngời đã chứng minh rằng Thuế ra đời là một sự cần
thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà Nớc. Nhà
nớc sử dụng thuế là một công cụ quan trọng để thực hiện các chức năng
nhiệm vụ của mình. Là một cán bộ công chức ngành Kho bạc sau khi học
xong chơng trình bồi dỡng kiến thức quản lý Nhà nớc chơng trình chuyên
viên mở tại Kho bạc Nhà nớc, tôi đã có những nhận thức rõ hơn về những vấn
đề quản lý Nhà nớc, nhất là trong lĩnh vực quản lý Nhà nớc về Tài Chính
Kho bạc - Thuế. Nhằm tận thu cho Ngân sách Nhà nớc, tăng cờng bồi dỡng
các nguồn thu, trong công cuộc cải cách thuế bớc II, công tác quản lý về thu
thuế cuả ngành Thuế hiện nay còn gặp rất nhiều những khó khăn, thờng phải
xử lý những tình huống có tính chất phức tạp. Xuất phát từ thực tế của công
tác quản lý thu thuế, Tôi xin đợc đề cập tới một vấn đề sau đây có liên quan
đến công tác quản lý thu thuế: Về việc xử lý hành vi trốn thuế trong hoạt
động kinh doanh Lâm sản trên địa bàn huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tiểu luận gồm bốn phần:
Phần I: Mô tả tình huống
Phần II: Phân tích tình huống
Phần III: Xây dựng phơng án giải quyết
Phần IV: Các giải pháp, kiến nghị.

Phần I : Mô tả tình huống
Bối cảnh và diễn biến
Một nhân viên thuộc Xí nghiệp vận tải chế biến lâm sản Thanh Thuỷ có
tên là Nguyễn Nhật Minh đã sử dụng vốn tự có của mình và vốn vay của xí
nghiệp phải trả lãi để thu gom lâm sản, và phải tự chịu trách nhiệm trớc kết
quả kinh doanh của mình theo cơ chế khoán (mua đứt bán đoạn) với xí nghiệp
(lời ăn lỗ chịu).


Ngày 10/09/2001, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, Đội


thu thuế đờng sông huyện Thanh Thuỷ đã phát hiện trên địa bàn thuộc đội
quản lý tại khu vực xã Tân Phơng có một số đối tợng thu mua lâm sản tập kết
tại bến đò đóng thành từng bè. Khi đội kiểm tra đã xác định đợc số hàng trên
là của ông Nguyễn Nhật Minh gồm có : 900 tấn hàng sợi dài (tre, mai, diễn
và 50m3 gỗ bồ đề. Số hàng này ông Nguyễn Nhật Minh đã thuê ngời chia
thành nhiều tổ đứng ra mua gom và tập kết lại bến. Đội thu thuế đờng sông đã
kiểm tra, đội thu gom đã không xuất trình đợc các giấy tờ thủ tục có liên quan
đến việc thu mua lâm sản. Đội thuế đã làm biên bản và báo cáo về Chi cục
Thuế huyện. Chi cục Thuế đã làm việc với Xí nghiệp vận tải và chế biến lâm
sản và có biên bản xác nhận ông Nguyễn Nhật Minh là cán bộ thuộc biên
chế làm thủ kho của Xí nghiệp và Xí nghiệp cho phép thu mua lâm sản cho xí
nghiệp, ông Minh sử dụng vốn tự có của mình và vốn vay của Xí nghiệp phải
trả lãi và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh theo cơ chế
khoán. Lợi nhuận thu đợc ông Minh đợc hởng 100% và toàn quyền phân
phối . Xí nghiệp vận tải và chế biến lâm sản chỉ mua hàng lâm sản thuộc loại
sợi dài của ông Minh mua thu gom. Trong năm 2000 ông Minh đã bán hết
cho xí nghiệp với doanh số xí nghiệp xác nhận là 2,3 tỷ đồng.
Khi kiểm tra thực tế cũng nh quá trình điều tra xác minh về thủ tục pháp
lý ông Minh và các tổ thu mua do ông Minh thuê thu mua không xuất trình đợc 1 loại thủ tục giấy tờ nào có liên quan đến việc thu mua lâm sản(nh các thủ
tục kê khai, đăng ký và các chứng từ sổ sách kế toán, hoá đơn nhập, xuất kho
kiểm phiếu vận chuyển hàng hoá nội bộ, lệnh điều động của xí nghiệp, các
chứng từ nộp thuế: thuế môn bài: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh
nghiệp...)
Từ thực tế hoạt động kinh doanh theo cơ chế khoán giữa cá nhân với xí
nghiệp vận tải chế biến lâm sản nêu trên căn cứ vào pháp luật hiện hành:

2


- Khoản 1 điều 12 Luật Thuế Giá trị Gia tăng quy định: Cơ sở kinh

doanh kể cả các cơ sở trực thuộc cơ sở đó. Phải đăng ký nộp thuế giá trị gia
tăng với cơ quan thuế...
- Điều 6 mục I Thông t số 173/1998/TT-BC quy định: Cá nhân, làm
việc trong các tổ chức kinh tế nhận khoán tự chịu trách nhiệm về hoạt động
kinh doanh....
- Điều 5 mục I phần C Thông t số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998 của
Bộ Tài chính quy định: Cơ sở thực hiện cơ chế khoán cho tập thể, cá nhân
kinh doanh theo phơng thức tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh thì
tập thể, cá nhân nhận khoán phải trực tiếp đăng ký kê khai nộp thuế giá trị gia
tăng với cơ quan kinh doanh....
Nh vậy: Theo quy định của luật pháp hiện hành ông Minh đã không làm
thủ tục đăng ký, kê khai và nộp các loại thuế. Do đó trên cơ sở hồ sơ và các
tài liệu điều tra đã thu thập đợc Chi cục Thuế huyện Thanh Thuỷ đã ra Quyết
định số 15/QĐ-CCT ngày 5/10/2001 xử phạt vi phạm hành chính và truy thu
thuế đối với ông Nguyễn Nhật Minh với tổng số các khoản là 120 triệu đồng.
Sau khi nhận đợc quyết định xử phạt, ông Nguyễn Nhật Minh đã không
chấp hành và có đơn khiếu nại gửi Tỉnh Uỷ, UBND tỉnh, Cục thuế tỉnh,
UBND huyện Thanh Thuỷ và Chi cục thuế huyện Thanh Thuỷ. Nội dung đơn
khiếu nại của ông Minh khẳng định ông Minh là ngời của Xí nghiệp, thu mua
lâm sản nguyên liệu giấy cho Xí nghiệp vận tải và chế biến lâm sản, việc thu
thuế đối với ông Minh là không đúng vì Xí nghiệp đã nộp thuế đầy đủ, do đó
ông Minh không nhất trí với quyết địng của Chi cục Thuế.
Chi cục thuế huyện Thanh Thuỷ đã có Công văn số 20/QĐ-CCT ngày
11/10/2001 trả lời đơn khiếu nại của ông Minh. Với công văn trả lời này của
Chi cục thuế Thanh Thuỷ, ông Minh vẫn không nhất trí nên tiếp tục khiếu
nại. Chi cục Thuế đã báo UBND huyện Thanh Thuỷ và cơ quan cấp trên xin ý
kiến chỉ đạo giải quyết.

3



Ngày 25/10/2001 UBND tỉnh Phú Thọ có công văn chỉ đạo với nội dung:
Cục thuế phối hợp với UBND huyện Thanh Thuỷ chỉ đạo Chi cục Thuế thực
hiện các biện pháp để thu đủ số tiền.
Ngày 27/10/2001 UBND đã họp với Cục thuế, Chi cục Thuế Thanh Thuỷ
và cơ quan liên quan để xét lại Quyết định số 15/QĐ-CCT ngày 15/10/2001
của Chi cục Thuế Thanh Thuỷ. Cùng ngày 27/10/2001 Chủ tịch UBND huyện
Thanh Thuỷ đã có Quyết định số 25/QĐ-UB xử phạt hành chính trong lĩnh
vực thuế đối với ông Minh. Tại quyết định này ghi rõ:
- Truy thu thuế môn bài :
8.500.000đ
- Truy thu thuế giá trị gia tăng :
21.000.000đ
- Truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp :
38.000.000đ
- Truy thu thuế sử dụng đất nông nghiệp :
5.000.000đ
- Phạt hành chính trong lĩnh vực thuế :
3.000.000đ
Tổng cộng số tiền thuế và tiền phạt :
67.850.000đ
(Trong số tiền thuế đợc giải trình số thuế năm 2000 là : 54.000.000đ; Số
thuế và tiền phạt còn lại là thuế của lô hàng năm 2001 là :13.850.000đ)
Sau khi có Quyết định số 25/QĐ-UB của UBND huyện Thanh Thuỷ xử
phạt vi phạm hành chính và truy thu tiền thuế, ông Nguyễn Nhật Minh đã
phải nộp số tiền theo quyết định trên tại Chi cục Thuế huyện Thanh Thuỷ.
Nhng do không nhất trí với quyết đinh xử phạt của Chi cục Thuế và quyết
định của Chủ tịch UBND huyện Thanh Thuỷ, ngày 20/11/2001 ông Nguyễn
Nhật Minh có đơn khiếu nại tới Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ và đề nghị Toà
án giải quyết với lý do cho rằng việc kinh doanh nguyên liệu giấy là làm cho

Xí nghiệp, đợc Xí nghiệp trả lơng và giao nhiệm vụ, đã làm thủ tục khi khai
thác, Xí nghiệp vận tải và chế biến lâm sản đã nộp Thuế Giá trị Gia tăng cho
Cục thuế tỉnh Phú Thọ. Lô hàng bị giữ và đang tập kết để chuẩn bị vận
chuyển về xí nghiệp .
Để xử lý tình huống trên theo đúng quy định của pháp luật. Trớc tiên
chúng ta phải đề ra đợc mục tiêu cần xử lý.

4


Phần II: Phân tích tình huống
1- Cơ sở lý luận và mục tiêu xử lý:
Sau khi nghiên cứu tình huống trên chúng ta thấy có những mục tiêu cần
phải xử lý nh sau:
- Việc ông Nguyễn Nhật Minh thực hiện kinh doanh thu mua hàng lâm
sản dùng làm nguyên liệu giấy cho Xí nghiệp vận tải và chế biến lâm sản mà
không kê khai đăng ký, không làm nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nớc thì cần
phải làm rõ và xử lý nghiêm khắc nhằm đảm bảo kỷ cơng của pháp luật.
- Việc cơ quan chức năng Chi cục Thuế huyện Thanh Thuỷ, UBND
huyện là cơ quan quản lý Nhà nớc thì việc xử lý giải quyết vụ việc trên đã
đúng thẩm quyền quy định của pháp luật hay cha?
2- Phân tích nguyên nhân và hậu quả.
Để có những phơng án giải quyết vụ việc trên đợc hợp lý hợp tình theo
đúng quy định của pháp luật thì chúng ta cần phải đi sâu phân tích, đánh giá
những diễn biến, nguyên nhân, hậu quả. Qua đó thấy đợc bản chất của vấn đề.
Từ đó sẽ tìm đợc phơng án giải quyết tối u nhất.
Phân tích nguyên nhân ông Nguyễn Nhật Minh có đơn khiếu nại lên
Toà án Nhân dân tỉnh Phú Thọ đề nghị giải quyết về việc ông Minh không
nhất trí với quyết định xử phạt của Chi cục thuế Thanh Thuỷ và Quyết định
của ông Chủ tịch UBND huyện Thanh Thuỷ xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực thuế và truy thu tiền thuế đối với ông Nguyễn Nhật Minh.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn đội thu thuế đờng sông
thuộc Chi cục thuế huyện Thanh Thuỷ kiểm tra và đã phát hiện có một lô
hàng lâm sản gồm 900 tấn hàng thuộc loại sợi dài (tre, mai, diễn) và 50m 3 gỗ
bồ đề đã đợc tập kết và đóng bè tại bến sông thuộc địa bàn đội thuế quản lý.
5


Đội thuế đã lập biên bản và báo cáo về Chi cục Thuế. Qua điều tra xác định
đợc chủ của lô hàng trên là của ông Nguyễn Nhật Minh là nhân viên thủ kho
của Xí nghiệp vận tải và chế biến lâm sản. Ông Minh đã đợc xí nghiệp cho
phép thu mua lâm sản cho xí nghiệp bằng vốn tự có của mình và vốn vay của
xí nghiệp nhng phải trả theo lãi suất. Ông Minh phải tự chịu trách nhiệm về
kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Lãi ông Minh đợc hởng 100% và đợc
toàn quyền phân phối lợi nhuận. Nếu thua lỗ ông Minh phải tự chịu. Xí
nghiệp chỉ trả lơng cho ông Minh về công việc làm thủ kho. Theo số liệu xác
nhận của Xí nghiệp vận tải và chế biến lâm sản trong năm 2000 ông Minh đã
bán cho Xí nghiệp số lâm sản (Xí nghiệp chỉ thu mua lâm sản loại hàng sợi
dài) có doanh số là: 2,3 tỷ đồng.
Chi cục thuế đã tiến hành kiểm tra về thủ tục pháp lý của lô hàng tập
kết tại bến sông và số hàng mà ông Minh đã bán cho xí nghiệp năm 2000,
ông Minh đã không xuất trình đợc một loại giấy tờ gì có liên quan đến việc
thu mua lâm sản (nh không có giấy phép kinh doanh, không có môn bài,
không đăng ký nộp thuế...).
Căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành Chi cục thuế huyện
Thanh Thuỷ đã ra Quyết định số 15/QĐ-CCT ngày 5/10/2001 đã phạt hành
chính và truy thu thuế đối với ông Nguyễn Nhật Minh tổng các khoản phải
nộp là: 120.000.000đ (một trăm hai mơi triệu đồng chẵn)
Từ những diễn biến của sự việc trên cho thấy có những nguyên nhân
sau đây:

- Ông Minh vì lợi ích cá nhân đã không có ý thức tự giác chấp hành đầy
đủ các chính sách Pháp luật quy định của Nhà nớc về trách nhiệm của ngời có
hoạt động kinh doanh. Ông Minh đã không làm thủ tục kê khai đăng ký nộp
thuế, cố tình trốn thuế (trong khi đã kinh doanh từ năm 2000 ) vi phạm Luật
thuế hiện hành của Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

6


- Việc vi phạm của ông Minh sẽ dẫn đến những hậu quả nh gây thất thu
cho Nhà nớc, gây một ảnh hởng không tốt giữa các đối tợng kinh doanh với
nhau tạo ra một sân chơi không bình đẳng, tạo ra sự cạnh tranh không lành
mạnh điều đó sẽ gây ảnh hởng lớn đến sự phát triển kinh tế.
- Mặt khác ông Nguyễn Nhật Minh đã kinh doanh thu mua gom lâm
sản từ năm 2000 đến nay tháng 10/2001 đội thu thuế đờng sông mới phát hiện
ra. Điều này cho thấy việc quản lý đối tợng kinh doanh trên địa bàn của các
cơ quan ban nghành còn cha chặt chẽ, còn buông lỏng, có khe hở. Do đó đã
vô tình tạo điều kiện cho đối tợng kinh doanh trốn lậu thuế.
Nh vậy việc thực hiện tuân thủ pháp luật của đối tợng kinh doanh không
nghiêm là một biểu tợng coi thờng kỷ cơng, phép nớc.
Sau khi Chi cục Thuế huyện Thanh Thuỷ đã ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính và truy thu thuế đối với ông Nguyễn Nhật Minh. Ông Minh
đã không chấp hành và có đơn khiếu nại gửi Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Phú Thọ,
UBND huyện Thanh Thuỷ và Chi cục Thuế huyện. Ngày 11/5/2001 Chi cục
Thuế Thanh Thuỷ đã có Công văn số 20/QĐ-CCT trả lời đơn khiếu nại của
ông Minh. Do không nhất trí với trả lời của Chi cục thuế huyện Thanh Thuỷ
nên tiếp tục có đơn khiếu nại. Chi cục thuế huyện Thanh Thuỷ đã báo cáo
UBND huyện Thanh Thuỷ và cơ quan cấp trên xin hớng dẫn giải quyết.
Nh vậy căn cứ vào điểm 6 mục I Thông t số 173/1998/TT-BTC ngày
22/12/1998 của Bộ Tài chính quy định: Các cá nhân, các nhóm cá nhân làm

việc trong tổ chức nhận khoán, tự chịu trách nhiệm về hoạt kết quả động kinh
doanh.... và pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì việc ra quyết định của
Chi cục Thuế huyện Thanh Thuỷ về truy thu thuế và phạt vi phạm hành chính
đối với ông Nguyễn Nhật Minh là hoàn toàn đúng theo quy định của Pháp
luật.

7


Ngày 25/10/2001 UBND tỉnh Phú Thọ có công văn chỉ đạo với nội
dung: Cục thuế phối hợp với UBND huyện Thanh Thuỷ, chỉ đạo Chi cục
Thuế thực hiện các biện pháp để thu đủ số tiền thuế.
Sau khi có sự chỉ đạo của UBND tỉnh Phú Thọ về việc xử lý vụ việc của
ông Nguyễn Nhật Minh, ngày 27/10/2001 Chủ tịch UBND huyện đã họp với
Cục Thuế , Chi cục Thuế và các ngành liên quan để xem xét lại Quyết định số
15/QĐ-CCT ngày 5/10/2001 và cùng ngày 27/10/2001 Chủ tịch UBND huyện
đã có Quyết định số 25/QĐ-UB xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thuế đối với ông Nguyễn Nhật Minh, trong quyết định ghi rõ: truy thu thuế,
số thuế của năm 2000 và năm 2001 là 64.850.000đ; phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thuế là: 3.000.000đ. Tổng số tiền phạt là: 67.850.000đ
Nh vậy khi xem xét báo cáo của Chi cục thuế huyện Thanh Thuỷ và có
sự chỉ đạo của UBND tỉnh Phú Thọ. UBND huyện Thanh Thuỷ đã họp với các
ngành có liên quan và đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thuế đối với ông Nguyễn Minh Hoàng là cán bộ xí nghiệp vận tải và chế
biến lâm sản có hoạt động kinh doanh thu mua lâm sản nhng không đăng ký,
trốn thuế, với số tiền phạt là 3.000.000đ là đúng quy định của pháp luật. Nhng
trong quyết định này còn có cả phần xử phạt truy thu thuế của ông Minh với
số tiền là : 64.850.000đ là trái thẩm quyền đợc quy định tại Điều 27 và khoản
2 và 3 Điều 11 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 6/7/1995 . Vì vậy
quyết định này là không hợp pháp.

Nh vậy khi ra quyết định Chủ tịch UBND huyện đã cha chú ý đến thẩm
quyền của Chủ tịch UBND huyện đã đợc quy định trong pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính.
Điều 27 - Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định thẩm quyền xử
lý vi phạm hành chính của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh:

8


Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(sau đây gọi chung là cấp huyện) có quyền:
a

a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 10.000.000 đồng;
c) Quyết định việc áp dụng các hình thức xử phạt bổ xung, các biện
pháp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 11 của pháp lệnh này, trừ trờng
hợp tớc quyền sử dụng giấy phép do cơ quan Nhà nớc cấp trên thì cấp Chủ
tịch UBND cấp huyện ra quyết định đình chỉ hành vi vi phạm và đề nghị cơ
quan Nhà nớc có thẩm quyền thu hồi giấy phép .
Điều 11 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính qui định các hình thức
xử phạt vi phạm hành chính.
1. Đối với mỗi vi phạm hành chính cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu
một trong các hình thức xử phạt sau đây:
a

a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.


2. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm cá nhân, tổ chức vi phạm hành
chính còn bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ xung sau đây:
a) Tớc quyền sử dụng giấy phép;
b) Tịch thu tang vật, phơng tiện sử dụng để vi phạm hành chính.
3. Ngoài các hình thức xử phạt qui định tại khoản 1 và 2 Điều này, cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện
pháp dới đây:
a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành
chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
b) Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trờng sống, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
c) Buộc bồi thờng thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra đến
1.000.000đ;
9


d) Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con ngời, văn hoá
phẩm độc hại.
Căn cứ vào các qui định xử lý vi phạm hành chính, việc ra quyết định của
Chủ tịch UBND huyện Thanh Thuỷ là sai thẩm quyền , Việc ra quyết đinh sai thẩm
quyền của ông Chủ tịch huyện có thể do những nguyên nhân sau đây:
- Do bộ phận tham mu cho Chủ tịch năng lực còn yếu kém.

- Do trình độ quản lý Nhà nớc, việc nghiên cứu các qui định của pháp luật
còn cha sâu.
Từ việc ra quyết định của Chủ tịch UBND huyện không đúng thẩm
quyền có thể dẫn đến những hậu qủa sau:
- Làm giảm uy tín của các cơ quan quản lý Nhà nớc.
- Làm ảnh hởng đến nhận thức của các hộ kinh doanh về hiệu lực, quyền
lực của Nhà nớc.


Phần III: xây dựng phơng án giải quyết.
Với tình huống trên có thể sử dụng 2 phơng án giải quyết.

10


* Phơng án 1: Giữ nguyên hiệu lực Quyết định số 25/QĐ-UB về việc xử
phạt vi phạm hành chính và truy thu thuế đối với ông Nguyễn Nhật Minh với
tổng số tiền các khoản là: 67.850.000đ.
* Thực hiện phơng án 1 thì sẽ có những tích cực sau:
- Đảm bảo đợc quyền uy của Pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
- Đảm bảo đợc tính nghiêm minh của pháp luật mà mọi thành viên có
hoạt động kinh doanh thuộc đối tợng điều chỉnh của pháp luật phải thực hiện.
* Thực hiện phơng án 1 thì có những mặt không tích cực: Do việc ra
quyết định không đúng thẩm quyền sẽ dẫn đến việc lạm dụng quyền hạn, dẫn
đến sự chồng chéo và làm giảm hiệu lực của quyết định quản lý, gây sự phản
ứng trong Nhân dân.
* Phơng án 2: Chủ tịch UBND huyện Thanh Thuỷ sẽ ra quyết định thu
hồi, huỷ bỏ quyết định đã ra sai thẩm quyền quy định của Nhà nớc. Đồng thời
sẽ ra quyết định khác đúng thẩm quyền.
Thực hiện phơng án này sẽ làm giảm uy quyền của cơ quan quản lý
Nhà nớc, làm giảm sự tín nhiệm trong nhân dân do ra quyết định không đúng
thẩm quyền nên phải thu hồi quyết định.
Nhng bên cạnh đó có mặt tích cực là đảm bảo đợc sự tuân thủ pháp
luật của các cơ quan quản lý Nhà nớc là phải thực hiện quản lý Nhà nớc theo
đúng chức năng, thẩm quyền. Do đó sẽ tăng cờng đợc pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Từ việc phân tích những u nhợc điểm của 2 phơng án trên chung ta có
thể đi đến quyết định là chọn phơng án 2. Bởi vì khi có một quyết định đúng
thẩm quyền của cơ quan quản lý Nhà nớc sẽ làm cho hiệu lực cuả quyết định

đợc thực hiện nghiêm minh và cũng sẽ không tạo đợc khe hở cho các đối tợng
chịu trách nhiệm thi hành theo quyết định có dịp để trì trệ, chống đối.

11


Phần IV: Các giải pháp và kiến nghị
1- Giải pháp
Sau khi xem xét và đã lựa chọn đợc phơng án giải quyết tình huống,
UBND huyện Thanh Thuỷ sẽ ra ngay một quyết định mới về việc rút Quyết
định số 25/QĐ-UB ngày 27/7/2001 của Chủ tịch UBND huyện Thanh Thuỷ
về việc xử phạt hành chính và truy thu thuế đôí với ông Nguyễn Nhật Minh.
Sau 2 ngày UBND huyện Thanh Thuỷ sẽ có công văn do Chủ tịch
UBND huyện ký, trong đó nêu rõ Quyết định số 25/ QĐ-UB ngày 27/10/2001
Chủ tịch UBND huyện đã ban hành là không đúng thẩm quyền, Quyết định số
25/QĐ-UB không còn hiệu lực thi hành. Giao cho cơ quan Thuế, phối hợp với
các cơ quan chức năng giải quyết theo thẩm quyền.
Sau khi có quyết định của Chủ tịch UBND huyện Thanh Thuỷ thu hồi
Quyết định số 25/QĐ-UB và quyết định giao cho cơ quan thuế sử lý theo
thẩm quyền. Căn cứ vào các luật thuế, căn cứ vào pháp lệnh xử phạt vi phạm
hành chính, căn cứ vào các văn bản pháp quy của Nhà nớc Chi cục thuế

12


huyện Thanh Thuỷ sẽ ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính và truy thu số
tiền thuế trốn lậu thuế của ông Nguyễn Nhật Minh.
Chi cục thuế Thanh Thuỷ phối kết hợp với các cơ quan liên quan yêu
cầu ông Nguyễn Nhật Minh căn cứ vào quyết định xử phạt của Chi cục thuế
Thanh Thuỷ để thực hiện. Ông Minh phải nộp đủ số tiền đã trốn lậu thuế do

kinh trốn thuế và số tiền phạt do có hành vi vi phạm trong lĩnh vực thuế vào
Ngân sách Nhà nớc theo đúng quy định.
Qua vụ việc của ông Nguyễn Nhật Minh nêu trên cho thấy việc chấp
hành luật pháp của đối tợng kinh doanh cha tốt, còn có hiện tợng cố tình trốn
tránh nghĩa vụ đối với Nhà nớc, tìm mọi kẽ hở của pháp luật để thu lợi làm
giàu bất chính. Bên cạnh đó việc quản lý đối tợng có hoạt động kinh doanh
của các cơ quan chức năng còn cha chặt chẽ đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho
đối tợng kinh doanh trốn thuế. Mặt khác việc xử lý tình trạng vi phạm chính
sách thuế của cơ quan chức năng còn có tình trạng sai thẩm quyền qui định
của Nhà nớc dẫn đến làm giảm sức mạnh của quyền uy của cơ quan quản lý
Nhà nớc. Do đó cũng làm giảm sự tín nhiệm của nhân dân.
2- Một số kiến nghị:
- Để nhằm nâng cao tính tự giác của đối tợng nộp thuế thì chúng ta cần
phải tăng cờng tuyên truyền giáo dục, động viên nhân dân bằng nhiều hình
thức để nhân đân thấy đợc tầm quan trọng cũng nh nghĩa vụ đối với Nhà nớc
mà từ đó tự giác chấp hành chính sách qui định của Nhà nớc thực hiện
nghiêm luật pháp.
- Cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà
nớc trong việc quản lý các đôí tợng có hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
để hớng họ đi vào hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
- Cần phải thờng xuyên tăng cờng bồi dỡng kiến thức quản lý Nhà nớc
do đội ngũ công chức, viên chức cả về lý luận và thực tiễn để không ngừng
nâng cao trình độ nhằm đảm bảo đáp ứng đợc những đòi hỏi bức súc của công
13


cuộc xây dựng và bảo vệ đất nớc ta phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nớc mạnh,
xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Kết luận
Trên đây là một tình huống xảy ra có thật, sự việc diễn biến khá phức

tạp, tại một huyện của tỉnh Phú Thọ. Để cho tình huống có thêm phần sinh
động, tôi đã có phần h cấu. Do đó rất mong sự thông cảm của các Thầy Cô
giáo và bạn đọc. Với trình độ kiến thức còn hạn hẹp về công tác quản lý Nhà
nớc và kinh nghiệm thực tiễn ít nên bài tiểu luận không thể tránh khỏi những
khiếm quyết. Rất mong sự chỉ bảo của các Thầy Cô giáo và sự góp ý của bạn
đọc.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy giáo, cô giáo của nhà trờng đã
giảng dạy chơng trình lớp bồi dỡng kiến thức quản lý Nhà nớc ngạch chuyên
viên ngành Kho bạc Nhà nớc đã giúp và tạođiều kiện để tôi hoàn thành đợc
tiểu luận của mình ./.

14



×