Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

phát triển kinh tế biển việt nam thực trạng và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.73 KB, 38 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đối với hành tinh chúng ta, biển và đại dương có vai trị vô cùng to lớn. Đại
dương chứa đựng các tài nguyên khoáng sản, tài nguyên sinh học và các nguồn lực
khác cần thiết cho sự phát triển kinh tế và xã hội của các quốc gia.
Việt Nam là một trong những quốc gia có biển với đường bờ biển dài 3.260 km
lại được thiên nhiên ưu đãi nhiều bởi vị trí địa lí giáp với biển Đơng – thuận lợi cho
phát triển kinh tế cũng như các hoạt động giao thương quốc tế, trao đổi hàng hóa với
các quốc gia khác bằng con đường hàng hải cùng với sự phong phú về các loại tài
nguyên thiên nhiên. Trong những năm vừa qua, dựa trên lợi thế về tài nguyên biển,
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, biện pháp quan trọng để thúc đẩy sự
phát triển các lĩnh vực kinh tế biển chủ yếu của Việt Nam và đã đạt được những thành
tựu cơ bản, tạo đà cho các giai đoạn phát triển tiếp theo. Quy mô kinh tế biển và vùng
ven biển tăng lên rõ rệt, có bước phát triển mạnh, đạt tốc độ tăng trưởng trên 10%.
Ngoài các ngành kinh tế biển truyền thống như thủy sản, hàng hải, du lịch,... vừa qua
cơ cấu ngành, nghề cũng thay đổi cùng với sự xuất hiện ngành/lĩnh vực kinh tế mới
như: khai thác dầu khí, kinh tế đảo, kinh tế ven biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy
sản,... Ngồi đội tàu, ngành hàng hải đã có hệ thống khoảng 90 cảng biển lớn nhỏ với
tổng năng lực hàng hóa thơng qua gần 100 triệu tấn/năm. Ngành du lịch biển cũng phát
triển khá mạnh, hàng năm thu hút khoảng gần 15 triệu lượt khách, trong đó có hơn 3
triệu khách nước ngoài, bằng 73% số khách du lịch nước ngồi của cả nước, đạt tốc độ
tăng bình qn 13%/năm; giải quyết việc làm cho hơn 15 vạn lao động. Hoạt động khai
thác dầu khí được duy trì tại các mỏ ở thềm lục địa phía nam. Sản lượng dầu thô khai
thác ở nước ta tăng hàng năm 30%. Tuy nhiên, sản lượng khai thác dầu khí trong nước
thời gian tới sẽ chững lại và sẽ giảm đến mức 13 triệu tấn (năm 2025). Vùng biển và


ven biển có đóng góp lớn vào xuất khẩu, thu ngoại tệ, chủ yếu từ lĩnh vực dầu khí và
thủy sản…
Tuy nhiên đánh giá một cách tổng thể, sự phát triển của kinh tế biển, đảo ở nước
ta vẫn chưa xứng tầm với các điều kiện và lợi thế sẵn có. Quy mơ kinh tế biển của Việt


Nam hiện mới chỉ đạt khoảng hơn 10 tỷ USD, trong khi sản lượng kinh tế biển của thế
giới ước 1.300 tỷ USD; trong đó, Nhật Bản là 468 tỷ USD, Hàn Quốc là 33 tỷ USD.
Theo ước tính, quy mơ kinh tế (GDP) biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt
khoảng 47- 48% GDP cả nước, trong đó GDP của kinh tế “thuần biển” mới đạt khoảng
20-22% tổng GDP cả nước. Trong các ngành kinh tế biển, đóng góp của các ngành
kinh tế diễn ra trên biển chiếm tới 98%, chủ yếu là khai thác dầu khí, hải sản, hàng hải,
du lịch biển. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển như chế biến
dầu khí, chế biến thủy hải sản, đóng và sửa chữa tàu biển, thông tin liên lạc... bước đầu
phát triển, nhưng hiện tại quy mô mới chiếm khoảng 2% kinh tế biển và 0,4% tổng
GDP cả nước. Cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo tuy đã được quan tâm
đầu tư mới nhưng còn yếu kém. Hệ thống cảng biển nhỏ bé, manh mún, mạng lưới tàu
thuyền, trang thiết bị nhìn chung cịn lạc hậu và chưa đồng bộ nên hiệu quả thấp. Các
chỉ tiêu hàng hố thơng qua cảng trên đầu người chỉ bằng 1/140 của Singapore, 1/7 của
Malaysia và 1/5 của Thái Lan.
Trong bối cảnh trên thế giới q trình tồn cầu hóa đang diễn ra một cách nhanh
chóng, hội nhập là xu thế tất yếu, việc phát triển kinh tế biển trên cơ sở hiểu rõ thực
trạng và triển vọng lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn nữa với sự phát triển của đất
nước. Chính vì vậy em đã chọn đề nghiên cứu đề tài “Phát triển kinh tế biển Việt Nam:
thực trạng và triển vọng”.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Bài viết chủ yếu nghiên cứu về thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế biển
Việt Nam.


2.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: nghiên cứu phát triển kinh tế biển trên phạm vi toàn quốc.
- Về thời gian: nghiên cứu, đánh giá tình hình phát triển kinh tế biển Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế thời gian từ năm 2009 – 2013.


3. Kết cấu đề tài
Chương 1: Tổng quan về kinh tế biển
Chương 2: Thực phát triển kinh tế biển Việt Nam giai đoạn 2009-2013
Chương 3: Triển vọng và giải pháp phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm 2020


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ BIỂN
1.1 Kinh tế biển và những vấn đề liên quan
1.1.1 Khái niệm về kinh tế biển
Hiện nay, khái niệm kinh tế biển không cịn gói gọn trong lĩnh vực nghề cá, vận
tải viễn dương, du lịch biển mà đã mở rộng sang các lĩnh vực khai thác tài nguyên
biển, năng lượng biển, bảo vệ và cân bằng mơi trường sinh thái biển, phịng chống
thiên tai, giảm nhẹ tác động biến đổi khí hậu.
Có nhiều quan điểm về kinh tế biển nhưng theo tinh thần của nghị quyết 4 của
TW khóa X thì kinh tế biển là khái niệm mang tính thực tiễn, có thể chia làm hai phần
chủ yếu:
- Một là toàn bộ những hoạt động diễn ra trên biển bao gồm: Kinh tế hàng hải
(vận tải biển, khai thác cảng biển và dịch vụ liên quan), Hải sản (đánh bắt, nuôi trồng
và khai thác cảng cá, Khai thác dầu khí trên biển, Du lịch biển, Nghề muối biển, Dịch
vụ tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển, Kinh tế hải đảo.
- Hai là những hoạt động trực tiếp liên quan đến khai thác, có thể khơng diễn ra
ngay trên biển, nhưng dựa vào yếu tố biển và diễn ra từ đất liền: Đóng và sửa chữa tàu
biển (có nước xếp vào kinh tế hàng hải), Cơng nghiệp chế biến dầu khí, Cơng nghiệp
chế biến hải sản, Cung cấp dịch vụ biển (khí tượng thủy văn, logistic và một số lĩnh
vực khác), Thông tin liên lạc biển (đài phát tín ven biển, hệ thống định vị), Nghiên cứu
khoa học - công nghệ biển, Điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường biển, Đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, Bảo vệ môi trường, sinh thái biển.

1.1.2 Ảnh hưởng của kinh tế biển với các quốc gia

Có thể thấy kinh tế biển là lĩnh vực kinh tế được hình thành, tồn tại và phát triển
từ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của biển. Bởi vậy không chỉ các quốc gia có biển
mới có nền kinh tế biển, mà ngay các quốc gia khơng có biển cũng có thể hình thành


các lĩnh vực kinh tế biển của quốc gia mình bằng cách thông qua nhiều con đường tiếp
cận khác nhau như Áo, Thụy Sĩ, Slovakia thông qua sông Danube để tiếp cận biển
Đen.
Theo Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển hiện nay cho các quốc gia khơng
giáp biển có quyền tiếp cận biển mà không phải trả thuế lưu thông qua quốc gia quá
cảnh, đồng thời Liên Hiệp Quốc cũng có chương trình hỗ trợ các quốc gia đang phát
triển khơng giáp biển.
Với vai trị đặc biệt, biển tác động đến các hoạt động của con người, trong đó
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc hình thành các lĩnh vực kinh tế biển trong
phạm vi hẹp và phạm vi rộng như:
- Giao lưu thương mại, đầu tư, hội nhập thông qua hệ thống cảng biển.
Đây là một lĩnh vực kinh tế biển cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế biển của
các quốc gia. Ngày nay, vị trí địa lý biển của quốc gia có tầm quan trọng đặc biệt hơn
cả tài nguyên, như: Singapore, Nhật Bản, Hà Lan… đều là những nước nghèo về tài
nguyên nhưng có nền kinh tế biển phát triển hùng mạnh nhờ vào vị trí địa lý đặc biệt
vùng biển của mình.
Thường khi nói đến giao lưu đường biển, người ta chỉ thấy ở lĩnh vực bn bán,
trao đổi hàng hóa mà ít quan tâm đến một hệ quả vô cùng quan trọng bởi sự giao lưu
này sẽ dẫn đến hình thành các khu công nghiệp tập trung hoặc khu kinh tế, các đặc khu
kinh tế, các chuỗi đô thị và kéo theo hình thành các lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân
hàng… và làm biến đổi đời sống xã hội.
Đây là phần rất quan trọng gần như cốt lõi của nền kinh tế biển của mỗi quốc
gia. Do đó nếu hệ quả hết sức quan trọng nói trên khơng có trong tư duy về kinh tế biển
sẽ dẫn đến một khiếm khuyết to lớn khi đưa ra chiến lược phát triển kinh tế biển của
mỗi quốc gia.



Điều được nêu ra trên đây cũng cho chúng ta thấy ngay ở miền Trung Việt Nam,
từ một vùng nghèo đói, song do vị trí địa lý là mặt tiền của tiểu vùng sơng Mekong và
châu Á - Thái Bình Dương nên việc phát triển các cảng biển nước sâu ở đây đã dẫn đến
sự hình thành một trục phát triển đại cơng nghiệp mà trong đó là cơng nghiệp năng
lượng, luyện cán thép, vật liệu xây dựng, đóng tàu, chế tạo máy cơng cụ, điện… Kéo
theo hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp nhẹ, và dẫn đến sự hình
thành các ngành du lịch dịch vụ, tài chính, ngân hàng.
Hệ quả to lớn là dẫn đến hình thành chuỗi đô thị mới dọc miền duyên hải và sẽ
dẫn đến sự biến đổi sâu sắc của xã hội ở miền Trung. Rõ ràng biển đã tác động và dẫn
đến hình thành, phát triển tồn cục nền kinh tế ở đây và do đó tất cả các ngành được
nêu ra dưới đây phải được tư duy là kinh tế biển.
- Ngành cơng nghiệp như khai khống biển mà trong đó ngành khai thác dầu khí
ngày càng trở nên quan trọng, kèm theo các ngành khai thác từ lòng đất và nước biển.
- Ngành công nghiệp đánh bắt cá, nuôi trồng và chế biến hải sản.
- Ngành cơng nghiệp đóng tàu, cơng trình biển.
- Ngành du lịch biển đảo.
- Ngành cơng nghiệp quốc phịng biển
- Ngành nơng nghiệp chịu ảnh hưởng qua gió mùa mang hơi nước từ đại dương
vào đất liền và sự xâm nhập mặn vào đồng bằng cũng như mực nước biển dâng. Điều
đó cho thấy ngay cả nông nghiệp ở các khu vực đồng bằng vẫn chịu tác động từ biển
và nó có thể được xem là một phần của lĩnh vực kinh tế biển.
Với tư duy tổng quát và đầy đủ, chúng ta có thể đưa ra rất nhiều những lĩnh vực
kinh tế được hình thành và chịu tác động trực tiếp và gián tiếp từ biển và do đó tư duy
về kinh tế biển rất rộng lớn.


1.2 Nguyên nhân của xu hướng phát triển kinh tế hướng ra biển của thế giới
Biển có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của các quốc gia

có biển nói riêng avf của thế giới nói chung. Một số nước lấy phát triển kinh tế biển
làm khâu đột phá. Trong một thế giới đa cực, cuộc chạy đua phát triển kinh tế biển và
chanh chấp tài nguyên, lãnh thổ trên biển của các quốc gia có biển diễn ra ngày càng
gay gắt.
Trên thế giới có 157 quốc gia có biển. Các nước này đều phát triển kinh tế biển
với quy mô, cấp độ và lộ trình tùy theo khả năng của mình. Có ba nguyên nhân cơ bản
để lý giải cho xu hướng này:
Một là, do dân số ngày càng tăng, không gian sinh sống trên đắt liền trở nên
chật hẹp, nhiều nước muốn vươn ra biển để mở rộng không gian kinh tế và sinh sống.
Hai là, do tốc độ phát triển kinh tế và mức tăng dân số hiện nay nhanh chóng
dẫn tới việc khai thác tài nguyên trên đất liền ngày càng cạn kiệt, trong khi tài nguyên
trong lòng biển lại vơ cùng phong phú. Ngồi dầu khí, biển và đại dương cịn có nhiều
loại khống sản với trữ lượng lớn như: Urani ước tính khoảng 4 tỷ tấn, vàng khoảng 10
triệu tấn... gấp bội lần trữ lượng trên đất liền. Đặc biệt là "băng cháy" tên của một hợp
chất của Metan và nước, đóng bưng dưới nhiệt độ thấp và áp suốt cao dưới đáy biển.
Ba là, do hiện nay khoa học – công nghệ đã phát triển vượt bậc, cho phép lồi
người có thể nghiên cứu, thăm dị, khai thác hiệu quả hơn, vươn xa hơn. Việc vươn ra
biển của các nước dẫn đến tình trạng tranh chấp về biển đảo trên thế giới hiện nay diễn
ra hết sức quyết liệt và ngày càng trở nên phức tạp.
Nguyên nhân của các cuộc tranh chấp là do vai trò to lớn của biển, đảo với mỗi
quốc gia, dân tộc trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và quân sự. Việc phân định biên giới
trên biển rất khó khăn và phức tạp, vì có nhiều vùng chồng lấn và nhiều vấn đề do lịch
sử để lại, trong khi các nước lại có những quan điểm khác nhau về phân định các vùng
biển. Nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản nhất là do tham vọng các nước, nhất là các nước
lớn muốn sử dụng ưu thế về kinh tế và quân sự để chiếm phần lợi ích về mình. Ngồi


ra trên thế giới hiện nay chưa có một tổ chức đủ mạnh và vô tư để giải quyết coogn
việc này.


1.3 Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của quốc tế và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam
1.3.1 Kinh nghiệm phát triển kinh tế biển của quốc tế
Các nước có vị trí địa lý giáp biển đều mong muốn hướng ra biển, xây dựng
chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai thác tiềm năng của biển. Riêng
trong lĩnh vực khai thác tài nguyên, thiên hướng hiện nay là bảo tồn tài nguyên trên đất
liền và vùng biển, vươn tầm ảnh hưởng ra xa hơn để khai thác tài nguyên trên đại
dương. Vì vậy, các nhà nghiên cứu dự báo rằng đại dương là một lĩnh vực đầy hứa hẹn
đối với các hoạt động kinh tế.
Với đường bờ biển dài và hàng nghìn hịn đảo, Nhật Bản sử dụng bền vững tài
nguyên và bảo vệ môi trường biển là một trong các nhiệm vụ quan trọng nhất của chiến
lược biển quốc gia. Theo phó giáo sư Miki Yoshizumi của khoa nghiên cứu mơi trường
tồn cầu, Đại học Kyoto, sau năm 1945, Chính phủ Nhật Bản thành lập kế hoạch phát
triển tổng thể lần thứ nhất, với vác vùng công nghiệp trọng điểm tập trung ở các vùng
bờ biển. Nhiều biện pháp cải tạo đã được đưa ra để lấy đất xây dựng cảng và phát triển
cơng nghiệp.
Chương trình phát triển biển của một quốc gia mạnh về kinh tế biển khác là Nga
cũng xác định ba nhiệm vụ chủ yếu là giúp nước này trở nên năng động hơn trên biển
gắn với các mục tiêu và nhiệm vụ phát triển quốc gia; định hướng các hoạt động trong
đại dương nhằm vào những kết quả cụ thể có tính khả thi; tạo điều kiện tối đa cho sự
hợp tác và nâng cao hiệu quả hoạt động của tất cả các cấp.
Trong khi đó, Trung Quốc đã ban hành một loạt đạo luật về quản lý và khai thác
biển, đã xây dựng khung phí, thuế sử dụng tài nguyên biển. Xác định quan điểm phát
triển khoa học, xuất phát từ nhu cầu chiến lược quốc gia, thích ứng với việc thực hiện


mục tiêu xây dựng xã hội vào năm 2020, Trung Quốc xoay quanh bốn trọng điểm gồm
hiện đại hóa sản nghiệp biển; xây dựng quy hoạch khai thác biển; đẩy mạnh khoa học
kỹ thuật và bảo vệ môi trường sinh thái biển; khai thác, phát triển biển tồn diện hài
hịa.

Về phần mình, Mỹ cho rằng trong tương lai, các đại dương, bờ biển và vùng hồ
lớn phải sạch, an toàn, thịnh vượng và được quản lý một cách bền vững, sử dụng tốt
hơn, hạn chế tác động của thời tiết xấu và các thảm họa thiên nhiên, giảm nhẹ thiệt hại
về người và tài sản.
Bên cạnh việc triển khai một chương trình khám phá những vùng chưa biết đến
của đại dương nhằm thu hút sự tham gia của tất cả thành phần trong xã hội, các cơ
quan quản lý Mỹ cũng tích cực trao đổi khoa học, cơng nghệ và chính sách về kinh tế
biển với các quốc gia khác, nhất là các nước phát triển, nhằm phát huy vai trị của kinh
tế biển trong cơng cuộc phát triển kinh tế-xã hội.
1.3.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ nhất, chiến lược phát triển kinh tế biển phải mang tính tổng thể, tồn bộ hài
hịa giữa sự phát triển của các vùng ven biển nói riêng với nền kinh tế nói chung. Cần
có chiến lược quy hoạch tổng thể để xây dựng các đặc khu kinh tế biển nhằm phát huy
thế mạnh của từng khu, đóng góp cho tăng trưởng nói chung. Đối tượng tham gia vào
xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển không chỉ là các nhà hoạch định chính
sách mà cần có sự tham gia của các nhà khoa học am hiểu về đặc điểm kinh tế, xã hội
Việt Nam, các chuyên gia về biển và kinh tế biển có tâm huyết. Có như vậy, chiến lược
kinh tế mới mang tính sát thực, khả thi và hiệu quả.
Thứ hai, cần chú trọng khâu tuyển dụng vào đào tạo tay nghề, trình độ cho lao
động ngành kinh tế biển, đặc biệt chú trọng tới trình độ chuyên môn và kỹ năng lãnh
đạo của cấp quản lý bên cạnh phẩm chất đạo đức để đảm bảo tính hiệu quả. Chế độ đãi
ngộ cho nhân lực trong ngành cũng cần được xây dựng theo hướng khuyến khích nâng
cao chất lượng lao động và chất lượng dịch vụ.


Thứ ba, tăng cường đầu tư cho lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao, và đáp ứng xu
thế phát triển của thương mại quốc tế, ví dụ hệ thống cảng biển. Trong khi xu thế vận
chuyển hàng hóa bằng container đã trở nên phổ biến trên thế giới thì bến cảng
container của ta rất ít. Vì vậy chúng ta cần nâng cấp và trang bị hiện đại để tận dụng
hết công suất các cảng, tăng cường tham gia vào thương mại quốc tế.

Thứ tư, cần có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành kinh tế
biển để tận dụng nguồn ngoại tệ cho phát triển đồng thời học hỏi kinh nghiệm quản lý
công nghệ hiện đại của họ.
Thứ năm, phát triển kinh tế biển phải cân đối hài hòa giữa việc khai thác tài
nguyên biển và nghiên cứu nhằm thực hiện các biện pháp bảo vệ mơi trường biển. Có
thể mới đảm bảo được sự phát triển bền vững của biển nói chung và kinh tế biển nói
riêng.


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
VIỆT NAM
2.1 Thực trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam giai đoạn 2009-2013
2.1.1 Đánh bắt và nuôi trồng thủy, hải sản
- Thị trường xuất nhập khẩu chính
Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu sang khoảng 155 thị trường trên thế giới. Thủy
sản Việt Nam ngày càng có chỗ đứng trên thế giới, được coi là một nguồn cung cấp
khá ổn định nhờ các yếu tố chính trị và xã hội ổn định, doanh nghiệp xuất khẩu ngày
càng am hiểu và định hình tốt nhu cầu thị trường. Bên cạnh các thị trường truyền thống
như EU, Mỹ và Nhật Bản có xu hướng giữ vững nhu cầu tiêu thụ thì thủy sản Việt
Nam cịn có cơ hội mở rộng thị trường sang các nước khác có tiềm năng lớn như Hàn
Quốc và Trung Quốc,...
-Giá trị xuất khẩu
Biểu đồ 2.1: Giá trị xuất khẩu thủy sản từ 2010 – 11T 2014
( Đơn vị: Triệu USD )


Năm 2013, sản xuất thủy sản đạt gần 6,7 tỷ USD, tăng 9,6% so với năm 2012 và
cao nhất trong giai đoạn năm 2010- 2013. Có thể thấy sự gia tăng về số lượng trong
năm 2014 với khoảng 7217,3 triệu USD giá trị xuất khẩu trong 11 tháng đầu năm
2014. ( Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam)

Trong những năm gần đây, các sản phẩm mặt hàng thủy sản của Việt Nam ngày
càng được đa dạng hóa. Trong đó tơm và cá sa, cá batra được xem là hai mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam.
Trong đó, riêng giá trị xuất khẩu mặt hàng tôm đã đạt 3,1 tỷ USD, tăng 39,1%.
Theo báo cáo của Tổng cục Hải quan Việt Nam, trong 3 nhóm thủy sản xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam thì chỉ có tơm và cá tra có giá trị xuất khẩu tăng trưởng so với năm
trước. Trong năm 2013, chỉ có duy nhất tháng 2/2013, xuất khẩu tôm giảm 32,8% so
với cùng kỳ năm 2012 do có kỳ nghỉ Tết Ngun đán. 11 tháng cịn lại, xuất khẩu tôm
tăng trưởng mạnh, nhất là trong quý IV/2013, giá trị tăng trưởng từ 64,6-77,2% so với
quý IV/2012. Cá tra: Mặc dù, giá trị xuất khẩu mặt hàng cá tra vẫn tăng 1% so với năm
2012 nhưng đây chỉ có thể gọi là xuất khẩu ổn định và cầm chừng. Hải sản: kết thúc
năm 2013, hầu hết các nhóm sản phẩm đều giảm: Cá ngừ giảm 7,2%, mực, bạch tuộc
giảm 10,8%, chả cá và surimi giảm 14%; cua ghẹ, giáp xác khác giảm 4,3%, nhuyễn
thể 2 mảnh vỏ giảm 5% so với năm 2012.
2.1.2 Kinh tế hàng hải
- Kinh tế hàng hải bao gồm vận tải biển, khai thác cảng biển, dịch vụ liên quan.
Với 3.260km bờ biển, vận tải biển là lĩnh vực phát triển mạnh mẽ nhất trong số
các loại hình vận tải ở Việt Nam, đảm nhận vận chuyển trên 80% hàng hóa lưu thơng
trong và ngoài nước. Từ năm 1995 đến nay, vận tải biển ln song hành cùng sự tăng
trưởng giao thương hàng hóa với tốc độ tăng sản lượng bình quân 15%/năm. Tại Việt
Nam, khoảng 90% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển.


Tính đến cuối năm 2013, đội tàu vận tải biển Việt Nam có 1.788 tàu các loại,
với tổng dung tích 4,3 triệu GT và tổng trọng tải khoảng 6,9 triệu DWT, đứng thứ 5/10
nước ASEAN; ngồi ra, Việt Nam cịn sở hữu 80 tàu mang cờ quốc tịch nước ngoài
với tổng trọng tải 1,1 triệu DWT, chiếm khoảng 15% tổng trọng tải đội tàu quốc gia.
Thế nhưng, trọng tải bình quân của tàu Việt Nam tương đối thấp (3.960 DWT/tàu), xếp
hạng 9/10 nước ASEAN. Tàu có trọng tải dưới 5 vạn DWT chiếm gần 80%, tàu 5-15
vạn chiếm khoảng 17%, tàu trên 15 vạn chỉ có 2 tàu, chiếm 3,3%. Sở hữu đội tàu đó là

khoảng 600 chủ tàu thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó chỉ có 33 chủ tàu lớn sở
hữu đội tàu có tổng trọng tải trên 1 vạn DWT, còn lại là đội tàu nhỏ thuộc các thành
phần kinh tế tư nhân, nhỏ lẻ tại các địa phương Hải Phịng, Thanh Hóa, Thái Bình...
- Về sản lượng vận tải biển: Năm 2013, sản lượng hàng hóa thơng qua hệ thớng
cảng biển Việt Nam đạt 326 triệu tấn, năm 2012 là 294 triệu tấn, năm 2011 đạt 286
triệu tấn. Mức độ tăng trưởng bình quân hàng năm về sản lượng vận tải biển đã giảm từ
19,6%/năm giai đoạn 2002-2008 xuống 17% năm 2009 và 4,41% năm 2012.
( Nguồn: Theo cáo cáo của Hiệp hội chủ tàu Việt Nam)
Các doanh nghiệp vận tải biển vẫn đang trong giai đoạn kinh doanh khó khăn do
giá cước thấp, khan hiếm nguồn hàng, chi phí nhiên liệu tăng cao, hàng loạt các doanh
nghiệp nhỏ ở địa phương bị phá sản, các doanh nghiệp lớn của Nhà nước cũng lâm vào
tình trạng thua lỗ, nợ nần. Ngoài ra, còn một số tồn tại làm ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh doanh như: cơ cấu đội tàu khơng phù hợp, tình trạng kỹ thuật yếu kém, tàu bị lưu
giữ nhiều ở nước ngoài; việc tổ chức quản lý, cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp Việt
Nam còn yếu, thiếu sự liên kết giữa các hãng tàu, chủ hàng, thương mại, bảo hiểm;
nguồn tài chính khó khăn; nguồn nhân lực yếu và thiếu; tập quán mua CIF, bán FOB
làm mất cơ hội thuê phương tiện…


Hệ thống cảng biển Việt Nam đã cơ bản hoàn thành việc đầu tư xây dựng và đã
hình thành được 3 trung tâm cảng ở phía Bắc (Hải Phịng, Quảng Ninh), ở miền Trung
(Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Nha Trang) và ở phía Nam (TP. Hồ Chí Minh,
Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu). Trong các trung tâm cảng, cũng đã hình thành cảng
cửa ngõ quốc tế như cảng Lạch Huyện (Hải Phòng), cảng Bà Rịa-Vũng Tàu (khu vực
Cái Mép-Thị Vải). Hệ thống kết cấu hạ tầng hàng hải đã được đầu tư xây dựng và đang
khai thác gồm 17 cảng biển loại 1, 25 cảng biển loại 2, 13 cảng biển loại 3, bao gồm
219 bến/khu bến với 373 cầu bến (213 bến cảng tổng hợp, container với chiều dài cầu
bến 35.900m, 160 bến cảng chuyên dùng). Ngoài ra, còn có 07 trung tâm logistics, 19
ICD đã đi vào hoạt động và có khoảng hàng trăm kho bãi nằm ngoài phạm vi cảng.
Hệ thống kho bãi phát triển theo nhịp đợ tăng trưởng của lượng hàng hóa thông

qua cảng biển, chủ yếu là hàng container nên hệ thống kho bãi ngoài cảng cũng có xu
hướng gia tăng cả về số lượng, quy mô và chức năng. Các loại hình kho bãi chủ yếu là
container, kho CFS, kho ngoại quan, hiện có một số kho bãi lớn và dần trở thành các
khu cung cấp dịch vụ quy mô lớn, trung tâm phân phới hàng hóa của khu vực.
2.1.3 Công nghiệp tàu biển
Theo cục Đăng kiểm Việt Nam, cả nước hiện có 160 cơ sở đóng và sửa chữa tàu
biển, trong đó có 120 nhà máy đóng, sửa chữa tàu với trọng tải trên 1000 DWT, với
170 cơng trình nâng hạ thủy (chủ yếu cho tàu dưới 5000 DWT, chỉ có 2 cơng trình cho
tàu 300-400 nghìn DWT). Tổng công suất thiết kế của các nhà máy khoảng 2,6 triệu
DWT/ năm, nhưng năng lực thiết kế đạt 800-1000 nghìn DWT/ năm (31-39% cơng
suất thiết kế), trong đó đảm nhận 50% nhu cầu trong nước (300-400 nghìn DWT/năm);
xuất khẩu 500-600 nghìn DWT/ năm, chiếm 0,3-0,4% thị phần đóng tàu thế giới. Về
sửa chữa mới đáp ứng 41,7-46% đội tàu quốc gia, một phần do hầu hết các cơng trình
nâng hạ thủy là phục vụ cho đóng mới. Tính trong năm 2010, tàu Việt Nam ra nước


ngồi sửa chữa hết khoảng 75 triệu USD. Do đó, thị trường trong nước và thị trường
thế giới vẫn còn tiềm năng. Tính đến năm 2010, tồn ngành có khoảng gần 100.000 lao
động, trong đó Vinashin có khoảng 43.797 lao động (đến 7/2013 còn khoảng 26.000
lao động), song các lao động có chứng chỉ quốc tế cịn rất ít so với u cầu.
Mặc dù cịn gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn vừa qua, tuy vậy ngành đóng
tàu vẫn cố gắng khẩn trương khắc phục khó khăn, cơ cấu lại hệ thống cơ sở hạ tầng
phục vụ đóng tàu để phát huy tối đa cơng suất các cơ sở đóng mới tàu thủy; hình thành
một số trung tâm đóng tàu vẫn tải, trung tâm tâm đóng tàu chuyên dùng tại 3 miền Bắc,
Trung, Nam để đóng mới các tàu có có trọng tải đến 300.000 DWT, đóng được các
gam tàu có yêu cầu kĩ thuật và hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn quốc
tế về chất lượng, tiến độ phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
2.1.4 Cơng nghiệp dầu khí
Ngành dầu khí là một trong những ngành chủ lực của kinh tế biển, có đóng góp
quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Đã xác định tiềm năng và trữ lượng dầu khí

của Việt Nam vào khoảng 3-4 tỷ m3 dầu quy đổi, trong đó 0,9 – 1,2 tỷ m3 dầu thơ và
2100-2800 tỷ m3 khí. Sản lượng dầu khí khai thác hàng năm bình quân khoảng 24 triệu
tấn. ( Theo báo báo phân tích ngành Dầu khí Việt Nam)
Theo báo cáo của Viện dầu khí Việt Nam, năm 2012 tổng sản lượng khai thác
khí cả năm đạt 9,3 tỉ m3 khí, bằng 103% kế hoạch năm và tăng 7% so với năm 2011,
đến cuối năm 2013 sản lượng khai thác của PVN đã đạt 16,71 triệu tấn dầu và 9,75 tỷ
m3 khí. Trữ lượng khai thác ở Việt Nam đang đứng thứ 4 về dầu mỏ và thứ 7 về khí
đốt trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương (Theo BP, 2010), đồng thời đứng thứ 25
và 30 trên thế giới. Chính vì vậy, Việt Nam có hệ số trữ lượng/sản xuất (R/P) rất cao,
trong đó R/P dầu thơ là 32,6 lần (đứng đầu khu vực Châu Á-TBD và thứ 10 thế giới)


và R/P khí đốt là 66 lần (đứng đầu Châu Á - TBD và thứ 6 thế giới). Điều này cũng
cho thấy tiềm năng phát triển của ngành trong tương lai còn rất lớn.
Tuy nhiên, với nguồn nhân lực còn hạn chế nên năng lực cung cấp chưa đáp ứng
đủ nhu cầu sử dụng. Nước ta chủ yếu xuất khẩu dầu thô, nhập khẩu dầu tinh phục vụ
cho nhu cầu nội địa. Một số nhà máy lọc dầu đã đi vào hoạt động như nhà máy lọc dầu
Dung Quất, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn… nhưng mới chỉ cung cấp được khoảng 35%
nhu cầu trong nước. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng các sản phẩm từ dầu mỏ ngày
càng tăng, không chỉ trong ngắn hạn mà cả trong dài hạn do sự bùng nổ dân số, các
ngành công nghiệp tiếp tục phát triển, đặc biệt là sự tăng tốc của ngành giao thông do
nhu cầu đi lại ngày càng nhiều… Theo OPEC, nhu cầu sử dụng nguồn nhiên liệu dầu
khí ngày càng tăng nhanh, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, và đến năm 2025,
nguồn cung sẽ không đáp ứng kịp nhu cầu.
2.1.5 Du lịch biển
Hàng năm, vùng biển thu hút 73% số lượt khách du lịch quốc tế, với tốc độ tăng
trưởng bình quan khoảng 12,6%/ năm.
Biểu đồ 2.2: Lượng khách quốc tế đến Việt Nam bằng đường biển 9 tháng đầu năm
giai đoạn 2009-2013
( Đơn vị: Triệu người)



Nguồn: Cổng thơng tin Chính phủ

Từ biểu đồ trên ta thấy, trong 9 tháng đầu năm giai đoạn 2009 – 2011, lượng
khách quốc tế đến Việt Nam nói chung và bằng đường đường biển nói riêng đều giảm.
Cụ thể từ năm 2009 đến 2011, trong chín tháng đầu năm lượng khách giảm từ 57,7
triệu lượt người xuống còn 30,2 triệu lượt người. Lượng khách giảm qua các năm một
phần cũng do ảnh hưởng từ tinh hình kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới có sự bất
ổn. Tuy nhiên, những năm gần đây, cùng với sự phục hồi nhanh chóng của nền kinh tế,
mức sống của người dân trên thế giới được cải thiện vì vậy cũng làm cho lượng khách
đến với Việt Nam bằng đường biển cũng tăng lên nhanh chóng. 9 tháng đầu năm 2012,
lượng khách đến Việt nam bằng đường biên đạt 52,8 triệu lượt người, và tiếp tục tăng
mạnh vào năm 2013 với 169,6 triệu lượt khách.
Lượng khách quốc tế đến Việt Nam có nhiều mục đích khác nhau: tham quan,
nghỉ dưỡng hay đến vì cơng việc. Trong đó lượng khách đến từ Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Oxtraylia luôn chiếm số lượng lớn.


2.2 Một số chính sách phát triển kinh tế biển
Trước thềm thế kỷ XXI, nhân loại xác định, thế kỷ XXI là “Thế kỷ của đại
dương”. Và sự thật, trong sự phát triển toàn diện và mạnh mẽ của thế giới, trước hết tại
các quốc gia có biển và hướng ra biển, hơn một thập niên vừa qua, đã chứng minh rất
sinh động và đầy thuyết phục điều dự báo ấy.
Đối với Việt Nam, nếu nhìn gần nhất, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX,
nghĩa là khoảng hơn hai mươi năm trước, Đảng ta đã hạ quyết tâm chính trị chiến lược
và tổ chức phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng biển và kinh tế biển, đảo.
Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 10, ngày
09/02/2007, đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020 (sau đây gọi là Chiến lược biển) với mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa

Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ
quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần làm cho đất nước giàu mạnh.
Ngay sau khi Chiến lược biển được thơng qua, Việt Nam đã ban hành có tính hệ
thống nhiều chính sách phát triển kinh tế biển nhằm triển khai hiện thực hóa mục tiêu
đến năm 2020 kinh tế biển, ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP và 55-60%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước; thu nhập bình quân đầu người dải ven biển cao gấp
hai lần thu nhập bình quân chung của cả nước. Xuyên suốt mục tiêu phát triển kinh tế
biển, Việt Nam luôn xác định phát triển phải song hành cùng quản lý, bảo vệ tài
nguyên cũng như giữ vững chủ quyền biển đảo.
Có thể nói, ngay từ trước khi Chiến lược biển được ban hành, phát triển kinh tế
biển luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm bằng việc xây dựng nhiều chính sách khác
nhau gồm có các văn bản pháp luật, nghị quyết, quyết định. Nghị quyết 03-NQ/TW
ngày 06/5/1993 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ phát triển kinh biển đã khẳng
định đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền


và lợi ích quốc gia; bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển; phấn đấu trở thành
một nước mạnh về biển vào năm 2020.
Ngày 22/9/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát
triển kinh tế biển theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục xác định: thực hiện
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế biển hướng mạnh vào xuất khẩu, dựa trên những
tiến bộ khoa học, công nghệ làm động lực; vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý, khai thác
tiềm năng biển có hiệu quả, vừa tái tạo tài nguyên biển, bảo vệ môi trường, đào tạo
nhân lực...
Tuy nhiên, việc ra đời Chiến lược biển vào năm 2007 và sau này là Luật Biển
Việt Nam năm 2012 đã trở thành những cột mốc vô cùng quan trọng, tạo ra một định
hướng thống nhất, tổng thể, bền vững và có tính chất pháp lý lâu dài cho phát triển biển
nói chung và kinh tế biển nói riêng cho một quốc gia có hơn 3.260km bờ biển và 1
triệu km2 thềm lục địa.
Theo tiến sỹ Hồ Văn Hồnh, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Khoa học Phát triển

nguồn nhân lực, nhân tài Việt Nam, để thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, từ năm
2008, Chính phủ đã ban hành và phê duyệt nhiều nghị quyết và quyết định như một số
giải pháp cấp bách trong quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường biển; đề án đẩy
mạnh công tác tuyên truyền và quản lý bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo;
quy hoạch phát triển kinh tế đảo Việt Nam đến năm 2020 và gần đây, ngày 6/9/2013
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1570/QĐ-TTG phê duyệt Chiến lược
khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030.
Theo Điều 43 tại Luật Biển Việt Nam năm 2012 có sáu nhóm ngành, lĩnh vực
được nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển gồm tìm kiếm, thăm dị, khai thác, chế biến
dầu, khí và các loại tài nguyên, khoáng sản biển; vận tải biển, cảng biển; đóng mới và
sửa chữa tàu thuyền, phương tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải khác; du lịch biển và


kinh tế đảo; khai thác, nuôi trồng, chế biển hải sản; phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và
chuyển giao khoa học-công nghệ về khai thác và phát triển kinh tế biển; xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực biển.
Từ khi có nghị quyết của Đảng, quyết định của Chính phủ, các ngành, các cấp,
các doanh nghiệp, … từ trung ương đến các địa phương đã xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình hành động cho từng lĩnh vực và ở trên địa bàn của mình
bước đầu triển khai có những kết quả đáng khích lệ. Các đảo lớn như: Côn Đảo, Phú
Quốc, Trường Sa, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Vân Đồn, … đã
được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, mạng lưới điện, thông tin
liên lạc, cung cấp nước ngọt, trường học, bệnh xá, bố trí lại dân cư, tham gia vào phát
triển kinh tế, nông nghiệp, du lịch, cơng nghiệp dầu khí có bước phát triển nhanh; bảo
vệ môi trường biển đảo bước đầu được chú ý, đã có 16 khu bảo tồn biển và các vườn
quốc gia ven biển và hải đảo… được thiết lập; đồng thời đảm bảo tốt cơng tác quốc
phịng an ninh, hình thành hệ thống các khu cơng nghiệp, các cảng biển, cảng cá, khu
du lịch từ Quảng Ninh cho đến Cà Mau…
Tính đến nay cả nước đã có 9 cảng biển và 15 khu kinh tế ven biển được thành

lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước lên đến 662.249 ha, thu hút khoảng 700 dự
án do nước ngoài và trong nước đầu tư, với tổng số vốn gần 33 tỷ USD và 330.000 tỷ
đồng. Số dân cư sống ở các vùng ven biển tăng lên rất nhanh, bao gồm hàng triệu
người làm nghề vận tải biển, đánh bắt cá, ni trồng thủy sản, dịch vụ đóng sửa tàu
thuyền, chế biến thủy sản, dầu khí, sản xuất cơng nghiệp, nông nghiệp, du lịch… Nhiều
thị trấn, thị tứ, khu nghỉ dưỡng đã hình thành dọc theo chiều dài ven biển của đất
nước.


2.3 Đánh giá chung về thực trạng phát triển kinh tế biển Việt Nam giai đoạn
2009-2013
2.3.1 Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế biển Việt Nam
giai đoạn 2009-2013
Trong thời gian qua, dựa trên lợi thế về tài nguyên biển, Đảng và Nhà
nước ta đã đề ra những chủ trương, biện pháp quan trọng để thúc đẩy sự phát triển các
lĩnh vực kinh tế biển chủ yếu của Việt Nam và đã đạt được những thành tựu cơ bản,
tạo đà cho các giai đoạn phát triển tiếp sau. Quy mô kinh tế biển và vùng ven biển
tăng lên rõ rệt, có bước phát triển mạnh, đạt tốc độ tăng trưởng trên 10%. Ngoài các
ngành kinh tế biển truyền thống như thủy sản, hàng hải, du lịch, điều tra cơ bản và
nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, diêm nghiệp,... vừa qua cơ cấu ngành, nghề
cũng thay đổi cùng với sự xuất hiện ngành/ lĩnh vực kinh tế mới. Đáng kể là các lĩnh
vực, như: khai thác dầu khí, kinh tế đảo, kinh tế ven biển, kinh tế bảo tồn, tìm kiếm cứu
hộ và cứu nạn, quản lý nhà nước về biển, lĩnh vực đối ngoại và biên giới lãnh thổ trên
biển; chế biến dầu khí, chế biến thủy sản,...
Ngoài đội tàu, ngành hàng hải đã có hệ thống khoảng 90 cảng biển lớn
nhỏ với tổng năng lực hàng hóa thơng qua gần 100 triệu tấn/năm. Các ngành vận tải
biển, đóng và sửa chữa tàu biển, xuất khẩu thuyền viên,... bước đầu cũng đã đóng góp
cho sự phát triển chung của đất nước. Ngành du lịch biển cũng phát triển khá mạnh,
hàng năm thu hút khoảng gần 15 triệu lượt khách, trong đó có hơn 3 triệu khách nước
ngoài, bằng 73% số khách du lịch nước ngồi của cả nước, đạt tốc độ tăng bình qn

13%/năm; giải quyết việc làm cho hơn 15 vạn lao động.
Hoạt động khai thác dầu khí được duy trì tại các mỏ ở thềm lục địa phía nam.
Sản lượng dầu thơ khai thác ở nước ta tăng hàng năm 30%. Tuy nhiên, sản lượng khai
thác dầu khí trong nước thời gian tới sẽ chững lại và sẽ giảm đến mức 13 triệu tấn (năm
2025).


Vùng biển và ven biển có đóng góp lớn vào xuất khẩu, thu ngoại tệ, chủ yếu từ
lĩnh vực dầu khí và thủy sản. Các ngành kinh tế có liên quan trực tiếp tới khai thác biển
như đóng và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy sản, hải sản, thông tin
liên lạc,... bước đầu phát triển, nhưng hiện tại quy mơ cịn rất bé (chỉ chiếm khoảng 2%
của kinh tế biến, dự kiến tăng trong tương lai.
Đặc biệt, trong quá trình phát triển kinh tế theo hưởng mở, bước đầu đã hình
thành 15 đặc khu kinh tế ven biển – là các trung tâm phát triển kinh tế hướng biển. Đây
là những khu vực phát triển tổng hợp các ngành, nghề biển như hậu cần nghề cá, công
nghiệp gắn với cảng biển và vận tải biển, du lịch biển, đơ thị hóa và nghiên cứu khoa
học về biển. Để tăng cường và tập trung đầu tư xây dựng các khu kinh tế ven biển
trọng điểm, tháng 8/2012 Chính phủ đã ra quyết địnhchọn 5 nhóm khu kinh tế ven biển
trọng điểm để đàu tư: Nhóm Đình Vũ – Cát Hải (Hải Phịng), Nghi Sơn (Thanh Hóa),
Vũng Áng (Hà Tĩnh), Chu Lai – Dung Quất (Quang Nam – Quảng Ngãi) và Phú Quốc
(Kiên Giang).
Ở một số hải đảo đã có bước phát triển mới, vai trị kinh tế của các hải đảo tăng
lên rõ rệt và tạo ra một lĩnh vực kinh tế đảo đầy triển vọng. Hiện nay, trong 12 huyện
đảo thì 66 đảo có dân sinh sống với tổng số trên 240.000 người, mật độ dân số trung
bình trên các đảo là 95 người/km, kết cấu hạ tầng được tăng lên rõ rệt, hình thành hệ
thống giao thơng trên đảo, nhiều đảo gần bờ có điện lưới, đảo xa bờ có máy phát điện,
điện mặt trời và cơ sở cung cấp nước ngọt. Có nhiều đảo sẽ phát triển thành những
trung tâm kinh tế hướng biển như: Vân Đồn, Cát Hải, Côn Đảo, Phú Quốc,...
Công tác điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên môi trường biển được triển khai
định kỳ 5 năm đã cung cấp những hiều biết khái quát các đặc trưng về điều kiện tự

nhiên và tài nguyên biển.
Đặc biệt, Việt Nam đã chú ý thực hiện các cam kết quốc tế, đẩy mạnh coogn tác
bảo tồn biển, hướng tới phát triển kinh tế sinh thái biển. Đến nay, khoảng 13/28 vườn
quốc gia, 22/55 khu bảo tồn thiên nhiên, 17/34 khu rừng văn hóa lịch sử cùng nhiều


khu danh lam thắng cảnh nằm ở ven biển và trên các hải dảo ven bờ đã bắt đầu phát
triển dịch vụ du lịch hướng biển.
Công tác đối ngoại và biên giới lãnh thổ liên quan đến biển cũng có thể xem là
lĩnh vực quản lú nhà nước mang tính đặc thù ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế biển. Thời gian qua chúng ta đã kí kết được một số thảo thuận phân định
và hợp tác trên biển với các nước láng giềng nhằm duy trì hịa bình, ổn định và hợp tác
phát triển trong khu vực biển Đơng. Ngồi ra, Việt Nam cũng tham gia kí kết các văn
kiện mang tính chất quốc tế và khu vực về biển Đông như Tuyên bố về cách ứng xử
trên Biển Đông (DOC), Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Công
ước về tổ chức Hàng hải quốc tế IMO, các công ước nghề cá, bảo tồn sinh vật biển,
triển khai một số dự án hợp tác song phương và đa phương về biển với các nước liên
quan.
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân trong phát triển kinh tế biển Việt Nam giai
đoạn 2009-2013
Bên cạnh những thành tựu, thời gian qua phát triển kinh biển và bảo tồn tính
bền vững của biển ở nước ta cịn gặp khơng thách thức, hạn chế:
Một là, quy mơ kinh tế biển còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu
ngành nghề chưa hợp lý do nhận thức về vai trị, vị trí của biển và kinh tế biển của
các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân còn chưa đầy đủ; ; chưa
chuẩn bị điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế. Đầu tư xây dựng các khu kinh tế ven
biển còn tràn lan, thiếu trọng tâm trọng điểm.
Hai là, cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo còn yếu kém, lạc hậu,
manh mún do thiết bị chưa đồng bộ nên hiệu quả sử dụng thấp, thiếu hệ thống đường
bộ cao tốc chạy dọc ven biển để nối liền các thành phố, khu kinh tế, khu công nghiệp,

sân bay ven biển nhỏ bé thành một hệ thống kinh tế biển liên hoàn.
Ba là, hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo
nguồn nhân lực cho kinh tế biển; các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai


biển, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn,... ở ven biển cịn nhỏ bé, trang bị thơ
sơ. Các phương thức quản lý biển mới, tiên tiến còn chậm được nghiên cứu áp dụng
như: quản lý không gian biển, quy hoạch sử dụng biển bao gồm hải đảo và vùng ven
biển, giống như quy hoạch sử dụng đất áp dụng trên đất liền. Đặc biệt cịn ít chú ý
nghiên cứu cơng nghệ biển tiên tiến.
Bốn là, tình hình khai thác, sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền
vững do khai thác tự phát, thiếu/không tuân thủ quy hoạch biển, đảo làm nảy sinh
nhiều mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng đa ngành ở vùng ven biển, biển và hải
đảo. Phương thức khai thác biển chủ yếu vẫn dưới hình thức sản xuất và đầu tư nhỏ, sử
dụng cơng nghệ lạc hậu. Cịn nghiêng về ưu tiên khai thác tài nguyên biển ở dạng vật
chất, không tái tạo, các giá trị chức năng, phi vật chất và có khả năng tái tạo của các hệ
thống tài nguyên biển cịn ít được chú trọng, như: giá trị vị thế của các mảng không
gian biển, ven biển và hải đảo; giá trị dịch vụ của các hệ sinh thái; thậm chí các giá trị
văn hóa biển. Cách tiếp cận “nóng” trong khai thác tài nguyên biển đang là hiện
tượng phổ biến ở các lĩnh vực kinh tế biển: chú trọng nhiều đến sản lượng, số lượng,
ít chú ý đến chất lượng và lợi ích lâu dài của các dạng tài nguyên.
Năm là, môi trường biển bị biến đổi theo chiều hướng xấu do ngày càng nhiều
chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển đổ ra biển, một số khu
biển ven bờ bị ô nhiễm, hiện tượng thủy triều đỏ xuất hiện ngày càng nhiều với quy
mô rộng,…
Sáu là, đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thủy hải sản giảm sút. Các hệ sinh
thái biển quan trọng (RSH, RNM, TCB) bị suy nay chỉ còn 80 kg/ha/vụ, và 01 ha
RNM trước đây có thể được khoảng 800 kg thủy sản, nhưng hiện nay chỉ thu đ ược
1/20 so với trước. Nguồn lợi hải sản ở vùng biển gần bờ có dấu thác quá mức do tăng
nhanh số lượng tàu thuyền đánh cá nhỏ, hiệu suất khai thác hải sản giảm từ 0,92

(1990) xuống 0,34 (2005). Trong khi trữ lượng hải sản ở vùng biển xa bờ chưa
được giá đầy đủ.


Bảy là, ngoài thiên tai biển xảy ra thường xuyên, Việt Nam còn là một trong
5 nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, trước hết
là vùng ven biển và các đảo nhỏ.
Những thách thức nói trên đã, đang và nếu khơng sớm khắc phục sẽ ảnh
hưởng lớn đến phát triển kinh tế biển hiệu quả và bền vững, và khả năng cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế biển ở Việt Nam trong thời gian tới.


×