Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Những hạn chế của quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư và giải pháp khắc phục những hạn chế trên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.71 KB, 17 trang )

Đề tài:
Những hạn chế của quản lý nhà nước trong hoạt động
đầu tư và giải pháp khắc phục những hạn chế trên.

Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư là một trong những nội dung quan trọng của
công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta, đồng thời đó cũng là động lực quan trọng cho
việc hoàn thiện quá trình công nghiệp hóa.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện công tác quản lý Nhà nước đối với
hoạt động đầu tư còn bộc lộ một số hạn chế sau:


Chương I Lý luận chung về quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư.
1.Khái niệm.
1.1 Đầu tư:
là hoạt động có tính liên ngành, do đó quản lý hoạt động đầu tư là yêu cầu khách q
uan nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Quản
lý , theo nghĩa chung, là sự tác tác động có mục đích của chủ thể vào các đối
tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra.

1.2 Quản lý đầu tư:
là sự tác động liên tục, có tổ chức, định hướng mục tiêu vào
quá trình đầu tư (bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận
hành kết quả đầu tư) và các yếu tố đầu tư, bằng một hệ thống đồng bộ các biện


pháp kinh tế xã hội, tổ chức kỹ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được kết
quả, hiệu quả đầu tư và hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, trong điều kiện cụ thể xác
định trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật khách quan và quy luật đặc thù
của đầu tư.

2. Sự cần thiết phải có sự quản lí của nhà nước đối với hoạt động đầu


tư nói chung và các dự án nói riêng.

2.1 Đối với các dự án dân lập :
-

Đầu ra của các dự án là sản phẩm, dịch vụ và chất thải các loại .Với đầu

ra là chất thải , rất có hại cho sức khoẻ của cộng đồng, nhà nước không thể bỏ
qua. Ngay cả những sản phẩm hoặc dịch vụ được tạo ra từ dự án cũng không
đương nhiên là có lợi cho cộng đồng mà vẫn có thể có hại. Vì vậy, nhà nước
phải quản lí dự án dân lập để ngăn ngõa các ảnh hưởng tiêu cực của đầu ra do dự
án gây nên.
-

Đầu vào của dự án là các yếu tố mà sự hoạt động dự án sẽ sử dông : tài

nguyên, lao động, máy móc, thiết bị. Việc sử dụng các đầu vào đó của dự án sẽ
ảnh hưởng đến cộng đồng về nhiều mặt. Vì vậy, nhà nước cần phải quản lí các
dự án dân lập để cân đối các nguồn lực trong nền kinh tế, tránh rối loạn, thừa
thiếu trong nền kinh tế.
-

Các đặc tính của mỗi cơng trình do dự án tạo ra, chỉ tiêu kiến trúc, kết

cấu, địa điểm phân bố… có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an


ninh… rất sâu sắc. Vì vậy, nhà nước củng phải quản lí các dự án dân lập trên
các mặt quy hoạch , xây dựng …
-


Nhà nước quản lí dự án dân lập để ngăn ngõa các hiện tượng áp bức, bóc

lột, bất cơng xảy ra trong lịng dự án tư nhân.
2.2 Đối với dự án quốc gia
Dự án nhà nước là những dự án sử dụng vốn nhà nước bỏ ra hoặc coi nhu
nhà nước bỏ ra. Chính vì thế, mọi dự án quốc gia đều có một ban quản lý dự án
kèm theo. Các ban này có thể là lâm thời tồn tại cùng dự án nếu là dự án lớn,
quan trọng, kéo dài nhiều năm. Ban này cũng có thể thường nhiệm tồn tại ngay
cả khi không có dự án nào hoặc cùng lúc quản lý nhiều dự án. Nhưng sự quản lý
của các ban quản lý dự án chưa phải là tất cả sự quản lý của nhà nướcđối với dự
án quốc gia mà các ban quản lý này vẫn phải chịu sự quản lý của nhà nước bởi
hai lý do sau:
- Ban quản lý dự án chỉ chuyên quản với tư cách là chủ đầu tư. Họ là người
đại diện cho nhà nước về mặt vốn đầu tư, có sứ mạng làm cho vốn đó sớm biến
thành mục tiêu đầu tư. Cho nên các ảnh hưởng khác của dự án không được họ
quan tâm hoặc không có trách nhiệm và không đủ khả năng quan tâm. Do đó,
nếu không có sự quản lý của nhà nước với các ban quản lý này thì các dự án
quốc gia trong khi đeo đuổi các mục đích chuyên ngành có thể làm tổn hại đén
quốc gia ở các mặt họ không lường hết được hoặc không quan tâm.
- Bản thân các ban quản lý dự án cũng không thực hiện trọn vẹn trong trách
nhiệm đại diện sở hữu vốn. Từ đó, sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả,


thậm chí chiếm cơng vi tư.

3 Các ngun tắc quản lý hoạt động đầu tư.

Thực chất hoạt động đầu tư cũng là một quá trình kinh tế. Mục đích của đầu
tư là tạo nên sản phẩm mang tính tổng hợp để vận hành khai thác nhằm mục tiêu

phục vụ nền kinh tế hoặc phục vụ những mục tiêu xã hội nhất định. Do đó, quản lý
hoạt động đầu tư cũng tuân theo nguyên tắc của quản lý kinh tế, được vận
dụng vào điều kiện cụ thể của hoạt động đầu ta ở cả cấp vĩ mô và vi mô.
Nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư cần đạt được là:
- Thống nhất giữa chính trị và kinh tế, kết hợp và xã hội.
Vai trò quản lý của Nhà nước thể hiện trong sự quản lý đầu tư như: Cơ cấu đầu tư
(cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng lãnh thổ), các chính sách
đối với người lao động hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, các chính sách bảo vệ mơi
trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thể hiện thông qua việc giải
quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa phát triển
kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng và giữa các yêu cầu phát huy nội lực
và tăng cường hợp tác quốc tế.
Kết hợp tốt giữa kinh tế và xã hội là điều kiện cần và là động lực cho sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung và thực hiện mục tiêu đầu tư nói
riêng.
- Tập chung dân chủ:
Nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng trong hoạt động đầu tư, ở hầu
hết các khâu công việc từ việc quản lý quy hoạch, quản lý các yếu tố trọng yếu
của đầu tư ( nhất là quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản, các nguồn lợi thiên
nhiên, bảo vệ cảnh quan, môi trường…) Đối với các nguồn vốn Nhà nước, vốn hu
y động từ cộng đồng, vốn thuộc trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức, tập thể c


òn thể hiện ở các khâu: lập kế hoạch, phân cấp, quản lý trách nhiệm, quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo quản lý ngay từ khi ra quyết định đầu tư , tổ chức thực
hiện đến khi đưa sản phẩm đầu tư vào khai thác, phát huy hiệu quả
-Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ :
Một dự án đầu tư dù của chủ thể nào cũng chịu sự quản lý của ngành kinh tế
kĩ thuật và của địa phương. các cơ quan quản lý ngành (Bộ, Tổng cục … của
trung ương, tương ứng là sở, Cục…ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc,…) chịu

trách nhiệm quản lý chủ yếu về kỹ thuật công nghệ, tiêu chuẩn chất lượng của
ngành, đồng thời quản lý về mặt kinh tế đối với hoạt động đầu tư và vận hành
sau đầu tư theo chức năng được Nhà nước phân cơng. Mặt khác, chính quyền
địa phương, cơ sở chịu trách nhiệm quản lý về mặt hành chính và xã hội, đồ
ng thời thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động
đầu tư ở địa phương theo phân cấp của chính quyền nhà nước cấp trên
- Kết hợp hài hồ các loại lợi ích trong đầu tư
Trong hoạt động đầu tư, kết hợp hài hồ các loại lợi ích thể hiện sự kết hợp
giữa lợi ích của xã hội đại diện là Nhà nước với lợi ích của cá nhân và tập thể
người lao động, giữa lợi ích của chủ đầu tư, nhà thầu, các cơ quan thiết kế, tư
vấn,dịch vụ và và người hưởng lợi. Sự kết hợp này được đảm bảo bầng chính
sách của Nhà nước, sự thoả thuận theo hợp đờng giữa các đối tượng tham gia
quá trình đầutư, sự cạnh tranh của thị trường thông qua đấu thầu theo quy luật .
-Tiết kiệm và hiệu quả :
Trong đầu tư, tiết kiệm và hiệu quả thể hiện: với một lượng vốn đầu tư nhất
định phải đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất hay phải đạt được hiệu quả
kinh tế- xã hội đã dự kiến với chi phí đầu tư thấp nhất.
Biểu hiện tập trung nhất của nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý
hoạt động đầu tư đối với các cơ sở là đạt được lợi nhuận, đối với xã hội là làm
tăng trưởng GDP của nền kinh tế và tăng sản phẩm cho nền kinh tế quốc
dân,


tăng thu nhập cho người lao động nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trườ
ng, phát triển văn hoá, giáo dục và các sự nghiệp phúc lợi công cộng

Chương II: Những hạn chế của quản lý nhà nước trong hoạt đợng
đầu tư

1. Quy trình quản lý dự án còn rất phức tạp, rườm rà:

Theo quy chế hiện hành, công tác quản lý đầu tư và xây dựng được thực hiện
thông qua nhiều cấp kiểm tra, xét duyệt, quyết định.
Thí dụ, theo điều 10 của Nghị định 52/CP, thì:
+ Đối với công trình nhóm A, phải qua năm cấp dưới đây:
- Cấp lập dự án đầu tư (chủ đầu tư);
- Cấp trên trực tiếp của chủ đầu tư;
Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng các Ban, ngành quản lý dự án đầu tư nếu công
trình đó do Trung ương quản lý; hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương nếu công trình do địa phương quản lý;
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Ngân hàng Nhà nước


Việt Nam, các ngân hàng thương mại, Quĩ Hỗ trợ phát triển (nếu công trình
có sử dụng vốn vay);
- Thủ tướng Chính phủ.
+ Đối với cơng trình thuộc nhóm B, phải qua bốn cấp đầu tiên của qui trình
trên (không qua cấp Thủ tướng Chính phủ).
+ Đối với cơng trình thuộc nhóm C, phải qua ba cấp đầu tiên; (không qua 2
cấp cuối cùng là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước
Việt Nam ...và cấp Thủ tướng Chính phủ).
Như vậy, với một quy trình gồm nhiều cấp như vậy, sẽ rất dễ dẫn tới hiện
tượng dàn trải về trách nhiệm, không có cấp nào chịu trách nhiệm toàn diện
và đầy đủ.
Hơn nữa, trong điều kiện cơ chế quản lý còn nhiều điểm chưa rõ ràng, thiếu
tính minh bạch, thơng tin khơng đầy đủ, việc xác định một dự án đầu tư cụ thể
có hiệu quả kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội là vấn đề khơng dễ dàng và có
đầy đủ tính thuyết phục.

2. Vai trò trách nhiệm của chủ đầu tư chưa rõ ràng. Trình đợ, năng lực
của chủ đầu tư, cán bợ thực hiện các dự án đầu tư cịn nhiều bất cập:


Trong quá trình kiểm tra, thanh tra một số dự án lớn, đã phát hiện thấy có
tình trạng chủ đầu tư giao cho các doanh nghiệp không đủ năng lực chuyên


mơn và tài chính thực hiện cơng trình. Như vậy, dẫn đến những hậu quả tai
hại đối với công trình. Nguyên nhân là do chưa có quy định rõ ràng về trách
nhiệm của chủ đầu tư; không có một chủ đầu tư theo đúng nghĩa.
Trình độ cán bộ thực hiện các dự án đầu tư còn nhiều bất cập. Hiện nay có
tình trạng phổ biến là giám đốc dự án đầu tư đồng thời lại là người trực tiếp
sử dụng cơng trình sau khi hồn thành. Ví dụ cơng trình xây dựng bệnh viện
thường do giám đốc bệnh viện làm chủ dự án; dự án trường học do hiệu
trưởng nhà trường làm chủ dự án; công trình nhà hát do giám đốc nhà hát làm
chủ dự án... Nhưng do những người này không có kiến thức chuyên môn về
quản lý đầu tư và xây dựng nên sai sót, đến khi bị thanh tra phát hiện, thì đổ
cho các nguyên nhân khách quan như không có nghiệp vụ về lĩnh vực quản lý
đầu tư và xây dựng, và nếu như các cơ quan quản lý nhà nước đã thẩm định
và phê duyệt thì đổ lỗi cho các cơ quan đó...
Một trong những nguyên nhân rất đáng quan tâm là năng lực của các chủ
đầu tư, nhất là các chủ đầu tư sử dụng ng̀n vốn ngân sách nhà nước cịn rất
hạn chế ngay từ khâu lập dự án đến các khâu triển khai tiếp theo. Việc hình
thành các PMU như hiện nay, thực chất là thêm một khâu trung gian không
cần thiết, cần nghiên cứu cải tiến, nếu xét thấy không phù hợp với thực tế
quản lý thì giải tán.

3. Đầu tư chưa theo quy hoạch; chất lượng quy hoạch chưa cao; chất l
ượng các báo cáo nghiên cứu khả thi cịn hạn chế; chất lượng phân tích,


thẩm định và đánh giá dự án không theo đúng các chuẩn mực và tiêu chí

rõ ràng.

Chất lượng của cơng tác quy hoạch hiện nay chưa cao, các qui hoạch chưa
thực sự là cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Các Bộ, ngành, địa phương đều
tiến hành xây dựng các quy hoạch; nhưng chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa
qui hoạch ngành và qui hoạch lãnh thổ; chưa có cách tiếp cận tổng thể, toàn
diện; kết quả phổ biến là tình trạng đầu tư cịn chờng chéo, dư thừa cơng suất
chế biến, nhưng lại thiếu nghiêm trọng nguồn nguyên liệu, đầu tư thiếu đồng
bộ, chắp vá, đầu tư nhiều lần, thiết bị cũ nát, lạc hậu, gây lãng phí ng̀n vốn
đầu tư, hiệu quả kém.
Nhiều quy hoạch chưa đủ cụ thể để định hướng đầu tư, không phù hợp với
yêu cầu thực tế không bám sát thực tế phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn
và của từng ngành, lĩnh vực. Các cơng trình, dự án chưa tính đến các điều
kiện và yếu tố cần thiết cho khai thác, sử dụng.
Chất lượng của các quy hoạch còn nhiều hạn chế, cơ sở lý luận, phương
pháp lập chưa phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường; mức độ chuẩn xác thấp;
vì vậy thường xuyên phải điều chỉnh, kém tính ổn định.


4. Đầu tư chưa đúng mục tiêu phát triển; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý,
chưa tạo điều kiện để tăng hiệu quả nền kinh tế, tăng cạnh tranh...

Mục tiêu đầu tư đã được xác định trong nhiều thời kỳ kế hoạch 5 năm và
hàng năm là tập trung đầu tư để chuyển dịch nhanh cơ cấu đầu tư, tăng hiệu
quả của nền kinh tế, nhanh chóng hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, các
vùng kinh tế trọng điểm, tạo điều kiện cho một số sản phẩm chính của nền
kinh tế có qui mô sản xuất lớn, sức cạnh tranh trên thị trường trong và nước.
Tuy nhiên, kết quả của nhiều năm đầu tư chưa thực hiện được mục tiêu đề ra.
Trong nơng nghiệp cịn nặng đầu tư vào thuỷ lợi (chiếm hơn 70% vốn đầu


Nguồn vốn ngân sách Nhà nước đã tập trung chủ yếu cho các công trình hạ
tầng kinh tế và hạ tầng xã hội, nhằm thu hút nhiều hơn các thành phần kinh tế
khác tham gia đầu tư. Nhưng tình trạng đua nhau xây dựng các trụ sở làm
việc với qui mô và trang thiết bị đắt tiền vượt quá xa tiêu chuẩn qui định gây
lãng phí, kém hiệu quả, tạo sự khơng cơng bằng. Bệnh hình thức, phô trương
trong các công trình trụ sở còn rất phổ biến, từ Trung ương đến địa phương.
Việc đầu tư vào các công trình không có khả năng cạnh tranh như các công
trình sản xuất thép, phân đạm và một số sản phẩm khác trong thời gian vừa
qua mà giá thành sản phẩm vượt xa giá thành nhập khẩu sản phẩm cùng loại
là vấn đề rất đáng rút kinh nghiệm và nên tránh trong quá trình xem xét và


triển khai đầu tư.

5. Đầu tư quá phân tán, dàn trải, thời gian xây dựng kéo dài.

Một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư trong nhiều năm
qua là đầu tư quá phân tán. Việc phân cấp quyền ra quyết định đầu tư các dự
án và phân bổ vốn cho các dự án cũng đã được sửa đổi bổ sung theo hướng
phân cấp cho các bộ, các ngành và các địa phương ngày càng nhiều Số vốn đầu tư
lấy ở NSNN bị phân bố giàn trải vào nhiều dự án đầu tư ở nhiều lĩnh vực, nhiều địa
phương chưa có sự tập trung, chú trọng đặc biệt để phát triển nên chưa có sự đột
phá và hiệu quả thật sự
Số dự án đầu tư tăng nhanh qua các năm không tương xứng với tốc độ tăng trưởng
của vốn đầu tư.Nhiều dự án chưa đủ thủ tục cũng được ghi vốn hoặc ngược lại
không có vốn cũng cho triển khai, nhiều dự án công trình kéo dài do thiếu vốn
thậm chí khơng theo kế hoạch

6- Lãng phí và thất thoát trong đầu tư và xây dựng, tỷ lệ vốn đầu tư đưa

vào cơng trình thấp.
Vốn đầu tư thất thoát diễn ra từ khâu chuẩn bị dự án, thẩm định và ph
ê
duyệt dự án đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư và xây dựng. Tình trạng đầu tư
không theo quy hoạch được duyệt; khâu khảo sát nghiên cứu thiếu tính đờng
bộ, khơng đầy đủ các chỉ tiêu kinh tế, khả năng tài chính, ng̀n ngun liệu,


bảo vệ mơi trường, điều tra thăm dị thị trường không kỹ; chủ trương đầu tư
không đúng khi xem xét, phê duyệt dự án đầu tư. Việc thẩm định và phê
duyệt chỉ quan tâm tới tổng mức vốn đầu tư, không quan tâm tới hiệu quả,
điều kiện vận hành của dự án, nên nhiều dự án sau khi hoàn thành và đưa vào
sử dụng không phát huy tác dụng, gây lãng phí rất lớn.
Lãng phí và thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng đang là vấn đề
nhức nhối, cả xã hội quan tâm; kéo dài nhiều năm với mức độ ngày càng trầm
trọng mà đến nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để hạn chế.
Một số Bộ, ngành, địa phương khi xác định mức vốn đầu tư ít quan tâm đến
việc tiết kiệm vốn đầu tư, sử dụng đơn giá, định mức trong tính toán cao hơn
quy định, làm tăng khối lượng, tăng dự toán công trình. Nhiều dự án không
làm đúng thiết kế, chủ đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng
khối lượng, điều chỉnh dự toán để rút tiền và vật tư từ cơng trình.
Ngồi ra, do năng lực quản lý điều hành kém của chủ đầu tư, các ban quản
lý dự án, các tổ chức tư vấn cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn
đầu tư.
Qua kiểm tra một số công trình, đã phát hiện tình trạng lãng phí và thấ
t
thoát vốn nhà nước diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, nhiều dự án, nhiều
lĩnh vực, nhiều cấp; tỷ lệ lãng phí và thất thoát của những cơng trình có mức
lãng phí và thất thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có
cơng trình lên đến 80%. Đó là chưa tính đến những công trình đầu tư kém



hiệu quả, công nghệ sản xuất lạc hậu, sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng
kém, giá thành cao và khơng tiêu thụ được...
Ngun nhân chính, tổng quát của hiện tượng lãng phí và thất thoát nằm ở
chính những cơ chế kiểm soát hiện có; vừa cồng kềnh, vừa chồng chéo nhau,
làm cho có quá nhiều người có thẩm quyền can thiệp vào công trình nhưn
g
không thể xác định được trách nhiệm chính thuộc về ai, do đó khơng thể quản
lý được hoặc quản lý rất kém hiệu quả.
Đặc biệt, cơ chế không quy định rõ chủ thực sự của các công trình. Nế
u
như có được một cơ chế đơn giản, không chồng chéo nhau, trong đó mỗi khâu
chỉ có một người chịu trách nhiệm toàn bộ trước pháp luật, thì chắc chắn tình
hình sẽ không tồi tệ như vậy.

7. Chất lượng cơng trình xây dựng thấp
Chất lượng nhiều công trình rất thấp, đặc biệt đối với các dự án hoàn toàn
sử dụng vốn và nhà thầu trong nước. Các nhà thầu cố đưa giá thầu thấp để
thắng thầu rồi sau đó tìm mọi cách hạ giá thành bù lại phần chênh lệch. Mặt
khác, các nhà thầu cũng như tư vấn giám sát không tuân thủ nghiêm ngặt
đúng quy trình, quy phạm và thiết kế kỹ thuật nên công trình không đảm bảo
chất lượng.


Trong những năm gần đây, tần suất xuất hiện sự cố công trình ngày một
nhanh; tỷ lệ công trình phải sửa chữa ngay khi đưa vào sử dụng ngày càng
tăng; sai phạm xảy ra ở hầu hết các công đoạn, bộ phận hình thành kết cấu
công trình. Do thông tin ban đầu khơng chính xác nên giải pháp thiết kế
thường không phù hợp với điều kiện địa hình, địa chất. Công tác giám sát rất

hình thức.
Đặc biệt, chủ đầu tư có vai trò và quyền lực lớn, nhưng năng lực hạn chế và
bị môi trường nhiều tiêu cực chi phối nên dễ dàng chấp nhận bàn giao các
công trình kém chất lượng.
Một nguyên nhân quan trọng khác là các nhà thầu thường chấp nhận bỏ thầu
thấp; nhưng khi triển khai thi công thì đổ lỗi cho khách quan để xin bổ sung
vốn, hoặc thi công với mức tiết kiệm tối đa, chấp nhận chất lượng các cơng
trình thấp..
Vai trị giám sát thi cơng cịn rất hạn chế, tác dụng khơng đáng kể. Tình
trạng dễ dãi với các nhà thầu của các tư vấn giám sát và của các chủ đầu tư là
một trong những nguyên nhân rất đáng quan tâm nhằm nâng cao hơn nữa chất
lượng của các công trình xây dựng. Với cơ chế giám sát như hiện nay, cơ
quan tư vấn giám sát không độc lập được, nên gây ra tình trạng không khách
quan, gây nên chất lượng kém và tạo điều kiện thất thoát vốn đầu tư.

II. Các giải pháp.


. Quan điểm đổi mới phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế
Các quan điểm chung về phân cấp quản lý kinh tế là (1):
1) Quan điểm thống nhất: Hệ thống nhà nước 4 cấp, mỗi cấp có quyền hạn, trách
nhiệm đầy đủ, rõ ràng;
2) Quan điểm hiệu quả: Phân cấp phải đảm bảo có hiệu quả hơn, việc nào, cấp nào
thực hiện có hiệu quả hơn thì cấp đó thực hiện.
3) Quan điểm khả thi: Phải tạo điều kiện cho việc thực hiện phân cấp, phải chuẩn
bị đầy đủ về mặt thể chế, bộ máy, cán bộ, kinh phí; phân cấp phải với kiểm tra; tổ
chức hệ thống thơng tin đầy đủ, chính xác, kịp thời.
2. Ngun tắc chung về phân cấp trong đầu tư
(1). Phân cấp trong quản lý đầu tư là một yêu cầu khách quan.
Cải cách thể chế nhà nước và tổ chức bộ máy theo nguyên tắc thống nhất quản lý

Nhà nước, có sự phối hợp giữa các cơ quan.
Phù hợp với định hướng chung của cải cách thể chế nhà nước nêu trên, hoàn thiện
quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư cần phải thực hiện theo nguyên tắc chung
này.
(2). Phân cấp phải đồng bộ với các biện pháp quản lý khác trong cơ chế quản lý
kinh tế nói chung.
Vấn đề hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư không thể tách rời với quá trình hoàn
thiện hệ thống luật pháp và cơ chế quản lý kinh tế nói chung vì thế cần phải xem
xét trong mối quan hệ với các luật hiện hành có liên quan và định hướng hoàn
thiện cơ chế quản lý chung trong thời gian tới. Thực tế hoạt động đầu tư đang chi
phối bởi nhiều văn bản dưới luật, trong đó khơng ít những nội dung quy định trong
các văn bản này có sự chồng chéo hoặc không nhất quán; những vấn đề này cần


được xem xét đờng bộ trong việc hồn thiện cơ chế quản lý đầu tư nói chung và
vấn đề phân cấp trong đầu tư nói riêng.
Những tồn tại trong công tác quản lý đầu tư và xây dựng trong thời gian qua không
phải tập trung ở việc phân cấp, uỷ quyền quy định trong các văn bản hiện hành mà
còn ở nhiều vấn đề khác như sự chuẩn xác của các quyết định chưa cao, việc thực
hiện các quyết định, các quy định không nghiêm lại thiếu kiểm tra, theo dõi, giám
sát,....
Mặt khác, phân cấp phải đi đôi với kiểm tra, kiểm soát. Nếu chỉ đặt ra vấn đề phân
cấp một cách đơn thuần thì Nhà nước không kiểm soát được và có thể phản tác
dụng, dẫn tới sự tuỳ tiện, lãng phí hơn.
(3). Cần có tiêu chí, tiêu chuẩn phân cấp rõ ràng, minh bạch, dễ vận dụng cho mỗi
thời kỳ.
Về phân loại các dự án đầu tư, phân cấp, uỷ quyền trong các khâu xét duyệt, thẩm
định và phê duyệt các dự án đầu tư cần phải có tiêu chí và các điều kiện rõ ràng.
Đây là vấn đề trong cơ chế quản lý đầu tư hiện hành chưa được đặt ra hoặc là chưa
được nghiên cứu đầy đủ và cần phải bổ sung để đảm bảo sự hợp lý và thống nhất

trong quản lý đầu tư.
Tiêu chí chung nhất để phân cấp trong quản lý đầu tư là đảm bảo hiệu lực quản lý
đối với các hoạt động đầu tư. Hiệu lực quản lý đầu tư được thể hiện ở 3 yếu tố cơ
bản là thời gian, chất lượng và chi phí; cụ thể là nhanh, đúng tiến độ, đảm bảo chất
lượng theo yêu cầu và với chi phí thấp nhất. Những tiêu chí điều kiện phân cấp
sau:
- Đảm bảo cho việc ra quyết định nhanh nhất.
- Đảm bảo tính đơn nhất trong việc ra quyết định và trách nhiệm đối với một công
việc.


- Cấp quyết định phải là cấp có đủ điều kiện điều hành có hiệu quả nhất hoạt động
đó trong khung khổ luật lệ và chính sách chung.
3. Phân cấp trong từng lĩnh vực cụ thể
(1). Hoàn thiện hệ thống quy hoạch và kế hoạch đầu tư các cấp trên cơ sở đó phân
định rõ trách nhiệm các cấp trong các khâu lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu
tư.
Hầu hết các địa phương đã có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội, một số
đã được cập nhật, điều chỉnh, bổ sung... nhưng phần lớn các qui hoạch này đều
được lập và phê duyệt trong những năm trước đây, với những tiền đề, điều kiện và
hoàn cảnh thực tế khác xa so với tình hình mới hiện nay, do đó, nhiều nội dung
trong các qui hoạch này cần cập nhật, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh.
Nhiều ngành kinh tế kỹ thuật chưa lập quy hoạch phát triển. Quy hoạch hệ thống
kết cấu hạ tầng trong phạm vi toàn quốc đã được phê duyệt khá nhiều, song mức
độ cụ thể để có thể làm căn cứ chắc chắn cho các quyết định đầu tư còn hạn chế;
nhiều quy hoạch cần phải được chi tiết hoá theo từng nhóm ngành, sản phẩm.
Các Bộ quản lý ngành phải có quy hoạch phát triển của ngành mình trong từng giai
đoạn phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và phải lưu ý
đến vấn đề hội nhập quốc tế, phải thường xuyên cập nhật, bổ sung, điều chỉnh. Các
tỉnh, thành phố khi xây dựng qyui hoạch phát triển ngành ở địa phương mình cần

thống nhất ý kiến của các Bộ chuyên ngành để việc đầu tư và xây dựng được hài
hoà, tránh trùng lặp và tăng hệ số sử dụng các công trình đã xây dựng.
Cần có các quy định bắt buộc để các Bộ, ngành, địa phương chỉ xem xét và phê
duyệt các dự án đã nằm trong quy hoạch tránh tình trạng chồng chéo trong đầu tư
và cạnh tranh không cần thiết.
(2). Làm rõ chức năng quản lý nhà nước trong đầu tư để xác định rõ phạm vi và
nội dung phân cấp trong từng lĩnh vực, từng khâu quản lý quá trình đầu tư.


Định hướng phân cấp trong quản lý đầu tư cần xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà
nước đối với từng cấp. Quản lý nhà nước ở cấp Chính phủ chủ yếu là việc xây
dựng chính sách, các tiêu chuẩn quy phạm; hướng dẫn điều tiết thơng qua các
chính sách vĩ mô và kiểm tra, kiểm soát chung trong phạm vi toàn quốc. Các cấp
Bộ, ngành và địa phương thực hiện các chức năng tương ứng phù hợp với thẩm
quyền trong phạm vi quản lý của mình và trên địa bàn.
(3). Xác định rõ tiêu chí, tiêu chuẩn (điều kiện) phân cấp trong các khâu chuẩn bị
đầu tư (thẩm định và phê duyệt quyết định đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư).
Quá trình đầu tư là quá trình liên tục trải qua 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực
hiện đầu tư và quản lý khai thác các đối tượng đầu tư sau khi dự án hoàn thành đưa
vào sử dụng, trong đó giai đoạn chuẩn bị đầu tư có vai trò rất quan trọng trong việc
đảm bảo hiệu quả đầu tư.
Vấn đề phân cấp trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư được xem xét ở 2 vấn đề: (a)
Phân nhóm dự án đầu tư, và (b) Thẩm quyền quyết định đầu tư đối với các nhóm
dự án đầu tư.
4. Nghiên cứu hoàn thiện phân cấp trong khâu chuẩn bị đầu tư
(1). Hồn thiện tiêu chí phân nhóm các dự án đầu tư:
Nghị định 07/2003/NĐ-CP được ban hành, không đề cập đến việc thay đổi qui mô
trong phân nhóm dự án, giữ nguyên phân loại dự án như Nghị định 12/CP, mà chỉ
thay đổi thẩm quyền phê duyệt các dự án đầu tư theo hướng phân cấp mạnh hơn.
Tuy nhiên, cùng với việc phân cấp về thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, cần

tiếp tục nghiên cứu để có cách phân loại các dự án đầu tư cho phù hợp hơn với
từng loại dự án sử dụng các nguồn vốn khác nhau và với qui mô vốn đầu tư của dự
án khác nhau, cụ thể là:
- Một trong những đề xuất là nên phân chia các nhóm dự án phù hợp theo 2 mảng
(bộ phận) đầu tư: Đầu tư trong nước và Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc phân


chia các dự án vào các nhóm trong từng mảng (bộ phận) cần căn cứ vào 3 yếu tố:
Tính chất, phạm vi hoạt động (theo ngành và theo lãnh thổ, nhu cầu sử dụng đất
đai) của các dự án; Theo nguồn vốn đầu tư; Theo quy mô vốn đầu tư của từng
nguồn vốn.
Vốn Ngân sách nhà nước (bao gồm cả vốn ODA); vốn Nhà nước bảo lãnh, có thể
chia thành 4 nhóm: A, B, C và D. Theo hướng này có thể qui định cụ thể mức vốn
đối với các dự án được phân cấp cho cấp huyện và xã phê duyệt dự án đầu tư.
Vốn tín dụng đầu tư (kể cả tín dụng ưu đãi), vốn của khu vực tư nhân, các nguồn
vốn huy động khác... việc phân loại dự án theo nhóm chủ yếu để xác định qui mô
của dự án, chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự chịu trách nhiệm về quyết định của
mình. Nhà nước chỉ định hướng và thông qua chủ trương đầu tư.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, có thể chia thành 3 nhóm: nhóm A, B và C,
trong đó nhóm C chỉ áp dụng đối với các dự án triển khai trong các khu công
nghiệp.
Cũng có những đề xuất cần có sự thống nhất hoặc tiến tới thống nhất tiêu chí trong
việc phân loại dự án đầu tư đối với tất cả các dự án đầu tư trong nước, các dự án
ODA và các dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi; đờng thời đối với các dự án đầu
thuộc các ngành và lĩnh vực khác nhau có nên có sự khác biệt về qui mô vốn đầu
tư hay không?
(2) Về thẩm quyền quyết định đầu tư:
Phù hợp quan điểm, nguyên tắc phân cấp và với hệ thống phân nhóm dự án theo
tiêu chí nói trên, thẩm quyền quyết định đầu tư sẽ chia thành 4 cấp tương ứng đối
với từng nguồn vốn:

Các dự án được các cơ quan nhà nước quyết định đầu tư:
- Các dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách (kể cả vốn do Chính phủ vay, Chính phủ
bảo lãnh): Thủ tướng Chính phủ quyết định các dự án nhóm A; Chủ tịch các tỉnh,


thành phố; Người đứng đầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ quyết định các dự án nhóm
B và C; Chủ tịch các quận, huyện được uỷ quyền quyết định các dự án nhóm C;
Chủ tịch các xã, phường được uỷ quyền quyết định các dự án nhóm D;
Các dự án sử dụng nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước: Thủ tướng Chính
phủ quyết định các dự án nhóm A thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phịng, các cơng
trình bảo mật, có ý nghĩa chính trị quan trọng; Chủ đầu tư quyết định các dự án
thuộc nhóm B và C.
Cấp phép đầu tư:
- Đối với các dự án đầu tư bằng nguồn vốn trong nước (các dự án thực hiện bằng
vốn tư nhân, các dự án của các thành phần kinh tế khác không sử dụng vốn Ngân
sách nhà nước): Thủ tướng Chính phủ cấp phép đầu tư các dự án thuộc nhóm A
thuộc lĩnh vực an ninh, quốc phòng, các cơng trình bảo mật, cơng trình có ý nghĩa
chính trị quan trọng; Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm B và
C.
Đối với các dự án đầu tư bằng ng̀n vốn nước ngồi (FDI): Thủ tướng Chính phủ
quyết định các dự án thuộc nhóm A; Chủ tịch các tỉnh, thành phố quyết định các
dự án thuộc nhóm B và nhóm C; Ban quản lý các khu công nghiệp được uỷ quyền
quyết định các dự án thuộc nhóm C.
Theo đó, sự khác biệt trong phân cấp thẩm quyền quyết định đầu tư so với hiện
hành là:
- Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư hay cho phép đầu tư đối với các dự án
cần phải quản lý chặt chẽ về mặt chủ trương (văn hoá, xã hội, an ninh, quốc
phòng,...), về quy hoạch (kết cấu hạ tầng), về bảo vệ môi trường, dự án có sử dụng
tài nguyên với quy mô lớn và các dự án sử dụng vốn ngân sách với quy mô lớn
(qui định mức cụ thể cho mỗi ngành, mọi lĩnh vực).



- Dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước được phân cấp theo mức vốn như trước
đây nhưng quy định cho các cấp hành chính cụ thể.
- Các dự án khác tuỳ theo ng̀n vốn mà phân cấp thích hợp không căn cứ vào mức
vốn.
- Kể cả dự án đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngồi khơng áp dụng cơ
chế uỷ quyền.
(3). Sửa đổi về quản lý các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước
Cần đổi mới tổ chức quản lý dự án đầu tư và xây dựng theo hướng giảm số cấp
kiểm tra, xem xét quyết định đầu tư. Chỉ nên giữ lại 2 cấp gồm cấp chủ đầu tư và
cấp quyết định đầu tư; trong đó cấp chủ đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm về chất
lượng dự án đầu tư và quá trình triển khai xây dựng, cấp quyết định đầu tư chịu
trách nhiệm về thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện dự án.
(4). Bổ sung, sửa đổi về phân cấp trong quyết toán công trình đầu tư:
Phân cấp phê duyệt quyết toán vốn đầu tư nên được sửa đổi như sau: đối với những
dự án đầu tư do Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư thì Bộ trưởng Bộ Tài
chính phê duyệt (trừ các dự án quan trọng do Quốc hội trực tiếp phê duyệt). Đối
với các dự án khác, nguyên tắc chung là cấp nào ra quyết định đầu tư thì cấp đó
phê duyệt quyết toán. Ví dụ cơng trình do Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết
định đầu tư thì Bộ trưởng, Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt quyết toán...


Kết luận:
Tuy đã ban hành thông tư 08/2005 để nhằm khắc phục những hạn chế của quản lý
trong đầu tư, nhưng việc quản lý của nhà nước trng hoạt động này vẫn chưa đạt
được bước nhảy mạnh, rất nhiều vấn đề cịn tờn tại và nhức nhối. Do tầm quan
trọng của hoạt động này trong việc phát triển kinh tế cũng như củng cố đất nước
nên nhà nước cần quan tâm đặc biệt hơn nữa tới hoạt động đầu tư trng nền kinh tế.




×