Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Giải pháp mở rộng cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Mỹ Hào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.51 KB, 61 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỤC LỤC
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm cuối thập kỷ 80 trở lại đây, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi
sắc. Từ một nền kinh tế kế hoạch hoá với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển
sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN. Điều đáng chú ý là những ngành kinh
tế then chốt chủ yếu đã góp phần đắc lực kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo môi
trường lành mạnh cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế trong nước, đưa nền
kinh tế nước ta từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Thành công to lớn này được
khẳng định và ghi nhận không những ở trong nước mà còn được các nước trên thế
giới đánh giá cao về thành tựu cải cách, phát triển kinh tế Việt Nam sau thời kỳ
chuyển đổi.
Có được thành tựu đó, không thể phủ nhận sự đóng góp to lớn của ngành
Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính cung cấp vốn cho các ngành kinh
tế góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua ngành Ngân
hàng đã thực hiện chiến lược đổi mới mạnh mẽ từ mô hình tổ chức đến phương thức
hoạt động của mình. Về mô hình tổ chức, từ hệ thống Ngân hàng một cấp chuyển
thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, hệ thống các Ngân hàng thương mại làm nhiệm
vụ kinh doanh tiền tệ tín dụng, tăng cường huy động, khai thác mọi nguồn vốn, tích
cực đầu tư cho các thành phần kinh tế, đổi mới công tác thanh toán và hiện đại hoá
công nghệ Ngân hàng. Do đó đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng liên tục ở tốc độ cao, lạm phát được kiểm soát ở mức độ hợp lý, giá trị
đồng tiền ổn định.
Hệ thống Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT nói riêng là
một trong những ngành cung ứng vốn lớn nhất để giúp cho nền kinh tế nói chung và
nông nghiệp nông thôn nói riêng phát triển, góp phần quan trọng trong việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn.


Định hướng đầu tư vốn của NHNo & PTNT là tiếp cận khách hàng, đưa vốn
đến người sản xuất. Vị trí của hộ sản xuất trong việc phát triển kinh tế hàng hoá.
trong nông nghiệp là vô cùng quan trọng, nó là nguồn lực dồi dào cung cấp lương
thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghệ chế biến. Đồng thời nó cũng là thị
trường tiêu thụ sản phẩm của ngành công nghiệp, tạo công ăn việc làm, tận dụng mọi
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
1
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
nguồn lao động trong nông thôn, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội, nhất là trong
khu vực nông thôn hiện nay.
Hệ thống NHNo & PTNT nhận thấy rõ sự cần thiết phải chú trọng tới đối
tượng tín dụng từ khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể sang khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh và hộ sản xuất. Đây là sự chuyển hướng phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân. Mặt khác đi vào thị trường tín dụng nông thôn và phù hợp với chức năng
và nhiệm vụ của NHNo & PTNT. Thị trường tín dụng nông thôn là mảnh đất còn
chứa ẩn nhiều tiềm năng mà NHNo & PTNT cần phải vươn tới để thực hiện nhiệm
vụ kinh doanh và thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là xoá đói- giảm
nghèo. Song hiện nay quan hệ tín dụng giữa NHNo & PTNT đối với kinh tế hộ sản
xuất còn hạn hẹp do nhiều vướng mắc và trở ngại. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng
nhằm tìm ra nguyên nhân và cách tháo gỡ là rất cần thiết.
Qua thời gian học tập tại trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân và quá trình thực
tập, nghiên cứu tại NHNo & PTNT huyện Mỹ Hào. Em chọn đề tài “Giải pháp mở
rộng cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Mỹ Hào” làm đề tài viết luận
văn tốt nghiệp.
Nội dung luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mở rộng Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
Chương 2: Thực trạng mở rộng hoạt động Tín dụng đối với hộ sản xuất tại
NHNo & PTNT huyện Mỹ Hào trong thời gian qua.
Chương 3: Các giải pháp và kiến nghị mở rộng hoạt động Tín dụng Ngân
hàng đối với khu vực kinh tế hộ sản xuất.

Tuy nhiên, đây là đề tài phong phú và rất phức tạp. Trong quá trình nghiên
cứu và tìm hiểu thực tiễn, bản thân em còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em mong muốn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các
thầy cô trong Khoa Ngân hàng - Tài Chính, đặc biệt là PGS – TS Lưu Thị Giang
cùng với sự giúp đỡ của các cô chú, anh chị tại NHNo & PTNT huyện Mỹ Hào.
Em xin chân thành cảm ơn!
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
2
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY HỘ SẢN XUẤT TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1. Khái niệm đặc trưng của NHTM
1.1.1.1.Khái niêm về NHTM
Theo quy định tại điều 20 khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tin dụng ( Luật số
02/1997/QH10) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành
thì: ”NHTM là một tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan” .
Như vậy ta có thể phát về khái niệm về NHTM là: “NHTM là một doanh
nghiệp kinh doanh tiền tệ, là một tổ chức tín dụng thực hiện huy động vốn nhàn rỗi từ
các chủ thể trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn tín dụng và cho vay phát triển
kinh tế, tiêu dùng cho xã hội”.
1.1.1.2. Đặc trưng của NHTM
- Bản chất của NHTM
- Ngânhàng thương mại là định chế tài chính trung gian qua trọng vào loại bậc
nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn tiền nhàn
rỗi sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để cho vay phát triển kinh tế.
-Từ đó có thê nói đặc trưng của NHTM được thể hiện qua các đặc điểm sau:
-Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế.

-Ngân hàng thương mại hoạt động mang tính chất kinh doanh.
-Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng.
Sơ đồ 1.1: Hoạt động của NHTM
Gửi tiền Cho vay
- Chức năng của NHTM
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
Các doanh nghiệp,
cá nhân
Ngân hàng
thương mại
Doanh nghiệp, cá
nhân khác
Thanh toán, tiêt
kiêm
Cung cấp, dịch
vụ NH
3
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
NHTM có các chức năng cơ bản sau:
Một là: Chức năng chung gian tài chính bao gồm chức năng huy động vốn
nhán rỗi và cho vay phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
tiêu dùng của dân cư.
Hai là: Chức năng trung gian tài chính giữa các doanh nghiệp và các cá nhân
trong và ngoài nước.
Ba là: Chức năng tạo tiền tức là trong quá trình kinh doanh tiền tệ - tín dụng
ngân hàng đã gia tăng khối tiền tệ cung ứng thêm cho nền kinh tế.
- Đặc điểm cơ bản của NHTM
Một là: NHTM là một doanh nghiệp đặc thù kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ
- tí dụng. Các hoạt động của NHTM nhằm thúc đẩy và lưu chuyển các dòng tiền tệ

phục vụ cho vệc giao dịch, thanh toán phát sinh hàng ngày trong nền kinh tế, đồng
thời thông qua các hoạt động huy động vốn và cho vay các NHTM có khả năng tạo
tiền từ các nghiệp vụ kinh doanh của mình thông qua các công cụ lãi suất, tỷ giá. Vì
vậy NHTM còn là một mắt xíc góp phần ổn định chính sách tiền tệ quốc gia, đặc biệt
là đối với quốc gia đang chuyển đổi nền kinh tế để tham gia hội nhập khu vực và
quốc tế như nước ta.
Hai là: Sản phẩm hàng hóa mà NH kinh doanh và dịch vụ là hàng háo tài
chính (tài sản tài chính) đó là tiền và các chứng từ có giá như cổ phiếu, thương phiếu,
hối phiếu, trái phiếu, tín phiếu... đó là sản phẩm cao cấp của hàng hóa thị trường vì
vậy nó vận động theo một quy trình và phải được điều hành bởi nguồn nhân lực có
trình độ chuyên môn nhất định.
Ba là: Trong quá trình hoạt động NHTM không tạo ra sản phẩm dở dang, tồn
kho mà tạo ra sản phẩm hàng hóa trực tiếp cung ứng cho người tiêu dùng khi có nhu
cầu, bởi lẽ đó hoạt động của Ngân hàng dựa vào thương hiệu, uy tín tạo ra đối với
khách hàng vì vậy các Ngân hàng pahir không ngừng nâng cao chất lượng, dịch vu
cung cấp và không ngừng quảng bá, tiếp thị hình ảnh của mình đối với khách hàng.
Bốn là: Hoạt động của ngân hàng là cầu nối giữa các nhà đầu tư, các doanh
nghệp, cá nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, cá nhân có nhu
cầu vay vốn vì vậy các Ngân hàng góp phần không nhỏ vào việc giả quyết nạn thất
nghiệp, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư, góp phần ổn đinh trật tự xã hội
cũng như góp phần đảm bảo vốn đối với các ngành kinh tế nhằm phát triển ngành
nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong một quốc gia.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của NHTM
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
4
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ cho công chúng và
doanh nghệp. Thành công của Ngân hàng phụ thuộc vào năng lục xác định các dịch
vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
Theo luật tổ chức tín dụng đã bổ sung sửa đổi năm 2004 thì các hoạt

động của tổ chức tín dụng trong đó chủ yếu là các NHTM bao gồm: Huy động vốn,
tín dụng, dịch vụ thanh toán, nghiệp vụ ngân quỹ khác như: góp vốn, mua cổ phần,
kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ
bảo hiểm, nghiệp vụ ủy thác và đại lý, dịch tư vấn và các dịc vụ khác có liên quan
đến hoạt động của Ngân hàng.
1.1.2.1.Mua bán ngoại tệ
Một trong những hoạt động Ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua
bán) ngoại tệ: Mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác, và hưởng phí dịch vụ.
Nhận tiền gửi
1.1.2.2. Nghiệp vụ huy động vốn và tài sản nợ
Hoạt động huy động vốn là nghiệp vụ tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân Ngân
hàng cũng như đối với xã hội. Trong hoạt động này, NHTM được sử dụng những biện
pháp và công cụ cần thiết mà pháp luật cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi
trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế. Nghiệp vụ huy
động vốn tạo ra các nguồn vốn để đáp ứng các hoạt động Ngân hàng.
Cho vay là hoạt động sinh lời cao, do đó các Ngân hàng đã tìm kiếm mọi
cách để huy động được tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế. Một trong những nguồn
quan trọng là các khoản tiền gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân
hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền và cam kết hoàn trả
đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các
Ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là một phầm thưởng cho khách hàng, về
việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép Ngân hàng sử dụng
tạm thời để kinh doanh.
1.1.2.3.Nghiệp vụ cho vay thương mại
Ngay ở thời kỳ đầu, các Ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu và thực tế là cho
vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho Ngân hàng để
lấy tiền trước). Sau đó Ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người
mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhầm mở rộng sản xuất kinh doanh.
1.1.2.4. Cho vay tiêu dùng
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10

5
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
Trong gia đoạn đầu hầu hết các Ngân hàng không tích cực cho vay đối với
các cá nhân và hộ gia đình, bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủ ro vỡ
nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong
cho vay đã hướng các Ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm
năng. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong
những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát
triển.
1.1.2.5. Tài trợ dự án
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn các Ngân hàng ngày
càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung và dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà
máy, phát triển ngành công nghệ cao, một số Ngân hàng còn cho vay để đầu tư
vào đất.
1.1.2.6. Bảo quản tài sản hộ
Các Ngân hàng thực hiện việc lưu trữ vàng và các giấy từ có giá và các tài sản
khác cho khách hàng trong két ( hay còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng
thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố hoặc những giấy tờ quan trọng
khác của khách với nguyuên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển
cùng với nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách hàng,
thanh toán lãi hoặc cổ tức hộ.
1.1.2.6. Cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, Ngân hàng không chỉ bảo quản mà
còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua Ngân hàng đã mở đầu
cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến Ngân
hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến
Ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an
toàn, nhanh chóng, chinh xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh
doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi Ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi
thanh toán qua Ngân hàng dược mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều này đã

khuyến khích khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng để nhờ Ngân hàng thanh toán hộ.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, bên cạnh những thể thức thanh toán
như séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới như
điện, thẻ....
1.1.2.7. Quản lý ngân quỹ
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
6
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
Các Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và
nhiều cá nhân. Nhờ đó các Ngân hàng thường có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều
khách hàng. Do có kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc
thu ngân, nhiều Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ,
trong đó Ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh, tiến
hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tin
dụng ngắn hạn, cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
1.1.2.8. Tài trợ các hoạt động của Chinh phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của Ngân hàng đã trở thành
trọng tâm của các chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường cấp bách trong khi
thu không đủ, Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của các
Ngân hàng. Ngày nay Chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động kiểm soát các Ngân
hàng. Các Ngân hàng được cấp giây phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết
thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ.
Các Ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng
lượng tiền gửi mà Ngân hàng huy động được.
1.1.2.9. Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của Ngân hàng cho một khách hàng rất lớn, và do Ngân
hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên Ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách
hàng. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển
mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang
thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác.

1.1.2.10. Cho thuê thiết bị trung vâ dài hạn
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị rất lớn, nhiều
hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê khách hàng có thể mua
(do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều Ngân hàng đã cho khách hàng
quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua,
trong đó Ngân hàng mua thết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng
phải trả tới hơn 70% đến 100% giá trị vủa tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của
Ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay, và được sếp vào tín dụng trung và
dài hạn.
1.1.2.11. Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
7
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các Ngân hàng có rất nhiều chuyên gia
về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ Ngân hàng quản
lý tài sản và quản lý hoạt đông tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy
thác vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư....Thâm trí các Ngân hàng đóng vai trò
là người được ủy thác trong di trúc, quản lý tài sản hộ khách hàng đã qua đời bằng
cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi Ngân
hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản
lý tài chính, thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
1.1.2.12. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Nhiều Ngân hàng đang phấn đấu cung câp đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thỏa mãn mọi như cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các
Ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng
cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu của các chứng khoán khác. Trong một vài trường
hợp, các Ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng
khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
1.1.2.13. Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay các Ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó

đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro
trong hoạt động kinh doanh, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với
công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con, Ngân hàng cung cấp dịch vụ
tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí....
1.2. Cho vay hộ sản xuất của NHTM
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm hộ sản xuất
- Khái niệm hộ sản xuất
Hộ sản xuất được hiểu là hộ kinh tế tự chủ, phải có đủ tư cách pháp nhân, đảm
bảo quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, bảo vệ quyền làm ăn chính đáng của kinh
tế hộ. Với mọi chính sách của Đảng và Chính phủ cũng như Ngân hàng tạo điều kiện
thuận lợi để họ chủ động trong quá trình sản xuất, phát triển các ngành nghề truyền
thống, ngành dịch vụ.
Hộ sản xuất còn là thành viên nhận khoán đối với các tổ chức hợp tác có
quyền liên hệ với Ngân hàng để vay vốn, tổ chức sản xuất các doanh nghiệp nhà
nước, HSX hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chế biến, dịch vụ lưu thông hàng hoá
trong ngành nông, lâm, thuỷ sản. Ngày nay chỉ thị khoán cho HSX là một vai trò chủ
yếu, họ là người chủ nhận khoán đất lâu dài.
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
8
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
Hộ sản xuất là hộ cá thể, tư nhân nếu trong sản xuất mang tính chất tư nhân vì thế
trong sản xuất không theo sự hướng dẫn chung là HSX mang tính chất thừa kế.
Về mặt pháp lý hộ gia đình là người nhận khoán, đối với hợp tác xã sản xuất
cái gì, bao nhiêu là do kinh tế tập thể chi phí thì nay đã có sự thay đổi đáng kể, HSX
là chủ thể kinh tế trực tiếp sản xuất, kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân, bình
đẳng trước pháp luật.
Hộ gia đình nông dân tự kinh doanh, tự sản xuất và tự chịu trách nhiệm trực
tiếp về kết quả sản xuất kinh doanh của mình.
- Đặc diểm cơ bản về hộ sản xuất
Kinh tế HSX ở nước ta tạo ra thu nhập chính đáng cho người lao động tiến

tới giàu có thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp nông thôn một cách có hiệu quả.
Vấn đề đặt ra là phát triển kinh tế hộ theo hướng nào? Đây là một vấn đề quan
trọng và phức tạp cần phải tập trung thời gian, công sức và trí tuệ một cách đầy đủ
nghiêm túc.
- Nếu xét về mặt quan hệ sở hữu kinh tế HSX phát triển theo hai hướng sau:
Thứ nhất : Số hộ có vốn, có lao động, có kinh nghiệm sản xuất sẽ vươn lên trở
thành giàu có, một số hộ thiếu vốn, thiếu lao động, thiếu kinh nghiệm sản xuất dần dần
bị tách rời khỏi tư liệu sản xuất nhất là đất đai. Xu hướng này sẽ xuất hiện sở hữu tư
nhân, dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo trong nông thôn.
Thứ hai: Các hộ gia đình sản xuất biết kết hợp với nhau để phát triển sản
xuất trở thành các tổ chức hợp tác tự nguyện, xu hướng này phát triển sẽ xuất hiện
các hình thức hợp tác mới.
Đứng trên góc độ của phân công lao động xã hội và theo quy luật của sản xuất
hàng hoá kinh tế hộ phát triển sản xuất theo xu hướng là: nền sản xuất tự cấp tự túc
sẽ vươn lên sản xuất hàng hoá cho xã hội.
Những xu hướng phát triển kinh tế hộ trên đây không đối lập với nhau mà
cùng tồn tại, phát triển và quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau quá trình phát
triển một nền kinh tế nhiều thành phần tạo nên những đặc trưng, đặc điểm của kinh tế
hộ sản xuất theo kiểu mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta cụ thể:
Đặc trưng 1 : Các HSX ở nông thôn nước ta đang chuyển từ kinh tế tự cung
tự cấp lên nền kinh tế hàng hoá, tiếp cận với nền kinh tế thị trường, chuyển từ nghề
nông thuần tuý sang nền kinh tế đa dạng, kết hợp với phát triển các ngành nghề thủ
công mỹ nghệ. Dưới sự tác động của các quy luật thị trường tất yếu dẫn đến cạnh
tranh và hệ quả tất yếu sẽ có sự phân chia giàu nghèo trong nông thôn. Từ đó đặt ra
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
9
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
đối với quản lý và điều tiết từ phía Nhà nước là phải làm sao vừa cho kinh tế hộ
phát triển và đảm bảo công bằng xã hội, tăng số hộ giàu, giảm số hộ nghèo, tạo điều
kiện cho hộ nghèo vươn lên khá giả.

Đặc trưng 2 : Quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ chênh lệch nhau
khá lớn giữa các vùng và ngay cả trong một số vùng cũng có sự chênh lệch nhau về
quy mô và diện tích đất đai, vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật lao động. Do đó, một tất
yếu của sự phát triển kinh tế HSX là nảy sinh quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất
vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng tăng để giảm bớt tính chất sản xuất phân tách,
lạc hậu của kinh tế hộ sản xuất. Đó chính là yêu cầu của sản xuất hàng hoá. Tuy
nhiên quá trình tích tụ và tập trung sản xuất được coi là hợp lý còn phụ thuộc vào tính
chất và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp.
Đặc trưng 3 : Trong quá trình chuyển hoá của kinh tế HSX sẽ xuất hiện nhiều
hình thức kinh tế hộ khác nhau trong đó phổ biến là các hộ như: hộ nhận khoán trong
các hợp tác xã, nông lâm trường. Đây là hình thức kinh tế hộ trong đó các hộ nhận
khoán là các thành viên của tổ chức kinh tế tập thể và quốc doanh. Sự tồn tại và phát
triển của các hình thức kinh tế này gắn liền với sự tồn tại và phát triển của các tổ
chức kinh tế đó.
1.2.2. Cho vay hộ sản xuất của NHTM
1.2.2.1. Khái niệm cho vay (tín dụng) hộ sản xuất
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là quan
hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ
chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có
lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như: Tín dụng thương
mại, Tín dụng Ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói
chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các Ngân hàng, tổ
chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, được thực hiện dưới hình thức
tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Theo điều 20 Luật tổ chức tín dụng quy định: “ Hoạt động tín dụng là việc tổ
chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”.
“ Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khẩu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.

SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
10
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng Ngân hàng có được những hình thức tín
dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng
tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành một
hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ “ tín dụng hộ
sản xuất”. Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng giữa một bên là Ngân
hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong
mọi quan hệ xã hội có thừa kế quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, có tài sản thế chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách
để tham gia quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để hộ
sản xuất đáp ứng điều kiện vay vốn Ngân hàng.
Chỉ thị 202/ chính trị ngày 28 tháng 6 năm 1991 của Chính phủ ban hành về
việc cấp tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn, tiếp đến là chỉ thị 14/CP ngày
02/03/1993 của Chính phủ ban hành về chính sách cho hộ nông dân vay vốn để phát
triển Nông- Lâm- Ngư nghiệp và kinh tế nông thôn.
Ngày 30 tháng 3 năm 1999 Chính phủ ban hành QĐ 67/QĐ/1999 và
148/QĐ/1999 về chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ nông nghiệp nông thôn.
Ngày 29/06/2006 Nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về giao dịch bảo
đảm. Quyết định 1300/2007/QĐ-HĐQT-TĐHo của Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Viêt Nam về đảm bảo tiền vay. NĐ 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000
về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Ngày 31/07/2000 Chính phủ ta QĐ số 11/2000/NQ-CP về giải pháp đảm bảo
tiền vay.
Ngày 25/8/2000 chính phủ ra quyết định số 103/2000/QĐ-TTg về một số
chính sách phát triển nông thuỷ sản.
Thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, Chính phủ Ngân hàng nông

nghiệp Việt Nam đã cụ thể hoá bằng Thông tư 01/TD-NH ngày 26/03/1993 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện NĐ 14 CP, văn bản số
320/CV Ngân hàng nhà nước ngày 16/04/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
về việc chủ đạo thực hiện QĐ 67; QĐ 198/QĐ (1994) về thể lệ cho vay vốn kinh tế
gia đình và cho vay tiêu dùng. QĐ 324/QĐ (1998) về quy chế cho vay của các tổ
chức tín dụng đối với khách hàng. Tiếp sau đó ra đời một loạt các Thông tư văn bản
mới để phù hợp với tình hình kinh tế từng thời kỳ như QĐ 283/QĐ/NHNN1 ngày
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
11
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
25/08/2000 về việc ban hành quy chế bảo lãnh Ngân hàng, văn bản số 284/QĐ-
NHNN1 ngày 25/08/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nông nghiệp, về việc ban
hành quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng thay cho văn bản
324 cũ, Thông tư số 10/NHNN1 ngày 31/08/2000 của Thống đốc MHNo&PTNT
Việt Nam ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng
đối với khách hàng.
Về phía Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam có quy định 499A/NHNN (1993)
về biện pháp nghiệp vụ cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông, lâm, ngư
nghiệp và kinh tế nông thôn. QĐ 1317/NHNN/1996 về cho vay tiêu dùng; QĐ
180/QĐ/HĐQT ngày 15/12/1998 của hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam về
quy định cho vay đối với khách hàng, trên căn cứ QĐ 324/1998/QĐ NHNN Việt
Nam. Văn bản 791/ NHNN-06 ngày 26/04/1999 về việc thực hiện một số chính
sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Công văn 1555/NHNN-06
ngày 20/07/1999 hướng dẫn thực hiện công văn 320 của NHNN. Văn bản
1099/NHNN-06 ngày 01/06/1999 hướng dẫn nghiệp vụ cho vay HTX; Văn bản
3202/NHNN-05 ngày 18/12/2000 hướng dẫn cho vay phát triển giống thuỷ hải sản
theo QĐ số 103 của Thủ tướng Chính phủ. QĐ 06/QĐ-HĐQT ngày 08/01/2001 của
HĐQT NHNo&PTNT Việt Nam thay thế cho số 180 cũ. QĐ số 72/QĐ-HĐQT,
ngày 31/01/2002 thay thế cho QĐ 06/QĐ- HĐQT; CV 704/NHNN-05 hướng dẫn
cho vay cơ sở hạ tầng ngày 26/03/2001 của NHNo&PTNT; CV 733/NHNN-06

ngày 28/03/2001 của NHNN Việt Nam hướng dẫn cho vay kinh tế trang trại;
749/NHNN Việt Nam - 06 ngày 29/03/2001 của NHNN Việt Nam hướng dẫn cho
vay thông qua tổ vay vốn; 750/NHNN-06 ngày 29/03/2001 hướng dẫn thêm cho vay
và phát triển ngành nghề ở nông thôn; 1111/NHNN-06 ngày 04/05/2001 của NHNN
Việt Nam, về việc hướng dẫn bổ sung cho vay theo hạn mức tín dụng đối với hộ gia
đình, cá nhân. Từ đó giải quyết những khó khăn thắc mắc về cơ chế thủ tục tạo môi
trường pháp lý cho hoạt động tín dụng phát triển.
Ngày 24/9/2003 NHNo&PTNT Việt Nam ban hành QĐ số 300/QĐ-HĐQT -
Tín dụng thay thế cho quyết định số 167/QĐ- HĐQT-03 ngày 7 tháng 9 năm 2000
quyết định về đảm bảo tiền vay trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam với các văn
bản trên, đã mở rộng ra một thị trường mới cho Ngân hàng trong hoạt động tín dụng,
trong khi đó hộ sản xuất kinh doanh đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu
vốn để mở rộng. Đứng trước tình trạng đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng Ngân
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
12
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và phù hợp với cung cầu trên trị trường và
được môi trường xã hội, pháp luật cho phép.
1.2.2.2. Các hình cho vay (tín dụng) đối với hộ sản xuất
Căn cứ vào nghị định số14/CP ngày 02/03/1993 của Thủ Tướng Chính Phủ và
thông tư số 01/TT-NH ngày 26/3/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định “Về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn và phát
triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn”. Với mục đích là tạo điều
kiện và khuyến khích những hộ vay vốn sản xuất kinh doanh, vay vốn để phát triển
sản xuất hàng hoá nông, lâm, ngư, diêm nghiệp. công nghiệp, mở ngành nghề mới và
kinh doanh dịch vụ có hiệu quả thiết thực, tạo công ăn việc làm, góp phần xây dựng
xã hội văn minh dân giàu nước mạnh.
Nông nghiệp nông thôn là ngành khu vực có tỷ suất lợi nhuận thấp, rủi ro cao,
cho nên để đảm bảo hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất thì Ngân hàng cần tuân thủ
chặt chẽ các nguyên tắc tín dụng quy định: Hộ sản xuất phải sử dụng tiền vay đúng

mục đích đã cam kết trong đơn xin vay và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
những sai trái trong quá trình sử dụng vốn vay, vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả
gốc và lãi đúng thời hạn, ngoài ra vốn vay còn phải được đảm bảo bằng giá trị tài sản
thế chấp.
* Quy trình cấp tín dụng đối với hộ sản xuất
Khi các hộ sản xuát có nhu cầu vay vốn, Ngân hàng sẽ yêu cầu họ lập hồ sơ
vay vốn, hồ sơ gồm: Giấy tờ chứng minh tính pháp lý của khách hàng, phương án, dự
án sản xuất kinh doanh ( riêng đối với các khoản vay nhỏ, khách hàng chỉ cần khai
báo các thông tin liên quan đến ngành, nghề sản xuất và các điều kiện vật chất khác ),
giấy tờ liên quan đến tài sản đảm bảo và giấy đề nghị vay vốn.
Trong quá trình thẩm định hồ sơ vay, Ngân hàng sẽ xét duyệt cho vay nếu các
hộ có đầy đủ các điều kiện mà Ngân hàng quy định như:
- Đại diện cho hộ gia đình để giao dịch với Ngân hàng là chủ hộ hoặc người
đại diện của hộ; chủ hộ hoặc người đại diện phải có đủ năng lực pháp luật dân sự và
năng lực hành vi dân sự.
- Có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi, có khả năng
hoàn trả hoặc có dự án, phương án phục vụ đời sống khả thi phù hợp với quy định
của pháp luật.
- Có khả năng tài chính và có các nguồn thu nhập hợp pháp để thực hiện nghĩa
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
13
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng.
- Cam kết thực hiện nghĩa vụ bảo đảm bằng tài sản theo yêu cầu của tổ chức
tín dụng nếu vay từ 10 triệu đồng trở lên và các hộ sản xuất phải có vốn tự có bằng
tiền, giá trị vật tư, hay ngày công lao động đóng góp vào tổng số vốn của dự án sản
xuất kinh doanh. Hộ sản xuất phải có hộ khẩu thường trú tại địa phương, những hộ ở
địa phương khác đến phải có xác nhận của UBND nơi có hộ khẩu thường trú và được
Uỷ ban nhân dân nơi đến cho phép sản xuất kinh doanh. Hộ sản xuất phải chấp nhận

sự kiểm tra giám sát của Ngân hàng trước, trong và sau khi cho vay. Đồng thời hộ
sản xuất phải cung cấp cho Ngân hàng những tài liệu có liên quan đến việc sử dụng
vốn vay đó.
Tùy vào loại hình sản xuất và quy mô số tiền xin vay mà Ngân hàng phân cấp
người ra quyết định tín dụng. Hợp đồng tín dụng được ký trực tiếp với các hộ hoặc
với tổ trưởng, trong hợp đồng tín dụng ghi rõ thời hạn vay, lãi suất vay...
Thời hạn cho vay của Ngân hàng đối với hộ sản xuất gồm có:
Cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm) đối tượng là vật tư, chi phí trồng trọt, chăn
nuôi, chi phí các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp vật tư, hàng hoá đối với các hộ làm
dịch vụ và kinh doanh thương nghiệp.
Cho vay trung hạn (từ 1năm- 5 năm) đối tượng cho vay là chi phí mở rộng
diện tích canh tác xây dựng cơ bản đồng ruộng để gieo trồng cây lâu năm, chi phí đào
đắp ao hồ, xây dựng chuồng trại, chi phí cải tiến, đổi mới công nghệ, chi phí sửa
chữa lớn, phương tiện vận tải loại nhỏ.
Cho vay dài hạn (trên 5 năm) đối tượng là chi phí xây dựng mới đồng ruộng,
đồi cây, ao hồ, nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải vừa và lớn, chi phí
trồng và chăm sóc cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm... Khi xét duyệt cho vay
Ngân hàng yêu cầu các hộ vay vốn phải nộp đầy đủ các thủ tục theo từng loại hộ vay
và thời hạn cho vay.
Mức lãi suất cho vay thỏa thuận phù hợp với thị trường vốn trên địa bàn và
từng loại cho vay đồng thời phải phù hợp với khung lãi suất đầu vào tối thiểu, lãi suất
đầu ra tối đa do Tổng giám đốc công bố hoặc ủy quyền cho giám đốc Ngân hàng tỉnh,
Thành phố, khu vực công bố.
Sau khi cho vay, Ngân hàng cần tiến hành giám sát tiền vay và thu hồi nợ. Việc
giải ngân phụ thuộc vào phương thức cho vay và quy mô của số tiền cho vay. Sau khi giải
ngân thường Ngân hàng phải tiến hành kiểm tra tại chỗ việc sử dụng vốn vay theo mục
đích xin vay. Ngân hàng tiến hành thu nợ theo định kỳ, thường là sau kỳ thu hoạch. Trong
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
14
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng

trường hợp không trả được nợ thì tùy vào nguyên nhân mà xử lý theo quy định.
* Phương thức cho vay trực tiếp hộ sản xuất
- Cho vay tại trụ sở
Sau khi Ngân hàng đã nhận đủ thủ tục, hồ sơ vay vốn của các hộ sản xuất nếu
không có thiếu sót nào thì cán bộ chuyên quản viết phiếu hẹn khách hàng chậm nhất
là 15 ngày phải giải quyết. Trưởng phòng tín dụng cử cán bộ đi thẩm định, cán bộ tín
dụng phải ghi rõ ý kiến của mình đồng ý hay không đồng ý, nếu không phải đi thẩm
định thì giải quyết ngay trong ngày, khi cán bộ tín dụng đã thẩm định xong trình
trưởng phòng tín dụng nếu không phải tái thẩm định thì trình giám đốc phê duyệt và
thông báo cho khách hàng biết. Khi đã có quyết định cho vay, hồ sơ được chuyển cho
cán bộ tín dụng để hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn sau đó bộ phận tín dụng
chuyển hồ sơ vay vốn cho bộ phận kế toán để tiến hành giải ngân và sau mỗi định kỳ
cán bộ tín dụng phải đi kiểm tra để sử dụng vốn vay. Vì đây là cho vay trực tiếp nên
Ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng nhanh chóng, tạo thuận lợi trong
việc ra quyết định cho vay tuy nhiên cũng gây tốn kém, tăng chi phí nghiệp vụ đối
với Ngân hàng.
- Cho vay theo tổ hợp tác vay vốn
Theo phương thức này, 10-40 hộ sản xuất lập thành một tổ hợp tác vay vốn.
Để trở thành thành viên của tổ, các thành viên phải gần gũi nhau ở một số mặt như
cùng ấp, cùng canh tác, nuôi một loại cây, con hay sản xuất cùng một loại mặt hàng
hoặc cùng mục đích vay vốn. Tổ phải được thành lập trên cơ sở tự nguyện của các hộ
thành viên và bầu tổ trưởng để đại điện pháp lý trong quan hệ giao dịch với Ngân
hàng. Trên cơ sở các quy định cho vay của Ngân hàng, mỗi hộ làm giấy đề nghị vay
vốn, tổ tiến hành họp, xét theo các điều kiện và nhất trí số tiền được vay của từng hộ.
Sau đó tổ trưởng gửi giấy đề nghị vay cho cả tổ tới Ngân hàng cùng các giấy tờ khác.
Trên cơ sở đó nhân viên cho vay sẽ tiến hành thẩm định, thông báo số tiền cho vay
của từng hộ cũng như cho cả tổ. Tổ trưởng là người trực tiếp nhận tiền, theo dõi nợ
vay và thu nợ để chuyển trả cho Ngân hàng. Tuy nhiên từng hộ phải chịu trách nhiệm
trực tiếp về việc hoàn trả số tiền được vay cho Ngân hàng.
- Cho vay thông qua tổ liờn danh, liên đới vay vốn

Về cách thức thành lập tổ tương tự như thành lập tổ hợp tác vay vốn. Theo
phương thức này, tổ trưởng nhận giấy đề nghị vay vốn, lập danh sách thành viên
được chọn đề nghị Ngân hàng cho vay, cán bộ tín dụng cùng tổ trưởng trực tiếp thẩm
định hộ vay vốn hoặc thẩm định điển hình, hướng dẫn làm hồ sơ, kiểm tra việc sử
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
15
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
dụng vốn vay. Ngân hàng trực tiếp giải ngân đến từng hộ sản xuất và thu nợ trực tiếp
khi đến hạn. Trong trường hợp có thành viên trong tổ không trả nợ đúng hạn thì các
thành viên khác phải chịu liên đới trách nhiệm. Trường hợp chưa trả dứt nợ cũ, Ngân
hàng sẽ không cho tổ vay món mới.
Hai phương thức cho vay theo tổ hợp tác và tổ liên danh, liên đới vay vốn
giúp Ngân hàng giảm bớt được thời gian nhận và thẩm định hồ sơ vay, giúp khách
hàng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong giao dịch vay vốn Ngân
hàng, quan tâm hơn nữa đến việc sử dụng vốn có hiệu quả tuy nhiên cũng gây khó
khăn cho Ngân hàng trong việc kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay.
- Cho vay thông qua tổ vay vốn lưu động
Theo phương thức này, các tổ vay vốn lưu động được thành lập ở những nơi
chưa có chi nhánh Ngân hàng cấp 4 hoạt động, đó là các làng, xã vùng sâu, vùng xa
dân cư không nhiều và họ không có điều kiện tiếp cận vốn đầu tư của Ngân hàng. Tổ
cho vay này gồm có cán bộ tín dụng, kế toán, thủ quỹ làm nhiệm vụ thông báo lịch
hoạt động của tổ, hướng dẫn tiếp nhận hồ sơ cho vay, thẩm định cho vay, giải ngân
cho vay, thu nợ và thu lãi khi đến hạn đối với hộ vay vốn. Qua đó sẽ giúp Ngân hàng
mở rộng địa bàn cho vay của mình, từ đó tăng trưởng dư nợ mặt khác các hộ sản xuất
ở các địa phương này sẽ có điều kiện tiếp cận vốn Ngân hàng để mở rộng sản xuất
kinh doanh, thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.
- Phương thức cho vay ba bên
Theo phương thức này, hợp đồng tín dụng có nhiều bên tham gia, trong đó bên
thứ ba (ngoài Ngân hàng và khách hàng) là những tổ chức có trách nhiệm cung ứng
vật tư, hàng hoá cho khách hàng và tiền vay sẽ được Ngân hàng giải ngân để thanh

toán trực tiếp cho các tổ chức này, khách hàng sẽ trực tiếp trả nợ cho Ngân hàng hoặc
bên thứ ba là các đơn vị bao tiêu mà họ có trách nhiệm thanh toán nợ cho Ngân hàng
nhân danh khách hàng đi vay, còn khách hàng sẽ được Ngân hàng cấp tiền vay và
giao sản phẩm cho tổ chức bao tiêu. Phương thức này tạo điều kiện cho Ngân hàng
giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay.
* Phương thức cho vay gián tiếp hộ sản xuất
- Cho vay thông qua các tổ chức trung gian kinh tế.
Trong phương thức cho vay này, Ngân hàng cấp tín dụng cho hộ sản xuất
thông qua tổ chức trung gian. Các tổ chức trung gian trong trường hợp này thường là
các công ty chế biến nông sản được Ngân hàng cấp tín dụng sau đó sẽ ứng vốn cho
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
16
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
các hộ sản xuất, đến vụ thu hoạch các công ty trung gian mua các sản phẩm của hộ
sản xuất đồng thời thu các khoản nợ đã ứng từ đầu vụ sản xuất và trả nợ cho Ngân
hàng. Thực chất Ngân hàng cho vay dựa trên cơ sở phương án tài chính của công ty
và phụ thuộc vào việc cho vay mà Ngân hàng áp dụng còn việc ứng vốn cho hộ sản
xuất là quyền quyết định của công ty trên cơ sở thoả thuận với hộ sản xuất. Cho vay
theo phương thức này đảm bảo hộ vay vốn sử dụng vốn vay đúng mục đích giúp
Ngân hàng giảm bớt thời gian kiểm tra, giám sát sau giải ngân.
- Cho vay qua các tổ chức trung gian tài chính.
Các tổ chức trung gian tài chính trong trường hợp này thường là Quỹ tín dụng
nhân dân, Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn. Thực chất của phương thức này
là sự uỷ thác cho vay giữa Ngân hàng và tổ chức trung gian tài chính khi đối tượng
khách hàng là hộ sản xuất mà Ngân hàng cần đầu tư không nằm trên địa bàn hoạt
động của Ngân hàng hoặc không nằm trong lĩnh vực đầu tư thường xuyên của Ngân
hàng. Theo phương thức này, Ngân hàng sẽ chuyển vốn cho tổ chức trung gian tài
chính và tổ chức này sẽ chịu trách nhiệm giải ngân đối với hộ sản xuất , thu nợ, thu
lãi khi đến hạn và hoàn trả vốn cho Ngân hàng. Phương thức này sẽ giúp cho Ngân
hàng thâm nhập vào lĩnh vực mới một cách thuận lợi để mở rộng thêm chi nhánh

nhưng quan trọng hơn cả là Ngân hàng sẽ không phải bỏ ra chi phí cho việc tìm hiểu
thông tin về lĩnh vực này khi mà các tổ chức trung gian tài chính luôn phải báo cáo số
liệu từng thời kỳ cho Ngân hàng. Tuy nhiên các tổ chức trung gian tài chính cũng thu
được lợi nhuận từ dịch vụ này và khách hàng là hộ sản xuất cũng có điều kiện tiếp
cận vốn tín dụng một cách dễ dàng hơn khi phương thức cho vay này được áp dụng.
Tóm lại: Để thực hiện mục tiêu mở rộng hiệu quả đầu tư tín dụng đối với
hộ sản xuất thì đòi hỏi các Ngân hàng phải thực hiện phối hợp các phương thức nêu
trên bởi mỗi phương thức cho vay đều có những ưu, nhược điểm riêng và chúng sẽ
bổ trợ cho nhau để giúp Ngân hàng đạt được mục tiêu đã đề ra.
1.2.3. Mở rộng cho vay (tín dụng) hộ sản xuất đối với NHTM
1.2.3.1. Khái niệm
Mở rộng tín dụng hộ sản xuất của Ngân hàng thương mại là quan hệ mở rộng
tín dụng giữa các Ngân hàng thương mại đối với hộ sản xuất.
Như vậy, khái niệm về mở rộng tín dụng hộ sản xuất của Ngân hàng
thương mại cũng hoàn toàn nhất quán với khái niệm mở rộng tín dụng Ngân hàng
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
17
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
thương mại, chỉ khác ở đối tượng quan hệ được giới hạn chỉ có thành phần hộ sản
xuất. Quan hệ mở rộng tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với hộ sản xuất
không phải là quan hệ xin cho, quan hệ trợ cấp, mà nó phải đáp ứng lơi ích kinh tế
của cả hai bên. Tuy nhiên trong thời gian qua việc hiểu đúng và thực hiện đúng
khái niệm về mở rộng tín dụng hộ sản xuất của các hộ vay vốn và ngay cả Ngân
hàng thương mại cũng còn chưa chuẩn. Điều đó đưa lại không ít khó khăn cho
việc mở rộng quan hệ tín dụng hộ sản xuất. Do vậy, ở đây ta có thể hiểu: Mở rộng
tín dụng đối với hộ sản xuất thể hiện việc cho vay của Ngân hàng đối với hộ sản
xuất nhằm đáp ứng nhu cầu vốn tới các hộ sản xuất để có khả năng sản xuất, kinh
doanh và phát triển.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá mở rộng cho vay (tín dụng) đối với hộ sản xuất
* Tốc độ mở rộng khách hàng là chỉ số phản ánh số lượng HSX. Đề nghị

vay vốn qua Ngân hàng mà được Ngân hàng cho vay.
Được thể hiện qua công thức:
Tốc độ mở rộng khách
hàng là HSX
= HSX
năm t
- HSX
năm t-1
HSX
năm t-1
Tỷ trọng khách hàng
được vay vốn
= Số lượng HSX được vay vốn
Số lượng HSX đề nghị vay vốn
* Doanh số cho vay đối với hộ sản xuất: Là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh
tổng số tiền Ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định thường là 1
năm.
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
18
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
Ngoài ra, Ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho
vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một năm.
Tỷ trọng doanh số
cho vay HSX
= Doanh số cho vay HSX
Tổng doanh số cho vay
Bên cạnh đó chỉ tiêu phần trăm của doanh số cho vay và chỉ tiêu phần
trăm của hộ sản xuất vay cũng giúp cho Ngân hàng đánh giá khả năng mở
rộng tín dụng đối với hộ sản xuất.
% tăng doanh

số cho vay
=
Doanh số cho vay HSX
năm t
-Doanh số cho vay HSX
năm t - 1
Doanh số cho vay
năm t – 1
* Dư nợ cho vay đối với HSX là số tiền mà Ngân hàng đang cho khách
hàng vay (kể cả trong hạn và được ra hạn nợ)

được thể hiện qua công thức
Tỷ trọng dư nợ cho vay HSX = Dư nợ cho vay HSX
Tổng dư nợ cho vay
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
cho vay HSX
= Dư nợ HSX
năm t
-
Dư nợ HSX
năm t-1
Dư nợ HSX
năm t-1
Một số chỉ tiêu khác:
Tỷ trọng doanh số
cho vay HSX
= Doanh số cho vay HSX
Tổng doanh số cho vay
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
19

Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
Tốc độ tăng doanh
số cho vay HSX
=
Doanh số cho vay HSX
năm t

- Doanh số cho vay HSX
năm t-1
Doanh số cho vay HSX
năm t-1
Tốc độ tăng doanh số cho vay HSX càng lớn chứng tỏ khả năng mở rộng tín
dụng của Ngân hàng ngày càng tăng.
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ảnh mức độ đáp ứng nhu cầu cần vốn trung, dài
hạn của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh theo đánh giá tỷ lệ tối thiểu là
30(%) tổng dư nợ (mục tiêu của NHNo&PTNT Việt Nam). Tuy vậy tỷ lệ này có thể
cao thấp tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn trung, dài hạn của địa phương cũng như chính
sách tín dụng của từng Ngân hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng
1.3.1. Nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Nhân tố thuộc về Ngân hàng
Chính sách cho vay của Ngân hàng: Đây được coi là hướng dẫn chung cho
cán bộ tín dụng nhân viên của Ngân hàng, góp phần tăng cường chuyên môn hoá và
tạo sự thống nhất chung trong hoạt động cho vay của Ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro
và nâng cao khả năng sinh lời.Bao gồm:
+ Chínhh sách khách hàng: Khách hàng vay vốn của Ngân hàng rất đa dạng,
từ các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, cá nhân, người tiêu dùng …Ngân hàng sẽ
phân loại khách hàng truyền thống và quan trọng, khách hàng khác. Nếu Hộ sản xuất
là khách hàng truyền thống và quan trọng sẽ được hưởng chính sách ưu đãi trong cho
vay của Ngân hàng.

+ Chính sách qui mô và giới hạn cho vay.
+ Chính sách lãi suất: Ngân hàng có các mức lãi suất cho vay khác nhau, tuỳ
theo kỳ hạn, loại tiền vay, loại khách hàng. Nếu chính sách lãi suất linh hoạt cho phép
cán bộ tín dụng được thay đổi trong giới hạn nhất định, hoặc cho phép khách hàng
được lựa chọn mức lãi suất. Điều này sẽ làm tăng khả năng tiếp cận với vốn Ngân
hàng của hộ sản xuất.
+ Chính sách về thời hạn cho vay và kỳ hạn nợ: Nếu thời hạn cho vay và kỳ
hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất, thời hạn thu hồi vốn
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
20
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
đầu tư, khả năng trả nợ của hộ sản xuất, sẽ làm tăng hiệu quả cho vay của Ngân hàng
đối với hộ sản xuất, từ đó tăng khả năng mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất.
Qui mô nguồn vốn của Ngân hàng
Qui mô nguồn vốn của Ngân hàng, đặc biệt là qui mô vốn chủ sở hữu là một
nhân tố quan trọng quyết định đến quyết định cho vay của Ngân hàng .Vì theo Khoản
1 Điều 18 Quy chế cho vay của tôt chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo
Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001/ của Thống đốc NHNN: Dư nợ
cho vay tối đa đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ
chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ nguồn uỷ thác của
Chính phủ, của tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng là tổ chức tín dụng
khác.
Chất lượng và tính đa dạng của các hình thức cho vay
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của Ngân hàng.
Một Ngân hàng có những sản phẩm cho vay quá đơn điệu, chất lượng không cao thì
sẽ ít có khả năng lớn mạnh, khả năng mở rộng cho vay. Vì khách hàng vay, họ sẽ tìm
đến với những Ngân hàng nào có dịch vụ và chất lượng phục vụ tốt nhất để vay vốn.
Do đó, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như vậy, buộc các Ngân hàng phải không
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và thực hiện đa dạng hoá sản phẩm để mở rộng
thị phần, tăng khả năng cho vay trò quan trọng trong các sản phẩm dịch vụ của Ngân

hàng.
Trình độ của cán bộ nhân viên trong Ngân hàng
Nhân tố con người đóng vai trò quan trọng trong các sản phẩm dịch vụ của
Ngân hàng, trong đó trình độ của cán bộ, nhân viên là nhân tố quan trọng nhất. Ảnh
hưởng đến hoạt động cho vay trực tiếp nhất là can bộ tín dụng. Họ là người trực tiếp
tiếp xúc với khách hàng, hình ảnh của Ngân hàng được gây dựng trong tâm trí khách
hàng vay vốn bởi các cán bộ tín dụng.
Công nghệ thông tin
Công nghệ thông tin đã đem lại lợi ích to lớn cho rất nhiều ngành nghề, lĩnh
vực, trong cả sản xuất và đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người. Với
việc ứng dụng công thông tin hiện đại vào tất cả các khâu trong hoạt động kinh doanh
đã giúp cho các Ngân hàng: cập nhật, thu thập, xử lý và phân tích thông tin nhanh,
giúp Ngân hàng đơn giản hoá các quá trình làm việc, giảm chi phí, nâng cao chất
lượng sản phẩm. - Hệ thống thông tin Ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm
bắt được các thông tin về Ngân hàng trước khi quyết định mở rộng tín dụng, nhân tố
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
21
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
này rất quan trọng và góp phần ngăn chặn những khoản cho vay tràn nan ngay từ khi
chưa xảy ra.
- Bên cạnh nhân tố mà Ngân hàng khó có thể kiểm soát được thì có rất nhiều
nhân tố thuộc về bản thân Ngân hàng có ảnh hướng tới mở rộng tín dụng. Những
nhân tố này bản thân Ngân hàng có thể tìm được cách hạn chế.
- Chính sách tín dụng của Ngân hàng là một trong những chính sách sản phẩm
quan trọng của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra được hình
thức cho vay phù hợp với yêu cầu, thu hụt được khách hàng đồng thời khuyến khích
được khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó chính sách tín dụng của Ngân hàng ảnh
hưởng trực tiếp tới mở rộng tín dụng.
- Chấp hành quy định thể chế tín dụng: Việc chấp hành quy định thể chế tín
dụng của cán bộ làm tín dụng tốt hay không tốt, làm tốt hay không tốt là nguyên nhân

để các chỉ tiêu định tính đánh giá mở rộng tín dụng có được thực hiện hay không. Mỗi
cán bộ tín dụng khi cho vay đều phải tuân theo luật các tổ chức tín dụng và các quy
định thể lệ tín dụng riêng của từng Ngân hàng.
- Cho vay một số khách hàng với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có thể
đủ khả năng tài chính để hoàn trả Ngân hàng đồng thời vi phạm điều kiện về đảm bảo
tiền vay làm cho mở rộng tín dụng bị ảnh hưởng.
- Trình độ cán bộ tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp với mở rộng cho vay.
- Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp thời lắm
bắt được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được yếu tố ảnh hưởng tới
việc mở rộng tín dụng đã, đang và sẽ xảy ra để có biện pháp kịp thời không làm cho
việc mở rộng tín dụng bị giảm sút.
1.3.1.2. Nhân tố thuộc về khách hàng
Ngoài nhân tố kinh tế ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng đối với HSX thì
có rất nhiều nhân tố từ chính khách hàng mở rộng tín dụng.
- Trình độ của khách hàng: bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ quản lý
của khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng quản lý khách hàng
có thể đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt để có khả năng tài chính trả nợ Ngân
hàng. Tuy nhiên nếu khách hàng không có khả năng quản lý đồng thời trình độ sản
xuất kém thì việc trả nợ Ngân hàng là rất khó khăn. Vì vậy trình độ của khách hàng là
yếu tố ảnh hưởng mở rộng tín dụng.
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích: Đây là nhân tố thuộc về chủ quan của
khách hàng. Nhân tố này rất khó kiểm soát từ đầu. Việc sử dụng vốn sai mục đích là
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
22
Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất hiện ngay từ khi vay hoặc khi đã được
vay. Tuy nhiên việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm nguyên tắc cho
vay, vì vậy đã làm ảnh hưởng tới mở rộng tín dụng của Ngân hàng.
Tóm lại: Tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng hết sức to lớn đối với
HSX cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Nó được coi là công cụ đắc lực của nhà

nước là đòn bẩy kinh tế, là động lực thúc đẩy phát triển HSX một cách toàn diện từ
đó phát huy hết được vai trò to lớn của mình đối với quá trình công nghiệp hoá hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực
tế cho thấy mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với HSX còn có nhiều vấn đề cần giải
quyết và tháo gỡ do đó việc mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với HSX là điêù rất
quan trọng đối với NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT huyện Mỹ
Hào nói riêng.
1.3.2. Nhân tố khách quan
1.3.2.1. Các Nhân tố thuộc về Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ
Hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại chụi sự kiểm soát chặt chẽ của
Ngân hàng Trung Ương và Chính phủ, trong đó hoạt động cho vay của Ngân hàng
chịu tác động trực tiếp của các công cụ chính sách tiền tệ: Tái cấp vốn, tỷ lệ giữ trự
bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tín dụng…
+ Tái cấp vốn: Là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung Ương đối với
các Ngân hàng thương mại, khi đó lượng tiền cung ứng đã tăng lên làm tăng khả
năng cho vay của Ngân hàng thương mại.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô
hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động. Thông qua đó Ngân hàng Trung Ương tác
động tới cả giá cả và khối lượng tín dụng từ đó ảnh hưởng đến khả năng cho vay của
Ngân hàng thương mại.
+ Nghiệp vụ thị trường mở: Là hoạt động mua, bán các giấy tờ có giá, Như: Trái
phiếu Chính phủ, Tín phiếu kho bạc…trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung cầu giấy tờ
có giá, ảnh hưởng tới dự trữ của các Ngân hàng thương mại, tác động đến khả năng cho
vay của Ngân hàng thương mại.
+ Lãi suất tín dụng: Sự tăng giảm lãi suất có thể tác động đến cung cầu về vốn
vay, gây ảnh hưởng tới khả năng cho vay của Ngân hàng. Nếu lãi suất huy động cao
sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền tại Ngân hàng, Ngân hàng sẽ chủ động được
nguồn vốn để mở rộng cho vay.
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
23

Chuyªn §Ò Tèt NghiÖp GVHD: PGS.TS Lu ThÞ H¬ng
1.3.2.2. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh tế
Sự phát triển của nền kinh tế có tác động trực tiếp đến hoạt động tín dụng và
nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế. Nếu môi trường kinh tế ổn định, một nền kinh tế
đang trên đà phát triển, môi trường kinh doanh thuận lợi, nhu cầu tiêu dùng của dân
cư tăng…sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong kinh doanh và đạt lợi nhuận
cao, nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất, làm cho nhu cầu tín dụng tăng lên. Đồng thời,
nền kinh tế phát triển, thu nhập tăng cao, tiết kiệm tăng, nguồn cung ứng vốn cho thị
trường tăng. Hai yếu tố này là điều kiện thuận lợi để mở rộng cho vay của Ngân hàng
thương mại. Ngược lai, nếu nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái, kém phát
triển, lạm phát, đầu tư không mang lai hiệu quả, các hoạt động sản xuất bị thu hẹp,
nhu cầu đầu tư giảm, các nguồn vốn cho đầu tư cũng bị thu hẹp…thì Ngân hàng cũng
không thể mở rộng hoạt động cho vay được.
Nền kinh tế càng ổn định càng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng
hộ sản xuất, đồng thời làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của các hộ tiến hành
một cách bình thường, không bị ảnh hưởng giá cả tăng quá mức hay khủng hoảng
làm cho khả năng tín dụng không biến động lớn. Trong trường hợp này, mở rộng
hoạt động tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào khả năng mở rộng hoạt động tín dụng của
bản thân các Ngân hàng Thương mại.
Để mở rộng hoạt động tín dụng còn phụ thuộc vào việc huy động vốn và các
khách hàng. Bởi nó là cầu nối giữa hoạt động kinh doanh của Ngân hàng với hoạt
động của lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế. Do đó mỗi biểu hiện xấu hay tốt của
khách hàng sẽ ảnh hưởng tương ứng đến hoạt động tín dụng thông qua cơ chế tác
động của những mối quan hệ tín dụng. Với khách hàng sản xuất kinh doanh có lãi, có
xu hướng phát triển, có khả năng chiếm lĩnh thị trường (vay trả nợ sòng phẳng) thì
cầu nối giữa vay và cho vay sẽ thông suốt và ngày càng mở rộng. Bằng cơ chế chính
sách tín dụng phù hợp các Ngân hàng Thương mại sẽ tìm được khách hàng tốt để vay
và cho vay, tạo sự hợp lý giữa nguồn vốn huy động được với việc đáp ứng nhu cầu
vay vốn của các khách hàng.
Mức độ phù hợp giữa lãi suất Ngân hàng với mức lợi nhuận của hộ sản xuất cũng

ảnh hưởng đến khả năng mở rộng hoạt động Tín dụng. Lợi tức của Ngân hàng thu được
và hoạt động tín dụng bị giới hạn do lợi nhuận của hộ sản xuất sử dụng vốn vay Ngân
hàng. Vì vậy, với mức lãi suất cao hơn mức lợi nhuận các hộ sản xuât thu được từ hoạt
động sản xuất, các hộ sản xuất sẽ không có khả năng trả nợ Ngân hàng, ảnh hưởng đến
qúa trình sản xuất của các hộ nói riêng và tình hình phát triển kinh tế nói chung.
SV: NguyÔn Thµnh Nam Líp: Ng©ng Hµng K10
24

×