Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Đẩy mạnh huy động vốn tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Hòa An – Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.75 KB, 68 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỤC LỤC
1.2.3.3 Mạng lưới chi nhánh, trình độ, nghiệp vụ cán bộ công nhân viên
của ngân hàng...............................................................................18
a, Chi phí huy động ..............................................................................19
- Xác định lãi suất huy động dựa theo tỷ lệ lạm phát và thu nhập kì vọng
của người gửi tiền ....................................................................................................20
- Xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất gốc...................................20
- Xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất của tài sản sinh lãi...........21
1.3.1.2 Nhân sự và công nghệ thông tin................................................22
1.3.1.4 Uy tín của ngân hàng...............................................................23
1.3.2.1 Chính sách chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước...........................24
1.3.2.2 Hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước...................................24
1.3.2.3 Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường vốn.................................25
1.3.2.4 Tâm lý, thói quen của người tiêu dùng......................................25
2.1.2.1 Quyền tổ chức quản lý, kinh doanh...........................................27
2.2.2 Phân tích thực trạng huy động vốn của chi nhánh NHNO & PTNT Hòa An. .37
c, Tình hình huy động vốn trung - dài hạn.................................................................42
3.2.1 Thực hiện tốt công tác phân tích thị trường huy động vốn...............51
3.2.2 Đa dạng hoá hình thức huy động vốn...............................................52
3.2.3 Xây dựng chính sách tiếp cận và chăm sóc khách hàng hiệu quả....53
3.2.4 Quản lý nguồn vốn theo đúng phương pháp, mục tiêu.....................54
3.2.5 Đào tạo nâng cao trình độ và nghiệp vụ của cán bộ.........................55
- Cải tiến tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp.................56
- Cải tiến tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tài khoản cá nhân.....................58

Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
NHNN: Ngân hàng nhà nước


NHN
O
& PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHTM: Ngân hàng thương mại
DNVVN: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DTBB: Dự trữ bắt buộc
TG KKH: Tiền gửi không kỳ hạn
TG CKH: Tiền gửi có kỳ hạn
TG TK KKH: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
TG TK CKH Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
GTCG: Giấy tờ có giá
TCKT: Tổ chức kinh tế
VCSH: Vốn chủ sở hữu
DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn vốn huy động từ 2007-2009 36
Bảng 2.2: Cơ cấu dư nợ của Ngân hàng từ 2007-2009 38
Bảng 2.3: Kết quả kinh doanh của chi nhánh NHN
O
& PTNT Hòa An 42
Bảng 2.4: Tổng nguồn vốn huy động chi nhánh giai đoạn 2007-2009 44
Bảng 2.5: Kết cấu nguồn vốn huy động của Chi nhánh NHNo&PTNT
Hoà An giai đoạn 2007-2009
46
Bảng 2.6: Tình hình huy động vốn ngắn hạn 48
Bảng 2.7: Tình hình huy động vốn trung- dài hạn 50
Bảng 2.8: cơ cấu nguồn vốn huy động theo đối tượng 51
Bảng 2.9: chi phí trả lãi 53
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
2

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta. Nó đóng vai trò quyết định đến sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế đất nước. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, chính phủ cần
phải có các biện pháp, chính sách nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế. Ở nước ta thị trường chứng khoán chưa thực sự phát triển do vậy lượng vốn
huy động được bằng con đường tài chính trực tiếp thông qua phát hành cổ phiếu, trái
phiếu và các giấy tờ có giá khác còn rất nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Do vậy
quá trình nhận và phân phát nguồn vốn trên thị trường chủ yếu được thực hiện thông
qua các NHTM và thị trường tín dụng. Theo thống kê, ở Việt Nam hơn 80% (tạp chí
khoa học đào tạo ngân hàng số 19/2007) lượng vốn trong nền kinh tế là do hệ thống
ngân hàng cung cấp. Do đó vai trò của Ngân hàng trong hoạt động huy động vốn cho
nền kinh tế là cực kỳ quan trọng.
Huy động vốn là một trong những hoạt động quan trọng của NHTM. Có chính
sách, chiến lược huy động vốn tốt giúp NHTM không những chủ động được nguồn vốn
trong hoạt động kinh doanh mà còn tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Trong điều kiện hoạt động cung ứng dịch vụ và kinh doanh nói chung, huy động
vốn nói riêng của các NHTM chịu sức ép cạnh tranh ngày càng cao từ các kênh huy
động vốn khác trong nền kinh tế, việc tìm ra những giải pháp giúp ngân hàng chủ động
nguồn vốn cũng như nâng cao hiệu quả của hoạt động này ngày càng trở nên cấp thiết.
Vậy hoạt động huy động vốn được thực hiện như thế nào? Làm thế nào để đẩy mạnh
huy động vốn?... Đó là những câu hỏi cần được trả lời trong hoạch định trong chính
sách chiến lược phát triển kinh tế. Xuất phát từ thực tế trên, em tiến hành nghiên cứu đề
tài “ Đẩy mạnh huy động vốn tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Hòa An – Cao
Bằng’’.
2 Mục tiêu
2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá tình hình huy động vốn tại chi nhánh NHNo & PTNT Hòa An – Cao

Bằng nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng.
2.2 Mục tiêu cụ thể
• Lý luận chung hoạt động huy động vốn tại NHTM.
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Phân tích, đánh giá thực trạng huy động vốn tại chi nhánh NHNo & PTNT
Hòa An – Cao Bằng.
• Đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh huy động vốn tại chi nhánh NHNo &
PTNT Hòa An – Cao Bằng.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Là các nguồn vốn tín dụng được huy động và cung ứng tại chi nhánh NHNo &
PTNT Hòa An – Cao Bằng .
3.2 Phạm vi nghiên cứu
• Về nội dung: đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống tín dụng, các hoạt động
huy động vốn tại NHTM.
• Về không gian: đề tài được thực hiện tại chi nhánh NHNo & PTNT Hòa An
– Cao Bằng.
• Về thời gian: Hiện trạng huy động vốn được phân tích thông qua số liệu thu
thập trong giai đoạn 2007- 2009.
4 Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục bảng biểu,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1: Lý Luận Chung Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Thương Mại
Chương 2: Thực Trạng Huy Động Vốn Tại Chi Nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp
Và Phát Triển Nông Thôn Huyện Hòa An – Cao Bằng
Chương 3: Giải Pháp Đẩy Mạnh Huy Động Vốn Tại Chi Nhánh Ngân Hàng
Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Huyện Hòa An – Cao Bằng
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC

4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1 Khái niệm NHTM
Lịch sử đã ghi nhận sự hình thành, phát triển của ngành Ngân hàng được quyết
định bởi quá trình phát triển của các quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Đồng thời cũng còn
những yếu tố khác có ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc và sự phát triển của hệ thống
ngân hàng như: chế độ pháp quyền, điều kiện chiến tranh và tình trạng khủng hoảng
kinh tế, tài chính...
Ở Việt nam, hệ thống Ngân hàng đã được đổi mới một cách đáng kể trong quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của
Nhà nước. Trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và
thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp đan kết với nhau hình thành
các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều
tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật. Theo
hướng đó, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết và
đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Từ năm 1986,
hoà vào công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của đất nước theo sự chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước, hệ thống ngân hàng được tổ chức lại theo Nghị định 53/HĐBT
được tách ra làm hai cấp: NHNN đảm nhận công tác phát hành tiền và điều tiết lưu
thông tiền tệ, còn chức năng kinh doanh được thực hiện bởi các NHTM.
Năm 1991, sự ra đời của các NHTM cổ phần cùng các NHTM quốc doanh đã góp
phần rất lớn vào công cuộc phát triển đất nước. Luật “Tổ chức tín dụng” của Việt nam
ban hành vào ngày 12/12/1997 đã định nghĩa NHTM như sau:
“NHTM là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh

tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2 Những hoạt động chính của NHTM
NHTM là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như một doanh nghiệp thương
mại, đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu (lợi ích của
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chủ ngân hàng). NHTM tối đa hóa giá trị đó bằng cách đi vay và cho vay lại. So với các
doanh nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng hoá của NHTM là một loại hàng hoá
đặc biệt, đó là tiền vốn. Giá cả của loại hàng hoá này biểu hiện ra bên ngoài là các mức
lãi suất huy động hoặc lãi suất cho vay, nó chịu tác động bởi quan hệ cung - cầu vốn
trên thị trường và trên cơ sở khoản lợi nhuận đạt được khi đưa vốn vay vào sản xuất
kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ yếu của hoạt động ngân hàng sẽ là khoản chênh lệch
giữa thu nhập từ lãi cho vay với chi phí trả lãi huy động. Để có hàng hoá kinh doanh,
ngân hàng phải đưa ra một giá mua hợp lý cũng như đa dạng các hình thức huy động.
Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm phân tán giảm
thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh NHTM thực hiện các dịch vụ trung gian hưởng hoa
hồng. Ngày nay, hệ thống NHTM phát triển mạnh mẽ, tham gia sâu rộng vào tất cả các
lĩnh vực kinh tế xã hội. Sự đa dạng và phong phú các nghiệp vụ kinh doanh đã làm cho
NHTM trở thành một tổ chức kinh doanh không thể thiếu trong tiến trình phát triển
kinh tế.
Những hoạt động cơ bản của NHTM:
1.1.2.1 Hoạt động nhận tiền gửi
Đây là một hoạt động cơ bản của NHTM. Ngân hàng nhận được các khoản tiền gửi
của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của cá nhân, của tổ chức và
các doanh nghiệp. Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc
khi khách hàng có nhu cầu sử dụng đến rút tiền ở ngân hàng.

1.1.2.2 Hoạt động tín dụng
Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ liên quan
đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực thanh toán bình
thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ đặc trưng nhất
của NHTM. Nó tạo ra hình thức tín dụng ngân hàng và ngân hàng sẽ tiến hành phân
phối có trọng điểm nguồn vốn đã hình thành trong nghiệp vụ huy động, điều tiết vốn từ
nơi thừa đến nơi thiếu, bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, đây là
nghiệp vụ quan trọng nhất, sử dụng phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu.
Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân thành:
- Căn cứ vào mục đích
• Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai.
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay bổ sung vốn lưu động
cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
• Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay bổ sung vốn lưu động cho các doanh
nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
• Thuê mua và các loại khác.
- Căn cứ vào thời hạn cho vay
• Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu
được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn.
• Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của NHNN Việt Nam thì loại
cho vay này có thời hạn từ 1- 5 năm. Tín dụng trung hạn thường sử dụng để
đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở
rộng sản xuất, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ với thời hạn thu hồi
vốn nhanh.
• Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm.

Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà
ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp.
- Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
• Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào sự uy tín của
bản thân khách hàng.
• Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải
có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
- Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
• Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được
thực hiện bằng các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời
vụ,...
• Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa
dạng, ví dụ như tài trợ thuê mua…
- Căn cứ vào phương pháp hoàn trả
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ.
• Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
- Ngoài các loại cho vay trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho
khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này, ngân hàng không phải
cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp
đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì thế, nghiệp vụ
này còn được gọi là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm: tín dụng
chấp nhận, tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.
1.1.2.3 Hoạt động đầu tư
Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng

khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ chêch lệch thị
giá chứng khoán mua bán trên thị trường.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện góp vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp vốn
vào các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới.
1.1.2.4 Hoạt động kinh doanh ngoại hối
Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ nhằm
đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh doanh ngoại tệ còn
góp phần thúc đẩy trong công tác thanh toán quốc tế, tài trợ cho xuất nhập khẩu,...
1.1.2.5 Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng
• Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ chuyển
tiền để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển tiền là
chuyển tiền bằng điện và chuyển tiền bằng thư.
• Thu chi hộ tiền hàng: Theo những lệnh uỷ nhiệm thu hoặc uỷ nhiệm chi,
ngân hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng
chuyển trả tiền hàng hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng
khi nhận được chứng từ khách hàng nhờ thu hộ...
• Nghiệp vụ uỷ thác: Là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác của
khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo quản
chứng khoán, vàng bạc, giấy tờ có giá... để hưởng hoa hồng.
• Mua bán hộ: Theo sự uỷ nhiệm của khách hàng ngân hàng thực hiện nghiệp
vụ phát hành hộ trái phiếu hoặc chứng khoán cho các công ty, hoặc phát
hành trái khoán Chính phủ. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có được
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
một khoản thu nhập dưới hình thức hoa hồng phát hành. Ngân hàng có thể
tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường theo lệnh của khách hàng với
tư cách là một trung gian môi giới trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng
khoán.
1.2 Huy động vốn của ngân hàng thương mại

Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm 2 loại chính nếu phân chia theo hình thức sở
hữu: Nguồn vốn của chủ ngân hàng và các khoản nợ. Khác với nhiều loại hình doanh
nghiệp, vốn chủ của ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn, các khoản
nợ là nguồn chủ yếu của ngân hàng.
1.2.1 Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động kinh doanh, chủ ngân hàng phải có vốn - vốn chủ sở hữu
(VCSH). Nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích của chủ ngân hàng, chủ ngân hàng cần phải
cân nhắc về qui mô và cơ cấu VCSH hợp lý. Hơn nữa, đây còn là đối tượng quản lý
ngày càng chặt chẽ của Ngân hàng Trung ương nhằm đảm bảo an toàn cho người gửi
tiền.
Vốn chủ được hình thành bằng nhiều cách khác nhau. Để phân biệt với các
khoản tiền của chủ thể khác mà ngân hàng đang nắm giữ (các khoản nợ), chủ ngân
hàng gọi vốn mình ứng ra trong kinh doanh là vốn tự có. Với chức năng trung gian tài
chính, chủ ngân hàng không ngừng mở rộng huy động tiền gửi của chủ thể khác để đầu
tư, do vậy, dần dần vốn của chủ ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn
vốn. Một số ngân hàng Trung ương qui định giới hạn tỷ lệ vốn chủ trên tổng tiền gửi
nhằm tăng đảm bảo an toàn cho người gửi tiền. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ, song VCSH có
vai trò rất quan trọng, góp phần xác định qui mô và cơ cấu của ngân hàng, tăng khả
năng mở rộng cho vay và đầu tư, đặc biệt là trung và dài hạn, cũng như tạo ra trang
thiết bị và công nghệ ngân hàng hiện đại.
“Đến cuối năm 2005, vốn tự có của NHNo & PTNT Việt Nam đạt 7.702 tỷ VND;
Nguồn: Agribank - những cột mốc chặng đường và lịch sử”.
Sau đây là các bộn phận cấu thành VCSH:
1.2.1.1 Vốn ban đầu (VCSH ban đầu)
VCSH ban đầu hình thành theo các cách khác nhau tùy theo tính chất sở hữu
khác nhau. VCSH ban đầu phải tuân thủ các qui định của các nhà chức trách tiền tệ.
Các qui định thường nêu rõ số vốn tối thiểu - vốn pháp định mà chủ ngân hàng cần phải
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

có khi bắt đầu hoạt động. Vốn pháp định có thể được qui định cho từng loại ngân hàng
trong từng điều kiện cụ thể.
VCSH không phải hoàn trả. Chủ ngân hàng có thể tăng, giảm hoặc thay đổi cơ
cấu VCSH, quyết định chính sách phân phối lợi nhuận.
1.2.1.2 VCSH hình thành trong quá trình hoạt động (VSCH bổ xung)
Bao gồm cổ phần phát hành thêm (hoặc ngân sách cấp thêm) trong quá trình
hoạt động, lợi nhuận tích lũy, thặng dư vốn, các quỹ…
- Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm
Ngân hàng có thể phát hành thêm cổ phần (thường hoặc ưu đãi) hoặc xin cấp
thêm vốn ngân sách để mở rộng qui mô hoạt động, hoặc để chống đỡ rủi ro; Trong
những trường hợp cần duy trì thị giá của cổ phiếu, hoặc duy trì quyền lãnh đạo của
những cổ đông quan trọng, ngân hàng có thể mua lại một số cổ phiếu của những cổ
đông quan trọng, ngân hàng có thể mua lại một số cổ phiếu đã phát hành hoặc tăng tỷ lệ
lợi nhuận chia cho cổ phiếu.
- Lợi nhuận bổ xung VCSH
Đối với các ngân hàng cổ phần, lợi nhuận sau thuế sau khi bù đắp các khoản chi
phí đặc biệt, thường được chia làm hai phần: một phần chia cho các cổ đông theo giá trị
các cổ phần, và phần bổ xung VCSH dưới tên gọi “lợi nhuận tích lũy lại” - quỹ tích lũy.
Phần này về bản chất là thuộc sở hữu các cổ đông, song được “vốn hóa” nhằm mở rộng
qui mô của VCSH. Các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước, lợi nhuận sau thuế sau khi trừ
thua lỗ (năm trước) và các chi phí đặc biệt, được trích bổ xung VCSH theo qui định của
Nhà nước. Nhiều ngân hàng trong điều lệ hoạt động của mình đều qui định mức vốn
Điều lệ (tối thiểu là bằng vốn pháp định), và thường xuyên bổ sung vốn điều lệ bằng
trích lợi nhuận.
- Các quỹ
Trong môi trường lạm phát, VCSH bị giảm giá. Để bảo toàn giá trị, các ngân
hàng có thể trích lập quỹ bảo toàn vốn tính theo tỷ lệ lạm phát. Quỹ này làm gia tăng
qui mô VCSH.
Kinh doanh của ngân hàng luôn gắn liền với rủi ro. Nhiều tài sản của ngân hàng
đã sinh lãi một thời gian dài, sau đó có thể bị tổn thất. Do vậy, các ngân hàng đều trích

lập các khoản dự trữ nhằm bù đắp tổn thất (nếu có) - quỹ dự phòng tổn thất. Nếu tổn
thất thực của ngân hàng nhỏ hơn số trích lập, VCSH sẽ tăng và ngược lại.
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong quá trình hoạt động, có thể thị giá cổ phiếu của ngân hàng lớn hơn mệnh
giá. Khi ngân hàng phát hành cổ phiếu mới, phần chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá
cổ phiếu được ghi lại dưới tên gọi thặng dư của vốn.
Do giá trị các tài sản và nợ của ngân hàng thường xuyên thay đổi theo giá trị
thường, đặc biệt là các chứng khoán và bất động sản. Mặc dù chưa bán, ngân hàng
thường xuyên đánh giá lại chúng theo giá thị trường. Những chênh lệch do đánh giá lại
được đưa vào quỹ đánh giá lại. Quỹ này thường xuyên biến động gắn liền với thay đổi
thị giá, cho phép nhà quản lí đánh giá giá trị thị trường của VCSH.
Ngân hàng thường trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như quỹ khen thưởng,
quỹ phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới,.. Phần lớn các
quỹ này được sử dụng trong kỳ.
- Cổ phần ưu đãi có thời hạn và Giấy nợ có khả năng chuyển đổi thành cổ
phiếu.
Một số ngân hàng coi cổ phần ưu đãi có thời hạn, các khoản vay dài hạn bằng
giấy nợ có thể chuyển đổi thành cổ phiếu cũng thuộc VCSH mặc dù chúng mang một
số tính chất của một khoản nợ. Tuy nhiên phần này thường bị giới hạn và kiểm soát
chặt chẽ. Việc gia tăng loại vốn này có nhiều ưu điểm đối với quản lí ngân hàng như
không làm thay đổi quyền kiểm soát, hạn chế giảm cổ tức…
Kết luận: Vốn tự có hay vốn điều lệ càng lớn, sức chịu đựng của ngân hàng
càng lớn khi mà tình hình kinh tế và tình hình hoạt động ngân hàng trải qua những giai
đoạn khó khăn. Vốn tự có càng lớn, khả năng tạo lợi nhuận càng lớn vì có thể đa dạng
hoá các nghiệp vụ ngân hàng, có cơ hội làm ra nhiều tiền hơn. Tuy nhiên không phải
vốn tự có càng lớn càng tốt vì nếu nó quá lớn thì lợi nhuận chia cho các cổ đông cũng
sẽ giảm, giá cổ phiếu cũng sẽ giảm theo. Ngược lại, vốn tự có quá nhỏ sẽ cản trở hoạt
động của ngân hàng. Vậy tỷ lệ vốn tự có/tổng nguồn là bao nhiêu thì hợp lý ? Theo thoả

ước Basel vào năm 1992, các ngân hàng phải đạt hệ số vốn tự có so với tài sản có dựa
trên cơ sở rủi ro là: 8% ( còn gọi là hệ số Cook ). Đây được coi là tỷ lệ chuẩn dùng để
đánh giá mức vốn tự có của các ngân hàng. Nếu theo tỷ lệ này thì hầu như không có
ngân hàng nào tại Việt Nam có thể đáp ứng được vì phần lớn tỷ lệ vốn tự có/tổng tài
sản rủi ro của các ngân hàng này đều ở mức từ 5% đến 6%. Tuy nhiên cũng cần nhận
thấy rằng điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới là khác nhau, nếu đem áp
dụng 1 tỷ lệ cho tất cả thì không hợp lý. Vì nhiều ngân hàng có hệ số Cook nhỏ hơn 8%
vẫn hoạt động khá tốt. Do đó tỷ lệ chuẩn trên chỉ là tương đối, quan trọng hơn là cơ cấu
vốn tự có trong tổng nguồn của mỗi ngân hàng phù hợp với hoạt động của chính nó,
đáp ứng được các chính sách, quyết định của ngân hàng.
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2.2 Vốn nợ
1.2.2.1 Nhận tiền gửi và các hoạt động nhận tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi
một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các tại khoản tiền gửi để giữ
hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền gửi của các doanh nghiệp,
các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền
có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy
động khác nhau.
a, Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán)
Tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tiền gửi không kì hạn là loại tiền gửi
mà người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào. Nghĩa là nếu một người vừa gửi tiền sáng
nay, nếu cần anh ta có thể rút ra ngay buổi chiều cùng ngày, còn nếu chưa cần sử dụng
thì anh ta cứ để đấy khi nào cần thì rút. Thông thường, chủ các tài khoản tiền gửi không
kì hạn thường yêu cầu ngân hàng thanh toán hộ mình cho các đối tác qua tài khoản mà
không cần phải đến ngân hàng rút tiền nữa. Việc này đẩy nhanh tốc độ lưu thông của

tiền và hạn chế bớt tiền mặt trong thanh toán. Chính ưu điểm này của tiền gửi thanh
toán đã khiến nó rất được ưa thích và phổ biến với tất cả mọi người, đặc biệt là các
doanh nghiệp và cá nhân có hoạt động mua bán thường xuyên. Ngày nay tài khoản tiền
gửi thanh toán đảm nhiệm rất nhiều chức năng hữu dụng đối với chủ tài khoản. Người
chủ tài khoản có thể phát séc từ tài khoản của mình, thanh toán các loại hoá đơn qua
ngân hàng, rút tiền mặt tại các máy ATM của ngân hàng…Mạng lưới ngân hàng càng
mở rộng và phát triển thì càng tạo nhiều thuận lợi cho những người sở hữu các tài
khoản tiền gửi thanh toán. Giờ đây người ta có thể mua bán với nhau dù cách xa hàng
ngàn km, có thể đi du lịch khắp nơi mà chỉ cần mang theo một chiếc thẻ tín dụng được
chấp nhận toàn cầu. Đặc biệt, từ sau thập niên 70 các ngân hàng đã bắt đầu trả lãi suất
cho các khoản tiền gửi thanh toán, dù lãi suất rất thấp. Tuy nhiên điều này càng làm
tăng sự ưa thích của các khách hàng vì tiền của họ không những có thể rút được ra bất
kì lúc nào mà còn sinh lãi khi không dùng đến trong một khoảng thời gian dài.
Đối với ngân hàng, tiền gửi thanh toán cũng là khoản vốn huy động khá hấp dẫn.
Bởi chi phí (lãi suất) cho loại tiền gửi này thấp nhất trong các loại tiền gửi. Để thu hút
tiền gửi thanh toán, các ngân hàng tạo rất nhiều sản phẩm cũng như tiện ích sử dụng
khiến cho khách hàng có rất nhiều lựa chọn. Chỉ riêng về Thẻ đã có rất nhiều loại và
nhiều tính năng phù hợp với mỗi loại khách hàng. Tương lai, tiền gửi thanh toán sẽ thay
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thế hầu như toàn bộ tiền mặt, nó không những giúp người sở hữu thuận lợi trong các
giao dịch, ngân hàng có thêm nhiều vốn mà còn giúp Nhà nước quản lý có hiệu quả
lượng tiền mặt trong lưu thông.
b, Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Bên cạnh những khoản tiền gửi thanh toán, hầu hết các doanh nghiệp thương
mại, tổ chức xã hội đều gửi một lượng tiền nhất định tại ngân hàng với thời hạn xác
định. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp hay tổ chức luôn có một lượng tiền
tạm thời chưa cần sử dụng, họ gửi nó vào ngân hàng với các kì hạn khác nhau để hưởng
lãi (lãi suất cao hơn lãi suất của tiền gửi không kì hạn) nhằm tạo thêm thu nhập cho

mình. Tuy nhiên lượng tiền gửi có kì hạn của các tổ chức chiếm một lượng rất nhỏ so
với lượng tiền gửi không kì hạn, đồng thời rất khó dự đoán được sự biến động của nó
do sự biến động của hoạt động kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp.
c, Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa dùng đến, họ tích
luỹ lại cho tương lai. Người dân có nhiều cách để giữ số tiền tiết kiệm của mình. Một
trong những cách đó là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Ngân hàng thu hút tiền gửi của
người dân bằng việc đảm bảo an toàn cho tài sản của họ đồng thời trả lãi để khuyến
khích họ gửi nhiều tiền với thời hạn lâu dài. Huy động tiền gửi trong dân cư là nghiệp
vụ truyền thống đem lại cho ngân hàng một lượng vốn rất lớn để có thể tiến hành các
hoạt động cho vay và đầu tư sinh lợi. Thông thường tiền gửi tiết kiệm có 2 loại chính :
• Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn
• Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn
Với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn, người gửi có thể rút bất cứ khi nào họ
muốn. Còn với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn, người gửi chỉ có thể rút tiền khi đến hạn
nhưng lại được hưởng mức lãi suất cao hơn nhiều so với tiền gửi tiết kiệm không kì
hạn. Người gửi tiết kiệm có kì hạn có quyền yêu cầu ngân hàng thay đổi kì hạn tiền gửi
của mình, nhập các sổ tiết kiệm lại với nhau, dùng sổ tiết kiệm để thế chấp vay vốn…
Đặc biệt, hiện nay để cạnh tranh hầu như các ngân hàng đều cho người gửi tiền tiết
kiệm có kì hạn rút tiền trước hạn khi cần. Điều này làm tăng sức hấp dẫn của tiền gửi
tiết kiệm có kì hạn. Hơn nữa, người dân cũng có thể yên tâm hơn khi khoản tiền gửi của
mình trong ngân hàng được bảo hiểm, trong trường hợp ngân hàng mất khả năng thanh
toán thì người gửi vẫn có thể nhận lại toàn bộ hoặc một phần số tiền của mình từ tổ
chức bảo hiểm tiền gửi.
d, Tiền gửi của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thường xuyên có mối liên hệ
với nhau về nhiều mặt trong hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng đều gửi một lượng

tiền ở các ngân hàng khác nhằm mục đích tạo sự thuận tiện cho việc thanh toán hộ,
chuyển khoản hay mua bán, giao dịch khác…Lượng tiền gửi này thường không lớn,
biến động nhỏ nên ít ảnh hưởng tới nguồn vốn của ngân hàng.
1.2.2.2 Vay và hoạt động đi vay của ngân hàng thương mại
Bên cạnh việc huy động vốn từ nhận tiền gửi, các ngân hàng còn đi vay để tăng
lượng vốn nắm giữ nhằm đảm bảo và phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Vốn
vay của ngân hàng có thể có được từ nhiều nguồn khác nhau nhu: vay từ Ngân hàng
nhà nước, vay từ các tổ chức tín dụng khác hoặc vay trên thị trường vốn…Nguồn vốn
vay chỉ chiếm tỷ trọng vừa phải trong kết cấu nguồn song nó rất cần thiết và quan trọng
đối với các ngân hàng.
a, Vay Ngân hàng Nhà nước ( vay ngân hàng Trung ương)
Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, là cứu tinh của các ngân
hàng trong các trường hợp khó khăn nhất, là người cho vay sau cùng. Thông thường tất
các ngân hàng thương mại và một số tổ chức tài chính khác trong nước được NHNN
cho phép thành lập đều được hưởng quyền vay tại ngân hàng NHNN trong những tình
huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt vốn. Đối với các NHTM thì vay mượn tại NHNN
là một dịch vụ hết sức tiện lợi và hấp dẫn vào lúc nó hạ lãi suất tái chiết khấu trong
chính sách cung ứng tiền nới lỏng để kích thích đầu tư. Nhưng trường hợp không may
diễn ra là khi các ngân hàng đến vay vào lúc NHNN không muốn khuyến khích sự bành
trướng của tín dụng hay đang muốn thắt chặt cung ứng tiền tệ chống lạm phát. Lúc đó
lãi suất chiết khấu được đẩy lên cao và với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của
NHNN thì các ngân hàng chỉ miễn cưỡng vay trong những tình huống ngặt nghèo và
tìm cách trả nợ rất nhanh. Những khi ấy, các khoản vay từ NHNN chỉ chiếm một phần
rất nhỏ trong tài sản nợ của các ngân hàng. Dù ít hay nhiều, thường xuyên hay thình
thoảng thì vay NHNN vẫn là một khoản mục hiển nhiên trong tài sản nợ.
NHNN cấp tín dụng cho các NHTM qua 2 hình thức:
- Tái chiết khấu (hoặc chiết khấu) hay còn gọi là tái cấp vốn. Các thương phiếu
đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu sẽ trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền
họ mang chúng lên NHNN để tái chiết khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của
NHTM giảm đi và dự trữ tăng lên. NHNN kiểm soát việc vay mượn này một cách chặt

chẽ. Thông thường NHNN chỉ chiết khấu cho các thương phiếu có chất lượng (có thời
hạn đáo hạn ngắn và khả năng trả nợ cao), và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong
từng thời kì.
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Thế chấp hay ứng trước bảo đảm hay không có bảo đảm. Đây là hình thức cho
vay thời hạn ngắn, chủ nợ không bán các phiếu nợ cho ngân hàng mà chỉ đem gửi các
phiếu đó làm vật bảo đảm cho việc vay tiền.
Ở Việt Nam hiện nay, có các loại cho vay của NHNN đối với các NHTM như
sau:
- Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn: là hình thức tài trợ vốn theo kế
hoạch, chỉ phân phối đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh.
- Chiết khấu và tái chiết khấu kho bạc, khế ước mà các ngân hàng đã cho khách
hàng vay nhưng chưa đáo hạn và các thương phiếu.
- Cho vay bổ sung thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng.
b, Vay các tổ chức tín dụng khác
Khi vay tiền từ NHNN để đáp ứng thiếu hụt dự trữ hay chi trả cấp bách quá khó
khăn (lãi suất chiết khấu cao, điều kiện vay mượn chặt chẽ..), các NHTM thường vay
mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng. Quá trình vay mượn này rất đơn giản.
Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân
hàng đại lí (hoặc NHNN ). Khoản vay có thể không cần bảo đảm hoặc được bảo đảm
bằng các chứng khoán của kho bạc. Thông thường, các ngân hàng đang có dự trữ vượt
yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ
sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân
hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản.
Việc vay mượn giữa các ngân hàng là hoạt động thường xuyên và là một kênh huy
động vốn tốt cho các ngân hàng trong những trường hợp khẩn cấp.
c, Vay trên thị trường vốn
Để huy động được lượng vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu cho vay thường xuyên

(đặc biệt là cho vay trung và dài hạn), bên cạnh việc thu hút tiền gửi, các Ngân hàng
thường chủ động đi vay trên thị trường vốn. Cũng giống như các doanh nghiệp, Ngân
hàng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị
trường. Thông thường đây là các khoản vay không có đảm bảo, nên những ngân hàng
lớn có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn thì sẽ vay được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ
thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách đó mà phải thông qua ngân hàng đại lí hoặc
được sự bảo lãnh của ngân hàng Đầu tư. Có thể nói thị trường tài chính với vai trò
trung gian điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động của
các ngân hàng. Thị trường tài chính càng phát triển thì khả năng chuyển đổi các công cụ
nợ dài hạn của các ngân hàng càng tăng.
d, Các nguồn khác
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngoài những nguồn vốn đi vay cơ bản trên, Ngân hàng còn có các nguồn vốn
vay khác như:
- Nguồn uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ
thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ….Trong đó Uỷ thác đầu tư là
dịch vụ khá hấp dẫn của ngân hàng. Với dịch vụ này, khách hàng uỷ thác tiền bạc, tài
sản của mình cho ngân hàng để ngân hàng tiến hành đầu tư vào những dự án khả thi để
sinh lãi. Ngân hàng với lợi thế về uy tín và thông tin cũng như khả năng thẩm định dự
án tốt sẽ tiến hành hoạt động đầu tư có hiệu quả hơn, mang lại thu nhập cho khách hàng
đồng thời thu lời cho chính mình qua phí dịch vụ. Trong tương lai, dịch vụ Uỷ thác đầu
tư hứa hẹn rất phát triển, là một nguồn thu hút vốn khá tốt và trở thành một sản phẩm
cạnh tranh hấp dẫn không kém sản phẩm tiền gửi.
- Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể
hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ L/C…), hoặc
các ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết dư tiền gửi từ tiền của các
ngân hàng thành viên chuyển về để cho vay. Đặc điểm của nguồn này là thời gian tồn
tại ngắn vì phần lớn chúng đều ở trong trạng thái chờ luân chuyển, do đó các ngân hàng

ít khi chỉ sử dụng chúng để cho vay lâu dài mà chỉ để bổ sung thêm nguồn ở thời điểm
hiện tại.
- Nguồn khác: Các khoản nợ khác như Thuế chưa nộp, lương chưa trả…Đây là
nguồn mà ngân hàng tạm thời chiếm dụng, không có ảnh hưởng đáng kể tới nguồn vốn
cũng như hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
1.2.3 Chỉ tiêu đánh giá huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.3.1 Hình thức sản phẩm huy động vốn
Để thu hút được nhiều tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế, các NHTM
không ngừng đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn của mình. Các NHTM có thể
tiến hành phát triển, đa dạng hoá sản phẩm dựa trên nhiều tiêu chí như sau:
• Theo kì hạn và lãi suất
Với các sản phẩm tiền gửi, NHTM thường chia ra nhiều kì hạn khác nhau để
khách hàng có thể chọn lựa các kì hạn gửi tiền phù hợp với nhu cầu của mình.
- Đối với tiền gửi ngắn hạn (< 12 tháng): ngân hàng phân loại tiền gửi theo thời
gian từng quý: không kì hạn, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng.
- Đối với tiền gửi trung và dài hạn (> 12 tháng): các kì hạn tiền gửi được chia ra
thành: 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng và 60 tháng.
Hầu hết các NHTM hiện nay đều phân loại tiền gửi theo các kì hạn trên, để tạo
sự khác biệt thu hút khách hàng gửi tiền, nhiều ngân hàng đã chia nhỏ thời gian của kì
hạn hoặc đưa ra nhiều kì hạn mới như: kì hạn 1 tháng, 2 tháng và 13 tháng. Các kì hạn
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mới này sẽ tạo cho người gửi tiền sự linh hoạt trong khi rút và gửi tiền, đồng thời tăng
thêm mức thu nhập từ lãi suất tiền gửi.
Tương ứng với các kì hạn tiền gửi là các mức lãi suất khác nhau, tăng dần theo
thời gian của kì hạn gửi tiền. Biên độ giữa các mức lãi suất này dao động trong khoảng
0,1%/tháng và rất khác nhau giữa các NHTM. Sự cạnh tranh về lãi suất tiền gửi luôn
diễn ra gay gắt ở từng mức lãi suất tiền gửi cho các kì hạn. Mỗi một NHTM đều xây
dựng những chiến lược lãi suất riêng dựa trên mặt bằng lãi suất chung. Sự chênh lệch

lãi suất giữa các NHTM cổ phần và NHTM quốc doanh thường khá rõ ràng, điều này
cũng dễ hiểu vì: các NHTM quốc doanh có uy tín và thâm niên hoạt động lâu năm hơn
so với các NHTM cổ phần, để cạnh tranh thu hút vốn các NHTM cổ phần sẽ phải tăng
lãi suất của mình cao hơn mới hấp dẫn được khách. Chênh lệch lãi suất giữa các
NHTM luôn ảnh hưởng tới tâm lý của người gửi tiền, dù khoảng cách đó nhiều khi
không lớn. Nhiều khách hàng luôn thích gửi tiền ở những ngân hàng có lãi suất cao
nhất để được hưởng tiền lãi nhiều hơn.
Bên cạnh đó, các NHTM hiện nay cũng phát triển các chứng chỉ tiền gửi tương
ứng với nhiều lượng tiền gửi khác nhau và áp dụng biểu lãi suất bậc thang cho các
chứng chỉ tiền gửi loại này để khuyến khích khách hàng gửi nhiều tiền vì càng gửi
nhiều càng được hưởng lãi cao.
• Theo tiện ích của sản phẩm
Nói chung, những sản phẩm huy động vốn đều giống nhau về bản chất nên để
tạo sự khác biệt các NHTM thường tăng thêm nhiều tiện ích cho các sản phẩm khiến
cho khách hàng ưa thích chúng hơn. Việc làm này đòi hỏi sự sáng tạo của bộ phận phát
triển sản phẩm trong mỗi ngân hàng. Các ngân hàng thường đa dạng hoá các sản phẩm
huy động vốn của họ dựa trên 2 cách:
Một là, đưa thêm các tiện ích mới vào các sản phẩm huy động truyền thống.
Chẳng hạn như đối với thẻ ATM, thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng ngoài chức năng chính là cho
phép khách hàng rút tiền mặt tại máy ATM, thanh toán hoá đơn qua các máy POS, ngân
hàng có thể đưa thêm một số tiện ích mới như: Thanh toán các loại cước phí (điện,
nước, điện thoại....), trả lương, quản lý chi tiêu cá nhân, được ưu đãi ở một số cửa
hàng... Đối với các loại tiền gửi có kì hạn, hiện nay ngân hàng có thể cho phép người
gửi rút tiền trước kì hạn, dễ dàng chuyển đổi kì hạn theo ý mình...Chi phí cho việc tăng
thêm các tiện ích mới cho các sản phẩm truyền thống cũng chiếm một phần đáng kể
trong chi phí huy động vốn chung. Do đó, tuỳ thuộc vào khả năng của từng ngân hàng
mà số tiện tích mới của các sản phẩm huy động vốn của chúng ít hay nhiều.
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Hai là, phát triển sản phẩm hoàn toàn mới với những tiện ích nổi trội. Đây là
công việc rất khó khăn đối với hầu hết các ngân hàng thương mại. Hiện nay, các loại
sản phẩm huy động vốn được phát triển đã khá đầy đủ, đa dạng, việc tạo ra một sản
phẩm mới hoàn toàn khác biệt những sản phẩm cũ là điều ít ngân hàng nào dám nghĩ
tới, mà hầu hết họ đều đa dạng các sản phẩm huy động vốn theo cách thứ nhất (dựa trên
nền tảng các sản phẩm cũ).
Tóm lại, việc đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, chú ý phát triển sản
phẩm riêng biệt sẽ tạo dựng cho các ngân hàng thương mại những dấu ấn nhất định đối
với khách hàng gửi tiền, khuyến khích họ gửi tiền nhiều hơn, làm tăng lượng vốn huy
động cho các ngân hàng thương mại.
1.2.3.2 Hoạt động tiếp thị, khuyến mại
Bên cạnh việc đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, các NHTM đều không
ngừng đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, khuyến mại sản phẩm của mình đến với khách
hàng. Đây là chiến lược huy động vốn rất hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh gay gắt
giữa các ngân hàng. Các hoạt động tiếp thị sản phẩm huy động vốn được các ngân hàng
tiến hành bằng nhiều phương thức khác nhau, chủ yếu là thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng như: truyền hình, báo chí, tờ rơi, thư tay...Nội dung của các chương
trình quảng cáo này cũng được các ngân hàng thiết kế sao cho sản phẩm cũng như hình
ảnh của ngân hàng mình thật hấp dẫn người xem nhất. Bên cạnh hoạt động tiếp thị sản
phẩm, các ngân hàng cũng tổ chức các đợt khuyến mại để tăng cường huy động vốn.
Các đợt khuyến mại này thường được triển khai vào các thời điểm trong năm như: đầu
năm, giữa năm hay cuối năm, hoặc cũng có khi tuỳ thuộc vào chiến lược huy động vốn
của mỗi ngân hàng. Thông thường các NHTM triển khai chương trình khuyến mại lớn
bằng các đợt huy động vốn dự thưởng với tổng giá trị giải thưởng khá lớn, rất thu hút
được sự tham gia của khách hàng. Ngoài những đợt huy động dự thưởng lớn đó, các
ngân hàng cũng triển khai xen kẽ các đợt khuyến mại nhỏ với từng loại sản phẩm huy
động vốn của mình như: tặng quà khách hàng thân thiết, khách hàng gửi tiền với số
lượng lớn...
Những chi phí cho hoạt động tiếp thị và khuyến mại này cũng chiếm phần khá
lớn trong chi phí huy động vốn, đòi hỏi các ngân hàng phải tính toán, cân nhắc kì lưỡng

trước khi triển khai, để tránh việc lượng vốn huy động được nhiều nhưng cho phí huy
động lại quá lớn, thì hiệu quả huy động vốn không cao.
1.2.3.3 Mạng lưới chi nhánh, trình độ, nghiệp vụ cán bộ công nhân viên của ngân
hàng
• Mở rộng mạng lưới chi nhánh
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để thu hút được nhiều vốn từ dân cư, các NHTM còn không ngừng mở rộng
mạng lưới chi nhánh của mình. Qui mô, khả năng tài chính của ngân hàng nào càng lớn
thì số lượng chi nhánh của nó càng nhiều và trải rộng trên nhiều nơi, khả năng thu hút
càng lớn. Tuy nhiên trước khi thành lập thêm chi nhánh các ngân hàng phải tìm hiểu rõ
địa bàn đặt chi nhánh, dự đoán được khả năng phát triển của chi nhánh trong tương lai,
nếu không việc lập thêm chi nhánh sẽ không có tác dụng thu hút vốn mà còn làm tăng
chi phí hoạt động cho ngân hàng.
• Nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho cán bộ huy động vốn
Cán bộ huy động vốn là những người trực tiếp xây dựng và triển khai các
chương trình huy động vốn của ngân hàng. Trình độ và nghiệp vụ của những người này
sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả huy động vốn của các ngân hàng. Hiện nay các ngân
hàng đều cố gắng lựa chọn cũng như đào tạo các cán bộ của mình thành thạo về nghiệp
vụ cũng bồi dưỡng nâng cao các kiến thức về marketing và ngân hàng. Bên cạnh việc
đào tạo trực tiếp cán bộ tại nơi làm việc, các NHTM thường tổ chức các khoá bồi
dưỡng, nâng cao kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ ở các cơ sở trong nước và nước ngoài.
Đây là việc làm có ý nghĩa khá quan trọng cho công tác huy động vốn trong hiện tại
cũng như tương lai của ngân hàng.
1.2.3.4 chi phí huy động vốn
a, Chi phí huy động
Chi phí = Lãi suất trả cho + Chi phí huy động
huy động nguồn huy động khác
Định giá nguồn huy động là một mắt xích quan trọng trong việc triển khai chiến

lược huy động vốn, trong đó lãi suất là phần quan trọng ảnh hưởng đến quy mô và hiệu
quả huy động.
Lãi suất trả cho = Quy mô huy động x Lãi suất huy động
nguồn huy động
Chi phí huy động khác: Chi phí huy động khác rất đa dạng và không ngừng gia
tăng trong điều kiện các ngân hàng gia tăng cạnh tranh phi lãi suất. Nó bao gồm chi phí
trả trực tiếp cho người gửi tiền (quà tặng, quay số trúng thưởng, kèm bảo hiểm…), chi
phí tăng tính tiện ích cho người gửi tiền ( mở chi nhánh, quầy, phòng, điểm huy động,
trang bị thêm máy đếm. máy soi tiền cho khách kiểm tra, huy động vốn tại nhà, tại cơ
quan…), chi phí lương cho cán bộ phòng nguồn vốn, chi phí bảo hiểm tiền gửi…Một
số chi phí khác được tính chung vào chi phí quản lý và rất khó phân bổ cho hoạt động
huy động vốn.
Xác định lãi suất huy động là công việc phức tạp, quyết định tới chất lượng
nguồn huy động, từ đó tới chất lượng tài sản, đòi hỏi tính nhạy bén của nhà quản lí
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngân hàng. Ngân hàng cẩn phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc
nguồn huy động để xác định lãi suất và các chi phí huy động khác.
b, Lãi suất huy động
Theo nguyên lý chung, các ngân hàng huy động với lãi suất thị trường, phản ánh
quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Với mỗi nguồn cụ thể ngân hàng có phương
pháp riêng để tính toán lãi suất huy động.
- Xác định lãi suất huy động dựa theo tỷ lệ lạm phát và thu nhập kì vọng của
người gửi tiền
Lãi suất = Tỷ lệ lạm phát + Tỷ lệ thu nhập kì vọng
huy động bình quân của người gửi tiền
Để có lãi suất thực dương, lãi suất huy động huy động phải lớn hơn tỷ lệ lạm
phát. Tuy nhiên, không phải nguồn nào cũng trả lãi suất thực dương. Những nguồn có
kì hạn ngắn ( khách hàng lựa chọn tính thanh khoản cao hơn tính sinh lời), ngân hàng

thường trả lãi suất thực âm.
Tỷ lệ thu nhập kì vọng của người gửi tiền phụ thuộc vào rủi ro của mỗi ngân
hàng, tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khách và những tiện ích mà người gửi kì
vọng nhận được từ ngân hàng. Những loại tiền gửi mà tiện ích thu được từ ngân hàng
càng cao, lãi suất ngân hàng trả cho nguồn tiền càng thấp.
- Xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất gốc
Lãi suất = Lãi suất gốc (lãi suất tái chiết khấu + Tỷ lệ thu nhập
nguồn hoặc lãi suất liên ngân hàng, lãi suất kì vọng của
(nhóm nguồn) trái phiếu ngắn hạn của Chính phủ) người gửi tiền
Trong quá trình phát triển của thị trường tài chính, nguồn cung ứng tiền từ Ngân
hàng Trung ương, từ các tổ chức tài chính khác ngày càng có ý nghĩa hơn đối với các
NHTM. Với môi trường này, NHTM xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất gốc.
Nhưng lãi suất gốc quan trọng là: lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Trung ương, lãi
suất trên thị trường liên ngân hàng hoặc lãi suất trái phiếu ngắn hạn của Chính phủ.
Những ngân hàng lớn, ở các trung tâm tài chính thường lấy các lãi suất này làm điểm
xuất phát khi xác định lãi suất huy động.
Ngân hàng sử dụng lãi suất gốc để xác định lãi suất trả cho các nguồn tiền gửi
ngắn hạn. Từ lãi suất gốc, ngân hàng đa dạng các tỷ lệ lãi suất khác nhau theo nguyên
tắc:
• Lãi suất bình quân thực dương, tương quan về an toàn sinh lợi với các hoạt động
đầu tư khách như mua vàng, chứng khoán;
• Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất cho vay cùng kì hạn;
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Lãi suất tỷ lệ thuận với kì hạn;
• Lãi suất tỷ lệ thuận với quy mô;
• Lãi suất tỷ lệ nghịch với tính thanh khoản;
• Lãi suất tỷ lệ thuận với khả năng sử dụng vốn của tiền gửi;
• Lãi suất tỷ lệ với độ an toàn của ngân hàng và các tiện ích mà ngân hàng cung

cấp.
- Xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất của tài sản sinh lãi.
Trong điều kiện cạnh tranh để tìm kiếm nguồn tiền, nhiều ngân hàng bằng nỗ lực
tiết kiệm chi phí khác (như chi phí quản lí) và chấp nhận tỷ lệ thu nhập ròng thấp để gia
tăng lãi suất huy động. Ngân hàng có thể xác định lãi suất huy động tối đa trong mối
tương quan với lãi suất sinh lời của các tài sản.
Lãi suất Tỷ lệ sinh lời Tỷ lệ chi phí Tỷ lệ thuế thu nhập
nguồn = tính từ tài sản được - khác ròng phân - và thu nhập ròng
(nhóm tài trợ bằng nguồn bổ cho nguồn tính trên nguồn
nguồn) (nhóm nguồn) (nhóm nguồn) (nhóm nguồn)
Ngân hàng có thể điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với môi trường cạnh tranh và
chiến lược huy động vốn, trong mối tương quan với các lãi suất khác trong ngân hàng.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn tại ngân hàng thương mại
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Chính sách huy động vốn của ngân hàng
Chính sách huy động vốn của ngân hàng là tổng thể các chiến lược và biện pháp
huy động vốn của một ngân hàng nhằm mục tiêu thu hút vốn tối đa. Chính sách này
thay đổi theo từng thời kì, phù hợp với mục tiêu cụ thể của ngân hàng nhưng nhìn
chung luôn bao gồm các nội dung
- Hình thức huy động vốn: Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì
trước hết phải đa dạng hoá hình thức huy động. Hình thức huy động càng phong phú thì
ngân hàng càng dễ huy động hơn. Ngân hàng có thể đưa ra nhiều hình thức huy động
như: phát hành trái phiếu, kì phiếu, huy động tiền gửi tiết kiệm trong đó đưa ra nhiều
thời hạn và lãi suất khác nhau. Các hình thức huy động vốn được đưa ra phải dựa trên
cơ sở nghiên cứu phân tích thị trường và tâm lí khách hàng một cách kĩ lưỡng thì mới
có thể hấp dẫn khách hàng gửi tiền.
- Lãi suất huy động: Đối với người gửi tiền là các doanh nghiệp, họ gửi tiền vào
các ngân hàng với mục đích thanh toán thì lãi suất không phải vấn đề họ quan tâm.
Điều họ quan tâm nhất là việc sử dụng các dịch vụ từ ngân hàng và loại tiền gửi này gọi
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC

21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
là tiền gửi không kì hạn. Tuy nhiên, bên cạnh bộ phận tiền gửi không kì hạn thì vốn huy
động của ngân hàng còn bao gồm cả tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và tiền gửi tiết
kiệm của dân cư. Bộ phận tiền gửi này họ gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi,
vì vậy lãi suất là điều họ quan tâm và bộ phận này rất nhạy cảm với lãi suất. Ngoài ra
khi chưa đủ vốn để sử dụng thì ngân hàng còn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ
Ngân hàng Trung ương…Để tạo được nhiều vốn thì ngân hàng phải có chính sách lãi
suất hợp lí vừa đảm bảo kích thích người gửi tiền lại vừa phù hợp với lãi suất cho vay
của ngân hàng để tránh thua lỗ. Hiện nay một số ngân hàng để thu hút khách gửi tiền đã
sử dụng lãi suất rất linh hoạt như chia nhỏ lãi suất theo các thời hạn tiền gửi khác nhau,
trả lãi cho tài khoản tiền gửi không kì hạn đồng thòi để không bị ứ đọng vốn thì họ
giảm cả lãi suất cho vay. Tuy nhiên sự tăng giảm lãi suất này chỉ giới hạn trong một
biên độ nhất định để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng có lãi.
- Bảo hiểm tiền gửi : Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rủi ro xảy ra là
điều không tránh khỏi. Vì vậy sự an toàn của các ngân hàng thương mại luôn là mối
quan tâm hàng đầu của các cổ đông, các nhà điều hành và đặc biệt là đối với người gửi
tiền. Bởi vì phần lớn vốn kinh doanh của ngân hàng là vốn huy động từ bên ngoài. Để
lấy được niềm tin từ người gửi tiền đồng thời bảo vệ lợi ích cho họ tránh được những
tổn thất khi ngân hàng gặp rủi ro mất khả năng thanh toán thì các ngân hàng thương
mại phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Các công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra chịu
trách nhiệm chi trả toàn bộ tiền cho người gửi tiền trong giới hạn bảo hiểm
1.3.1.2 Nhân sự và công nghệ thông tin
- Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng
+ Phương diện quản lý: Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự. Về Tài sản
Nợ, Có tức là trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng dự đoán được những rủi
ro xảy ra, dự đoán được môi trường đầu tư của mình có hiệu quả hay không, nắm bắt
được những biến đổi ngoài thị trường một cách nhanh chóng để tư vấn cho khách hàng
của mình nên đầu tư vào đâu có hiệu quả cao nhất. Từ đó thu hút được khách hàng làm
cho môi trường đầu tư của ngân hàng ngày càng mở rộng. Mặt khác, do quản lí tốt nên

trong quá trình hoạt động ngân hàng đảm bảo an toàn vốn, tăng uy tín, từ đó có điều
kiện thu hút khách hàng gửi tiền nhiều hơn.
+ Trình độ nghiệp vụ: Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng cao thì trong
quá trình hoạt động kinh doanh, mọi thao tác nghiệp vụ đều được thực hiện nhanh
chóng chính xác và có hiệu quả, từ đó ngân hàng có điều kiện mở rộng kinh doanh,
giảm thấp chi phí hoạt động và thu hút được nhiều khách hàng.
+ Thái độ phục vụ khách hàng: Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến tâm lý cũng
như tình cảm của người gửi tiền. Nếu các nhân viên ngân hàng luôn cởi mở nhiệt tình
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trong giao dịch với khách hàng, luôn tạo điều kiện tốt cho khách hàng thì sẽ gây được
thiện cảm và uy tín đối với họ, sẽ ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch, gửi
tiền tại ngân hàng hơn.
- Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin giữ một vai trò không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Hoạt động ngân hàng luôn gắn liền với công nghệ thông tin ở hầu hết
các nghiệp vụ từ việc nhận, nhập tiền gửi, hay thanh toán qua tài khoản khách hàng đến
việc cho vay, đầu tư trên thị trường tài chính. Hệ thống công nghệ và thông tin càng
hiện đại thì càng phục vụ hữu ích cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, giúp
ngân hàng tiết kiệm thời gian, chi phí trong việc tìm kiếm, quản lý thông tin về khách
hàng, thị trường cũng như toàn bộ ngân hàng. Đồng thời một hệ thống công nghệ và
thông tin tốt cũng giúp cho việc triển khai các kế hoạch chiến lược huy động vốn của
ngân hàng có hiệu quả tốt nhất, đồng thời sẽ gây được ấn tượng tốt đẹp với khách hàng.
1.3.1.3 Mạng lưới hoạt động của ngân hàng
Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hoặc gần với những trung tâm thương
mại thì sẽ có thuận lợi khi thu hút vốn. Lẽ tự nhiên, khi dân chúng có tiền nhàn rỗi họ
sẽ đến các chi nhánh ngân hàng gần nhà mình nhất để gửi, như thế vừa tiết kiệm thời
gian đi lại vừa đảm bảo an toàn khi cho số tiền của họ.. Ngày nay, các ngân hàng đều
cố gắng mở thật nhiều chi nhánh để thu hút tiền gửi của người dân cũng như đẩy mạnh

các hoạt động kinh doanh khác. Với một mạng lưới chi nhánh rộng trải khắp đất nước,
đến cả những vùng sâu vùng xa, các ngân hàng sẽ có điều kiện cấp các dịch vụ của
mình cho người dân một cách chu đáo và tiện lợi nhất. Tuy nhiên để mở thêm nhiều chi
nhánh thì các ngân hàng phải cân nhắc về khả năng vốn, khách hàng mục tiêu, địa điểm
hoạt động và các yếu tố khác để tránh rơi vào tình trạng mất khả năng quản lý, kinh
doanh không hiệu quả.
1.3.1.4 Uy tín của ngân hàng
Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, uy tín là điều tối quan trọng, quyết
định đến 50% sự thành công trong hoạt động. Uy tín của ngân hàng chính là vị trí, hình
ảnh tốt đẹp của ngân hàng trong lòng khách hàng. Để có được niềm tin và uy tín đối với
khách hàng (cả mới và cũ) thì các ngân hàng đều phải trải qua một thời gian gây dựng
hoạt động mới có được. Uy tín của ngân hàng biểu hiện qua thâm niên, kinh nghiệm
hoạt động của ngân hàng, vốn chủ sở hữu lớn, các sản phẩm hấp dẫn, chất lượng phục
vụ tốt, hoạt động kinh doanh hàng năm có lợi nhuận cao, mối liên hệ với các tổ chức tài
chính khác rộng…Một ngân hàng có uy tín trên thị trường dễ tạo được niềm tin và sự
yêu thích của khách hàng, dễ lôi kéo khách hàng đến gửi tiền hơn là những ngân hàng
không có uy tín.
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.3.2 Các nhân tố khách quan
1.3.2.1 Chính sách chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước ban hành các chính sách chỉ đạo về hoạt động nhằm đảm
bảo các ngân hàng thương mại hoạt động theo đúng định hướng của nó, phù hợp và
thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Các chính sách của NHNN thay đổi theo
từng thời kì, tùy thuộc vào chính sách kinh tế chung của nhà nước và sự phát triển của
thị trường tài chính. Để kiểm soát việc huy động vốn của các NHTM, NHNN có các
quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu... Tất cả những quy định, chính
sách này được áp dụng cho tất cả các NHTM nên ảnh hưởng của chúng tới mỗi ngân
hàng là rất khác nhau. Cụ thể :

- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc : Các NHTM vừa phải đảm bảo tỷ lệ dữ trữ theo yêu cầu
của NHNN vừa phải đáp ứng nhu cầu cho vay nên tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao sẽ khiến
các ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn để cho vay. Khi đó chi phí huy
động vốn của các NHTM sẽ phải cao hơn để thu hút càng nhiều vốn càng tốt, đồng thời
vốn huy động để cho vay sẽ nhỏ hơn. Các ngân hàng nhỏ, vốn ít, khả năng huy động
hạn chế thì tỷ lệ dự trữ cao sẽ trở thành một gánh nặng khó giải quyết.
- Lãi suất chiết khấu : NHNN thực hiện tái chiết khấu vốn để cung ứng tiền ra
lưu thông bằng biện pháp tái chiết khấu. Nếu chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát
thì lúc đó NHNN cung ứng tiền ra lưu thông với lãi suất chiết khấu cao. Và như vậy,
nguồn vốn vay từ NHNN của các NHTM sẽ bị hạn chế. Khi đó, các ngân hàng muốn
tăng lượng vốn huy động sẽ phải tìm cách huy động từ các nguồn khác chứ không nên
trông chờ vào việc đi vay Ngân hàng Nhà nước.
1.3.2.2 Hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước
Hoạt động của các NHTM nằm trong hoạt động kinh tế chung của đất nước nên
chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế. Khi nền
kinh tế vào thời kì tăng trưởng, sản suất phát triển tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do
đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn của ngân hàng thuận lợi hơn. Mặt khác, nó cũng
tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho ngân hàng, từ đó ngân hàng phải tìm biện pháp
để huy động vốn sao cho có hiệu quả thiết thực cho hoạt động kinh doanh của mình.
Khi môi trường đầu tư mở rộng thì thu nhập của ngân hàng không ngừng phát triển, tạo
tiền để cho việc mở rộng vốn tự có của ngân hàng. Khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát
tăng làm thu nhập của người dân giảm khiến cho họ không muốn gửi tiền vào ngân
hàng mà chuyển sang tích luỹ bằng các tài sản khác như: Vàng, ngoại tệ mạnh…Lượng
tiền gửi của ngân hàng sẽ sụt giảm cùng với việc môi trường đầu tư của ngân hàng bị
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thu hẹp do các doanh nghiệp không muốn vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh
trong điều kiện sản suất thua lỗ.
1.3.2.3 Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường vốn.

Trong quá trình thu hút vốn, các ngân hàng luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh
không những của các ngân hàng trong ngành mà còn của các tổ chức tài chính khác.
Sản phẩm tiền gửi của ngân hàng dễ bắt chước đòi hỏi các ngân hàng phải rất cố gắng
trong việc đưa thêm những tiện ích vào sản phẩm cũng như triển khai những chương
trình huy động vốn hấp dẫn nhằm thu hút được khách hàng. Bên cạnh đó, các ngân
hàng còn bị cạnh tranh bởi các tổ chức tài chính khác như: Các công ty tài chính, quỹ
đầu tư, công ty bảo hiểm…Các tổ chức này tuy không có chức năng nhận tiề gửi như
ngân hàng song lại có nhiều dịch vụ phong phú thu hút tiền đầu tư của người dân và các
doanh nghiệp. Ngày này, sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán lại càng
khiến cho thị trường vốn của các ngân hàng thu hẹp lại, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt
trong việc thu hút vốn. Do vậy để có thể thu hút được những nguồn vốn có chất lượng,
các ngân hàng phải không ngừng đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn và nâng cao
chất lượng phục vụ để thu hút và thoả mãn nhu cầu khách hàng.
1.3.2.4 Tâm lý, thói quen của người tiêu dùng
Tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng. Nếu
những vùng dân cư người ta quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ là
chính thì việc huy động vốn sẽ gặp khó khăn. Chẳng hạn vào thời kì vàng còn có giá trị
thì người ta dùng tiền nhàn rỗi đi mua vàng về cất trữ…Còn khi người dân có nhu cầu
hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn. Khi đó cơ
hội huy động vốn của ngân hàng tăng lên.
Ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch thanh toán qua ngân hàng rất phát
triển. Hầu hết những người dân có thu nhập đều mở tài khoản để thanh toán qua ngân
hàng. Tuy nhiên ở những nước kém phát triển, thu nhập của người dân thấp, nhu cầu
giao dịch qua ngân hàng còn hạn chế nên ít người mở tài khoản tại ngân hàng. Điều này
sẽ hạn chế khả năng tạo tiền của NHTM, không phát huy được tính hiệu quả của tài
khoản giao dịch.
Mức thu nhập và chu kì chi tiêu của người dân cũng là những yếu tố trực tiếp tác
động đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung thu nhập của người dân càng cao,
nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu dùng thì nhu
cầu mở tài khoản cũng như gửi tiền vào ngân hàng sẽ tăng lên. Chu kỳ chi tiêu ảnh

hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào những dịp nghỉ lễ trong năm,
nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm, đặc biệt là
trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến.
Hoàng Diễm Lụa Khoa NH – TC
25

×