Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Khoá luận tốt nghiệp biện pháp ẩn dụ trong thơ phan thị thanh nhàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.39 KB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOẢNGỮVĂN

NGUYỄN THỊ NGỌC

BIỆN PHÁP ẨN DỤ TRONG THƠ PHAN THỊ
THANH NHÀN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

• • • •

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Người hưóng dẫn khoa học ThS - GVC. LÊ KIM
NHUNG

HÀ NỘI – 2015

LỜI CẲM ƠN


Trong quá trình thực hiện đề tài này, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong
khoa Ngữ văn, các thầy cô giáo trong tố Ngôn ngữ, đặc biệt là cô giáo hướng dẫn Lê Kim
Nhung đã tạo mọi điều
kiện
để tôt
emnghiệp
hoàn thành khoá luận của mình.
Khoá
luận


Nguyễn Thị Ngọc K37A

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn đề tài nghiên cứu của em không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý và phê bình của các thầy cô và các
bạn để em tiếp tục hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, 6 tháng 5 năm 2015 Sinh viên
Nguyễn Thi Ngọc

LỜI CAM ĐOAN
Sau một thời gian tiến hành nghiên cứu, em đã thu được một số những kết quả nhất
định. Tuy đề tài nghiên cứu của em không phải mới nhưng em xin cam đoan những kết quả
mà em thu được trong đề tài này không trùng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, 6 tháng 5 năm 2015 Sinh viên


Nguyễn Thị Ngọc

Khoá luận tôt nghiệp

MỤC LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Thị Ngọc K37A


MỎ ĐÀU
Khoá luận tôt nghiệp

1. Lí do chọn đề tài

Nguyễn Thị Ngọc K37A

1.1. Tác phấm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ, điều đó quả thực
là đúng đắn. Bởi tác phẩm văn học là bức tranh phản ánh cuộc sống nhưng không
phải là sự sao chép đơn thuần mà nó được tạo nên từ những gì tinh tuý nhất, đẹp
đẽ nhất của cuộc đời. Thông qua tác phẩm văn học, người nghệ sĩ muốn bộc lộ tư
tưởng, tình cảm, cảm xúc của mình trước cuộc đời, trước thế giới vạn vật.
Sức mạnh của tác phẩm văn chương chính là việc vận dụng ngôn ngữ một
cách điêu luyện, tài hoa của mỗi nhà văn, nhà thơ. Tuy nhiên, trong thực tế, lớp vỏ
ngôn từ thì hữu hạn mà lời nói thì vô hạn. Đe giải quyết mâu thuẫn ấy, người nghệ
sĩ đã chắt chiu, gạn lọc những từ ngữ, hình ảnh giàu sắc thái ý nghĩa và có tính
biểu cảm cao để thể hiện nội dung, tư tưởng tác phẩm.
Hơn thế nữa, thơ ca bao giờ cũng “ý ngôn tại ngoại”, tức là người nghệ sĩ
không bộc lộ một cách trực tiếp suy tư, tình cảm của mình trong tác phẩm bằng
lớp nghĩa mà các thực từ mang lại. Một trong những phương tiện để người nghệ sĩ
bộc lộ mình một cách kín đáo, tế nhị song vẫn đạt được hiệu quả nhất định đó là
sử dụng các biện pháp tu từ. Đây là một trong những tiêu chí làm nên đặc trưng
của ngôn ngữ văn chương. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về các biện pháp tu từ
trong tiếng Việt là một việc làm quan trọng và vô cùng cần thiết.
Ấn dụ là biện pháp được sử dụng nhiều trong thơ ca. Đây là phép chuyển
nghĩa trong lời nói của mỗi cá nhân dựa vào sự tương đồng giữa hai đối tượng
cùng loại hay khác loại. Thông qua việc sử dụng biện pháp tu từ này, các nhà văn,
nhà thơ đã gửi gắm tâm sự và mong muốn của mình một cách sâu sắc, độc đáo và
tế nhị. Và cũng thông qua đó, tác giả sẽ tạo cho bạn đọc có cơ hội đồng sáng tạo
với mình.
1.2. Qua việc khảo sát, chúng tôi thấy Phan Thị Thanh Nhàn là một nhà
thơ đã vận dụng một cách linh hoạt, phong phú và sáng tạo các biện pháp tu từ,
đặc biệt là biện pháp ẩn dụ trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng của mình qua

tác phấm.


Phan Thị Thanh Nhàn là một thi sĩ tài năng và có cá tính đặc biệt. Bằng các
sáng tác thơ, Phan Thị
Thanh
đã thế hiện được tài năng sáng tạo nghệ Nguyễn
thuật Thị Ngọc K37A
Khoá
luậnNhàn
tôt nghiệp
của mình, đồng thời cũng khắng định được chỗ đứng trong lòng khán giả và trên
thi đàn văn học Việt Nam.
Bởi vậy, việc nghiên cứu, tìm hiếu và phân tích hiệu quả của biện pháp ẩn
dụ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ khắng định phong cách tài năng của
Phan Thị Thanh Nhàn mà còn giúp ích cho việc học tập và giảng dạy sau này của
bản thân.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “j Biện pháp ẩn dụ trong thơ
Phan Thị Thanh Nhàn” để từ đó hiểu sâu hơn về nội dung, tư tưởng trong tác phẩm

của bà và khẳng định được cá tính, phong cách của nữ thi sĩ tài năng này.
2. Lịch sử vấn đề
Viết về thơ Phan Thị Thanh Nhàn, các nhà nghiên cứu, phê bình, các độc
giả đã dành cho nhà thơ một tình cảm yêu thương vô bờ. Đã có khá nhiều bài viết,
công trình nghiên cứu về thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Chúng ta có thể điểm qua
một số bài nghiên cứu, phân tích tiêu biểu sau:
+ Trong bài “Đợc Hương thầm” (Tác phẩm mới- số 4/1976), tác giả Thu
Vân nhận định: Phan Thị Thanh Nhàn không sắc sảo nhưng có một hồn thơ dễ
cảm “như một bông hoa dịu nhẹ, khiêm nhường, phảng phất, kín đảo”. Tác giả nhìn
thấy ở Phan Thị Thanh Nhàn khả năng phát hiện tinh tế những vẻ đẹp của cuộc

sống, tiếng thơ ấm áp ân tình, đề tài bình dị, cảm xúc khoẻ khoắn được dẫn dắt bởi
con tim hơn là lí trí. Bên cạnh đó, tác giả cũng thấy những hạn chế của Phan Thị
Thanh Nhàn “thiếu rung động có suy nghĩ và chiều sâu”, cảm xúc tràn lan, kết
thúc gò gẫm...
+ Trong bài viết Một nét thơ đảng yêu (Tạp chí Văn học số 1/1978), Thiếu
Mai đã đưa ra nhận định chính xác về đặc điểm thơ Phan Thị Thanh Nhàn: “Dịu
nhẹ, duyên dáng và kín đảo, không chỉ khác nhau với những nhà thơ nam giới mà
ngay cả với các nhà thơ phụ nữ cũng không thê lân. Đọc là mến ngay. Và nhớ ngay


Nét dịu nhẹ, kín đáo vừa thế hiện phong cách thơ độc đáo, giàu nữ tính song
không kém phần sáng
tạo,luận
dồi dào.
Khoá
tôt nghiệp

Nguyễn Thị Ngọc K37A

+ Trong bài “Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn”, Vũ Quần Phương có nhận xét:
“Đợc Thanh Nhàn đùng bận tâm đi tìm tư tưởng. Bù lại, thơ bà dễ thân, dê thành

bạn tâm tình chia sẻ với mọi người. Giọng thơ giản dị, câu thơ càng ngày càng
được chăm sóc tỉ mỉ. Tình cảm chín dần trong nôi thấm thìa nội tâm. Bước tiên
của Thanh Nhàn song hành với sự lịch lãm từng trải và sự lao động kiên trì của
bà. Thanh Nhàn ngày càng lặn sâu vào lòng mình, mạnh dạn mà cũng khả nhuần
nhuyên bộc lộ nôi riêng tư rất cá thế trước cuộc đời”.
( />nhan.htm)
+ Trên báo Tin tức, Thông tấn xã Việt Nam ngày 30/8/2004, tác giả Nguyễn
Kim Anh trong bài: “Hình như mình vẫn cô đơn ” đã nói tới “Chuyên thơ dịu dàng


hương bưởi”, “Chuyên hương thầm”, “Không thế ngờ bài thơ đã đủng như cải
tên Hương thầm cứ lặng lẽ đến mức ngay cả những người trong cuộc “tử biệt
sinh ly” cũng không hề biết. Và rồi người ta hình dung ra nữ thi sĩ đã làm bài thơ
về cuộc chia ly của chính mình. Họ cho rằng đó ỉà mối tình thầm của chị”. Tác
giả đánh giá khá tinh tế về hồn thơ Thanh Nhàn: “Con người ấy giản dị và chân

thực đời thơ làm sao. Những kỹ thuật làm thơ chưa bao giờ len lỏi vào hon chị.
Người ta đọc thơ chị như tâm tình, thấy thương mến chứ không lạc vào loi thơ
trúc trăc Phan Thị Thanh Nhàn luôn
tìm thấy cảm hứng sáng tạo từ chất liệu của cuộc sống thường nhật, không cố
ép mình để có những chủ đề lớn vưọt quá khả năng, cảm xúc giản dị, chân
thành song không kém phần sâu lắng.
+ Trong bài “Phan Thị Thanh Nhàn: thơ mình mình đọc câu nào cũng

thương”, tác giả Trần Hoàng Thiên Kim cũng có những nhận xét về Phan Thị
Thanh Nhàn: “Chị đi đên đâu, nơi đó hát Hương thẩm ”, “Chị trải lòng mình

chân thật chứa chất trong những vần thơ ấy, nó như những trang nhật ký được
viết bằng thơ vậy


Đa số các bài viết chỉ đi sâu vào nhận xét về giọng điệu thơ của Phan Thị
Thanh Nhàn. Tất cảKhoá
đều luận
thốngtôtnhất
đưa ra: giọng điệu thơ Phan Thị Thanh
nghiệp
Nguyễn Thị Ngọc K37A
Nhàn mộc mạc, giản dị, chân thành nhưng vô cùng sâu lắng. Có được đặc điểm

ấy không chỉ nhờ đề tài, chủ đề được phản ánh trong thơ mà còn nhờ cách sử
dụng ngôn ngữ rất tài tình, rất riêng của bà.
Ngoài ra còn một số khoá luận, luận văn cũng đề cập đến vấn đề này:
+ Trong khoá luận tốt nghiệp “Thơ Phan Thị Thanh Nhàn” của Hà Thị
Thanh Hà, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội có khẳng định:

“Ngôn ngữ trong thơ chị là thứ ngôn ngữ đời thườỉĩg, dung dị đến bất ngờ
nhưng tự nó vân có chất thơ riêng biệt, đầy sức hấp dân”.
+ Trong khoá luận tốt nghiệp Nội trong hành trình sắng tác của nhà thơ
Phan Thị Thanh Nhàn” của Nguyễn Thị Thương, Trường Đại học Quốc gia Hà
Nội cũng có nhận xét như sau: “Trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn, chúng ta bẳt

gặp ở đó thứ ngôn ngữ của làng quê, của người dân, của chính nhà thơ: giản
dị, mộc mạc mà nói được rất nhiều”.
Đặc biệt vấn đề ấn dụ trong thơ Nguyễn Thị Thanh Nhàn cũng được
quan tâm, luận văn “77zề giới nghệ thuật thơ Phan Thị Thanh Nhàn ” của tác giả
Phạm Lê Lan Kiều, Trường Đại học Đà Nằng có nhận định như sau: “Sức hút
của Phan Thị Thanh Nhàn trong việc sử dụng ngôn ngữ thơ thê hiện ở sự

gần gũi, giản dị, nhiều khi bỏ qua cách điệu đế chỉ còn lại lời nói thông thường.
Nhưng chính từ sự khống trau chuôt ây lại nông nàn chât men khiên người đọc bị
lôi cuốn.
Một đặc điếm nữa tạo nên sự lôi cuốn của ngôn ngữ thơ Phan Thị Thanh
Nhàn bên cạnh việc sử dụng ngôn từ mộc mạc giản dị nhà thơ đã có ỷ thức vận
dụng các phương thức chuyên nghĩa theo phương thức ân dụ. Tác giả mượn hình
ảnh thiên nhiên làm phương tiện biếu đạt đế chuyến tải những cung bậc tình cảm
của mình đến độc giả”.
Có thể nói, ẩn dụ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn được các nhà nghiên cứu
khá quan tâm. Điều này cho thấy đây là một biện pháp tu từ khá quan trọng trong



thơ bà, cho nên việc nghiên cứu về nó là cần thiết. Tuy nhiên, các bài viết mới chỉ
dừng lại ở việc nêu nhận
minh
hoạ hoặc phân tích một vài ví dụ tiêu biếu.Nguyễn Thị Ngọc K37A
Khoáxét
luận
tôt nghiệp
Cho đến nay, trong số các công trình nghiên cứu chúng tôi tập hợp, tìm
hiểu được, chưa có một chuyên luận nào nghiên cứu sâu về biện pháp ẩn dụ trong
thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Trên cơ sở của những tác giả đi trước, ở đề tài này,
chúng tôi khảo sát, thống kê, phân loại và phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện
pháp ấn dụ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn một cách có hệ thống và chuyên sâu
hơn.
Với hướng nghiên cứu này, chúng tôi hi vọng sẽ làm phong phú thêm vốn
tư liệu phục vụ cho việc dạy và học Phong cách học, vừa góp tiếng nói của mình
đế khắng định phong cách tài năng nghệ thuật của nhà thơ.
3. Mục đích nghiên cún và nhiệm yụ nghiên cún
a. Mục đích nghiên cứu:
-

Củng cố và hiểu sâu hơn về một vấn đề lí thuyết ngôn ngữ thuộc chuyên ngành
Phong cách học. Cụ thể là biện pháp ẳn dụ tu từ.

-

Phục vụ, cung cấp tài liệu cho việc học tập và giảng dạy.
- Góp thêm một tiếng nói khẳng định tài năng, những đóng góp của Phan
Thị Thanh Nhàn.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Tập họp nhũng vấn đề lí thuyết có liên quan tới đề tài.
Khảo sát, thống kê, phân loại các biện pháp ấn dụ tu từ trong thơ Phan
Thị Thanh Nhàn.
Phân tích từ góc độ tu từ đế nhận thấy hiệu quả của biện pháp ấn dụ tu
từ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn và từ đó rút ra những kết luận cần thiết.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cún
a. Đối tượng:
Biện pháp ấn dụ tu từ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn.
b. Phạm vi nghiên cứu:


Khảo sát các bài thơ qua các tập thơ: Tháng Giêng hai, Nhà xuất bản Văn
học 1969; Hương thầm
, Nhà
xuất
Văn học 1973; Chấn dung người chiến thắng
, Thị Ngọc K37A
Khoá
luận
tôt bản
nghiệp
Nguyễn
Nhà xuất bản Tác phấm mới 1977; Nghiêng về anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn
1992; Tuyển tập Phan Thị Thanh Nhàn, Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2012.
5. Phương pháp nghiên cún
Phương pháp thống kê phân loại.
Phương pháp phân tích.
Phương pháp tổng họp.
Phương pháp hệ thống.
6. Đóng góp của đề tài

- về mặt lí luận:
Ket quả nghiên cứu ẩn dụ trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn sẽ góp phần làm
sáng tỏ những nét độc đáo trong phong cách thơ của bà, đồng thời khẳng định giá
trị của phương thức ấn dụ trong việc xây dựng văn bản nghệ thuật.
- về mặt thực tiễn:
Khoá luận giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ hon về tác
phẩm văn học dựa trên mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức, nhất là con đường tiếp cận ngôn ngữ tác phẩm ở cấp
độ từ ngữ. Ngoài ra kết quả nghiên cứu khoá luận còn mở
ra một hướng phân tích mới cho việc tìm hiếu, học tập và
giảng dạy thơ Phan Thị Thanh Nhàn trong nhà trường nói
riêng và cách tìm hiếu ấn dụ trong các tác phẩm thơ ca
nói chung.
NỘIDUNG Chương 1: cơ SỞ LÍ LUẬN
1.1.

Biện pháp ẩn dụ

1.1.1,

Khái niệm ẩn dụ

Các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: Trong tiếng Việt có hai loại
ẩn dụ, đó là ẩn dụ tu từ và ẩn dụ từ vựng. Ẩn dụ tu từ là đối tượng nghiên cứu của
chuyên ngành Phong cách học, còn ẩn dụ từ vựng là đối tượng của chuyên ngành
Từ vựng học. Ở đề tài này chúng tôi xem xét và nghiên cứu về ẩn dụ tu từ.


Có nhiều định nghĩa khác nhau về ẩn dụ tu từ. Ở đây chúng tôi lựa chọn
định nghĩa của tác giả

Đinh
Trọng
Lạc trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt:
Khoá
luận
tôt nghiệp
Nguyễn Thị Ngọc K37A
“An dụ thực chất là so sánh ngầm, trong đó vế so sánh giảm lược đi chỉ còn
vế được so sánh. Như vậy, ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa của một đối tượng
này thay thế cho một đối tượng khác khi hai đối tượng có một nét nghĩa tương
đồng nào đó” [2A, tr 194].
Ví dụ:
“Chỉ có thuyền mới hiếu Biến
mênh mông nhường nào Chỉ
có biên mới bỉêt Thuyền đi đâu
về đâu ”
(“Thuyền và biển”, Xuân Quỳnh)
Nhà thơ nói về thuyền mà không phải là thuyền, về biển mà không phải là
biển. Tác giả thông qua mối quan hệ khăng khít giữa thuyền và biển trong thực tế
để nói lên tâm trạng của chàng trai và cô gái đang yêu nhau tha thiết.
1.1.1.

Tiêu chí phân loại ẩn dụ

Các nhà nghiên cứu cũng đưa ra nhiều cách để phân chia ẩn dụ tu từ
thành nhiều tiểu loại khác nhau. Chúng tôi dựa theo cách phân chia của tác giả
Đinh Trọng Lạc trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt”. Theo tác giả, ẩn dụ
được phân chia thành các tiếu loại sau:
+ Ẩn dụ (Ẩn dụ đích thực).
+ Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (Ẩn dụ bổ sung).

+ Nhân hoá.
+ Vật hoá.
+ Phúng dụ.
Trong những tiếu loại trên, ấn dụ đích thực là một phương thức tiêu biểu
và xuất hiện phổ biến trong thơ ca.
1.1.2.1. Ẩn dụ ( Ẩn dụ đích thực)


“An dụ thực chất là so sánh ngầm, trong đó vế so sánh giảm lược đi chỉ
còn vế được so sánh”Khoá
[2A,luận
tr 194].
tôt nghiệp

Nguyễn Thị Ngọc K37A

Dựa trên những nét tương đồng giữa hai đối tượng, ẩn dụ đích thực
được phân chia thành những kiểu nhỏ như sau:
Ẩn dụ xây dựng trên cơ sở tương đồng về tính chất giữa hai đối tượng.
Ấn dụ xây dựng trên cơ sở tương đồng về trạng thái giữa hai đối tượng.
Ân dụ xây dựng trên cơ sở tương đồng về hành động giữa hai đối
tượng. Ấn dụ xây dựng trên cơ sở tương đồng về hình dáng giữa hai đối
tượng. Ẩn dụ xây dựng trên cơ sở tương đồng về màu sắc giữa hai đối
tượng. Ấn dụ xây dựng trên cơ sở tương đồng về chức năng giữa hai đối
tượng.
7.7.2.2. Ân dụ chuyến đối cảm giác
“Ẩn dụ bổ sung hay còn gọi là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, tức là sự thay
thế một cảm giác này bằng một cảm giác khác trong nhận thức cũng như trong
diễn đạt ngôn ngữ” [2A, tr 196].
Ví dụ:

“Lời yêu mỏng mánh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay”.
(“Hoa cỏ may”, Xuân Quỳnh)
Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác có thể phân chia thành những kiểu nhỏ như
sau:
+ Chuyến đổi từ thính giác sang thị giác.
+ Chuyển đổi từ thị giác sang thính giác.
+ Chuyến đổi từ thính giác sang vị giác.
+ Chuyển đổi từ vị giác sang thị giác.
+ Chuyến đổi từ thính giác sang xúc giác.
+ Chuyển đổi từ thị giác sang xúc giác.
+ Chuyển đổi từ một cảm giác cụ thể (Thị giác) sang một cảm giác trừu
tượng (trạng thái tình cảm).


1.1.2.3. Nhânhoá
“Nhân hoá là Khoá
nhữngluận
ẩn dụ,
chuyển đổi từ những vật vô tri sang hữuNguyễn Thị Ngọc K37A
tôt khi
nghiệp
tri, hoặc là từ thế giới vật chất sang thế giới ý thức của con người” [2A, tr 199]
Ví dụ:
“Sương muối giỏ may rầu rĩ
lắm Còn vài hôm nữa hết
mùa đông”.
(“Xuân tha hương”, Nguyễn Bính)
Tiểu loại ấn dụ này có thế phân chia thành những kiếu nhỏ như sau:
- Dùng những từ chỉ hành động, trạng thái của con người cho đối tượng

không phải là người.
- Dùng những từ chỉ phẩm chất đặc điểm con người cho đối tượng
không phải là người.
-

Coi đối tượng vô sinh như con người đế tâm tình, trò chuyện với chúng.
- Dùng đại từ nhân xưng của con người cho đối tượng không phải là

người.
ỉ.ỉ.2.4. Vật hoá
Vật hoá là “lấy những từ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của loài vật, đồ vật
để biếu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người, nhằm mục đích châm biếm, đùa
vui và nhiều khi qua đó thế hiện tình cảm, thái độ sâu kín của mình” [3A, tr
64].
1.1.2.

Hiệu quả cửa việc sử dụng các ấn dụ

1.13.1. Ân dụ với chức năng tạo hình, biếu cảm trong thơ
Ngôn ngữ thơ nói riêng, ngôn ngữ nghệ thuật nói chung có tính hình
tượng tức là có tính tạo hình và biếu cảm. Điều đó gắn với chức năng của ngôn
ngữ thơ ca khi chúng được nghệ sĩ dùng để tái hiện hiện thực (âm thanh, màu
sắc, hoạt động, tính chất, đặc điểm... của đối tượng được phản ánh trong thơ).
Bởi trong thơ, đối tượng được phản ánh không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên mà
còn là những trạng thái cảm xúc của thi nhân, cho nên tính hình tượng được


hiểu là tính tạo hình, biểu cảm của các phương tiện ngôn ngữ nghệ thuật. Trong
thực tế sáng tạo, cácKhoá
tác luận

giả đã
hiện và sử dụng tối đa biện pháp nghệ
tôtphát
nghiệp
Nguyễn Thị Ngọc K37A
thuật ấn dụ nhằm xây dựng hình tượng thơ và biếu đạt những tâm tư, xúc cảm
của mình. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả giáo trình “Phong cách học tiếng
Việt” (Đinh Trọng Lạc, 2003, Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục) đã
khẳng định vai trò của các ẩn dụ đối với tác phẩm văn học như sau:
“Ẩn dụ thể hiện hình ảnh cụ thể, tránh được cách nói khô khan của văn
chính luận, đồng thời gia tăng sức mạnh biểu cảm trong lời nói. Nhưng nói đến
ẳn dụ phải nói đến thơ ca, đặc biệt là thơ trữ tình. Thơ trữ tình mới thực sự là
“Vương quốc của các ẩn dụ”. Ở đây có thể là một địa hạt khai phá nghệ thuật
không bao giờ cũ mòn bởi vì mỗi bài thơ là một tâm trạng, mỗi bài thơ
có mã riêng của nó và do vậy từ dùng phải mang ý nghĩa khác”. Và “Ấn dụ không
chỉ có giá trị hình tượng, phương tiện xây dựng hình tượng mà còn hàm chứa sức
mạnh biểu cảm. Bởi vì ẩn dụ thể hiện những hàm ý mà người đọc phải suy ra mới
hiểu được” [2A, tr 195].
1.1.3.2. Ân dụ với chức năng tạo tính hàm súc trong thơ
Ngôn ngữ nghệ thuật nói chung và ngôn ngữ thơ nói riêng có tính hàm súc
(tức là ngôn ngữ thế hiện được nhiều nhất các đặc trưng như tính chính xác, cá
thể, hình tượng bằng số lượng các yếu tố ngôn ngữ ít nhất). Khi sáng tạo nghệ
thuật nói chung và sáng tạo thơ nói riêng, người nghệ sĩ không chỉ dừng lại ở việc
tái hiện hiện thực bằng một thứ ngôn ngữ hàng ngày, mà bao giờ cũng sử dụng
một thứ ngôn ngữ đã được sàng lọc, chọn lựa, trau chuốt kĩ càng cùng với những
trạng thái cảm xúc của thi nhân. Biện pháp nghệ thuật ẳn dụ đã góp phần làm cho
lời thơ có tính hàm súc cao. Thông qua việc dùng các hình ảnh ẩn dụ, nhân hoá,
người nghệ sĩ vừa tái hiện được hiện thực cuộc sống thiên nhiên, con người một
cách sống động, vừa bày tỏ được thái độ, tư tưởng, tình cảm đối với cuộc đời, xã
hội và thời đại. Đặc biệt ấn tượng là các ẩn dụ chuyển đối cảm giác, nó làm cho

lời thơ trở nên linh hoạt, sống động trong cách cảm, cách nghĩ của bạn đọc. Thông
qua đó mà “Nhà thơ không chỉ “nghe” bằng tai mà nghe cả bằng mắt, bằng làn da,


bằng lưỡi... “thấm vào tâm hồn”; lúc này mọi giác quan được huy động đến tột
cùng và dẫn đến sự Khoá
giao thoa,
xuyên
thấm, lẫn lộn. Phải là người nghệ sĩ mới
có Thị Ngọc K37A
luận tôt
nghiệp
Nguyễn
cái “nghe” kì diệu ấy và cũng chính là lúc chính nhà thơ làm cho độc giả trở thành
nghệ sĩ” [2A, tr 197].
]. 1.3.3. Ẩn dụ với chức năng tạo tính cá thế trong thơ
Thông qua ngôn ngữ, nhà thơ tạo ra những đứa con tinh thần của mình, cụ
thể là tạo ra các tác phẩm thơ. Ngôn ngữ là tài sản chung của cả cộng đồng nhưng
cách vận dụng nó trong từng hoàn cảnh sáng tác cụ thể lại tuỳ thuộc vào sở thích,
sở trường của từng nhà thơ. Qua việc lựa chọn, sử dụng từ ngữ trong các tác
phẩm, ta thấy được phong cách riêng của từng thi sĩ. VI thế, có thể nói, những
cách dùng ngôn ngữ nghệ thuật của mỗi tác giả sẽ giúp chúng ta nhận ra cá tính
sáng tạo của họ trong sản phẩm của mình. Khẳng định điều này, tác giả cuốn
“Phong cách học tiếng Việt” đã nhận định:
“Ấn dụ thể hiện phong cách sáng tạo của tác giả, phong cách thời đại và
phong cách dân tộc. Ân dụ của ca dao khác ấn dụ của “Truyện Kiều”, của thơ Hồ
Xuân Hương, của “Lục Vân Tiên”... Ẩn dụ của Huy Cận khác Chế Lan Viên, Chế
Lan Viên khác Tố Hữu... Nghiên cứu ẩn dụ của một tác giả ta đã có những
“trường phong cách” khác nhau và có thể bao quát thế giới thơ ca của tác giả đó”
[2A, tr 196].

1.1.3.4. Ân dụ với dấu ấn thời đại trong thơ
Thời đại nào cũng có sự ảnh hưởng tới nghệ thuật nói chung và thơ ca nói
riêng. Vì thế, tìm hiểu nghệ thuật là một phương thức tìm hiểu dấu ấn thời đại ẩn
dấu trong đó. An dụ là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng rộng rãi trong văn
chương, đặc biệt là trong thơ. Cùng với việc tạo nên dấu ấn phong cách tác giả, nó
còn in đậm dấu ấn thời đại mà tác giả đó đang sống. Do vậy, cùng viết về đề tài
chiến tranh, mỗi tác giả lại có một cách sáng tạo và cảm nhận khác nhau.
* Cách phân loại ẩn dụ và cơ sở đánh giá hiệu quả của biện pháp ẩn dụ
trong các sách Phong cách học của tác giả Đinh Trọng Lạc là cơ sở lí luận để
chúng tôi vận dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài này.


1.2.

Vài nét về tác giả Phan Thị Thanh Nhàn

1.2.1.

Cuộc Khoá
đời vàluận
sự nghiệp
tôt nghiệp

Nguyễn Thị Ngọc K37A

1.2.1.1. Cuộc đời:
Phan Thanh Nhàn sinh ngày 9-8-1943. Quê ở phường Tứ Liên, quận Tây
Hồ, Hà Nội. Bà là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và là hội viên Hội Nhà văn
Việt Nam. Bà đã từng theo học: Khoa báo chí trường tuyên giáo
Trung ương, Khóa 5 lớp bồi dưỡng những người viết văn trẻ Hội Nhà văn Việt

Nam, Khóa cao học dành cho các nhà văn trẻ Việt Nam tại học viện Gorky
(Liên Xô).
1.2.1.2.

Sự nghiệp:
Bà sáng tác trên rất nhiều lĩnh vực và đều có những thành tựu nhất định,

tiêu biểu:
Thơ: Tháng giêng hai (Văn học, 1969, in chung với Thúy Bắc và Hoàng
Thị Minh Khanh); Hương thầm {Văn học, 1973); Chân dung người chiến thắng

{Tác phắm mới, 1977); Bông hoa không tặng {Tác phấm mới , 1987); Nghiêng
về anh {Hội Nhà văn, 1992); Bài thơ cuộc đời (Hà Nội, 1999); Thơ với tuổi thơ
(Kim Đồng - 2002).
Văn xuôi: Xóm đê ngày ấy (tái bản ba lần, Kim Đồng - 1975, Hà Nội,
1982, Kim Đồng - 1999)\Hoa mặt trời (Phụ nữ, 1981); Ánh sáng của anh (Kim

Đằng, 1978); Tuổi trăng rằm (Kim Đồng, 1982); Bỏ trốn (Kim Đồng, 1995 1996- 1999).

Phan Thị Thanh Nhàn đã nhận được các giải thưởng văn học: Giải nhì
cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969; Giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật
Hà Nội các năm 1974 và 1980; Giải c Nhà xuất bản Kim Đồng cho tác phẩm
Tuổi trăng rằm năm 1982; Giải A Nhà xuất bản Kim Đồng cho tác phẩm Bỏ tron

năm 1995. Năm 1996 tác phẩm này được xưởng phim truyện Việt Nam dựng
phim nhựa và đoạt giải Bạc của Hội Điện ảnh Việt Nam năm 1996.


Quả thực những thành quả nhà thơ đã mang lại cho công chúng là một
sự đóng góp rất đáng

trânluận
trọng.
xứng đáng được Nhà nước trao tặng giải
Khoá
tôt Bà
nghiệp
Nguyễn Thị Ngọc K37A
thưởng Văn học nghệ thuật năm 2007.
1.2.2.

Phong cách nhà thơ
Giữa các gương mặt thơ nữ tài năng của văn học Việt Nam hiện đại như

Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Ý Nhi... Phan Thị Thanh Nhàn đã để lại nhiều dấu
ấn đậm nét bởi tiếng nói trữ tình, duyên dáng mà kín đáo. Người ta đọc thơ bà như
nghe tâm tình, thấy thương mến bởi thơ của bà là tình của bà với cuộc đời, với
người với thiên nhiên. Với Phan Thị Thanh Nhàn, thơ như lí lịch cuộc đời.
Tiêu biếu nhất là mảng thơ tình, nếu như thơ Xuân Quỳnh ồn ào, mạnh mẽ,
sôi sục trong con sóng trào của tình yêu thì thơ Phan Thị Thanh Nhàn lại như một
loài hoa đêm tụ’ toả hương dịu dàng trong lòng người đọc. Thơ của bà cũng như
người con gái không mang vẻ đẹp rực rỡ nhưng nét duyên thầm là điếm nhấn làm
say đắm lòng người đọc. Mở đầu là tập “Tháng giêng hai” (1969) đến “Hương
thầm” (1973) rồi “Chân dung người chiến thắng” (1977) và “Bông hoa không
tặng” (1987) ta thấy thơ Thanh Nhàn có những bước chuyển mới. Những bài thơ
của bà từ nhẹ nhàng sang trải nghiệm, trăn trở nhung độ lượng hon. Nhưng dù thế
nào những bài thơ của bà cũng rất chân thành, gần gũi và vì thế chiếm được chỗ
đứng trong lòng độc giả. Tác giả từng cho rằng: “Thơ hay là gì? Thơ hay là thơ
được nhiều người yêu mến và thuộc. Mình viết tâm trạng của mình nhưng rồi “gặp ”
được tâm trạng của rất nhiều người


Rõ ràng, Phan Thị Thanh Nhàn là một tác giả nữ có bản sắc thơ khá rõ nét.
Thơ bà không sắc sảo như nhiều gương mặt thơ nữ cùng thời nhưng nó đáng quý
bởi tiếng nói dịu dàng, tiếng nói ấy khiêm nhường, phảng phất như một thứ hương
thầm kín đáo, thanh tao.
1.2.3.

Đặc điêm ngôn ngữ

“Neu trên thế giới này không có lời nói thì thế giới đã không giống như nó
đang tồn tại. Nhà thơ sinh ra từ một trăm năm trước khi thế giới tạo thành. Người
hạ bút làm thơ mà không am hiếu ngôn ngữ chang khác gì anh chàng mất trí lao


đầu xuống dòng sông cuồn cuộn mà không biết bơi” (Raxun Gamzatop). Nhà thơ
là những người am tường
ngôntôt
ngữ
và vận dụng ngôn ngữ một cách đầy sángNguyễn
tạo. Thị Ngọc K37A
Khoá luận
nghiệp
Phan Thị Thanh Nhàn là nhà thơ giản dị và chân thành. Ngôn ngữ trong thơ bà là
thứ ngôn ngữ đời thường, dung dị đến bất ngờ nhưng tự nó vẫn có chất thơ riêng
biệt, đầy sức hấp dẫn. Thứ ngôn ngữ ấy là ngôn ngữ không trau chuốt, không màu
mè mà là ngôn ngữ từ trái tim.
Thơ Phan Thị Thanh Nhàn chủ yếu sử dụng các câu kế, câu trần thuật và
đặc biệt sử dụng khá nhiều các biện pháp nghệ thuật như so sánh, ấn dụ... để thế
hiện được tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ.
Và đọc thơ bà, chúng ta thấy một cảm giác gần gũi thân thiện bởi bà đã đưa
được chất liệu dân gian vào trong từng câu thơ. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng

chứa đầy tình cảm chân thành, tha thiết đã tạo nên nét riêng biệt trong thơ bà.
Tóm lại, tất cả những đặc điểm, phong cách thơ, cuộc đời và sự nghiệp là
căn cứ, là cơ sở lí luận cho chúng tôi thực hiện, phân tích đề tài này.
Chương 2
HIỆU QUẢ NGHỆ THUẬT CỦA BIỆN PHÁP ẤN DỤ TRONG THƠ
PHAN THỊ THANH NHÀN
2.1.

Kết quả khảo sát - thống kê - phân loại


2.1.1. Kết quả khảo sát - thống kê
số phiếu - tỉ lệ %
Khoá luận tôt nghiệp

Loại ẩn dụ

An dụ đích An dụ xây dựng trên cơ sở tương
thực


phiếu
49

Tỉ lệ

Sô phiêu tỉ lệ
Nguyễn Thị Ngọc K37A
(%/Loại) %/tổng
75,4% 65

(28,9%)

đồng về tính chất
An dụ xây dựng trên cơ sở tương

11

16,9%

5

7,7%

32

22,5%

đồng về trạng thái
Àn dụ xây dựng trên cơ sở tương
đồng về hành động
Nhân hoá

Dùng những từ chỉ trạng thái của

(63,1%)

con người cho đối tượng không
phải là người
Dùng những từ chỉ hành động của


61

43%

22

15,5%

23

16,2%

con người cho đối tượng không
phải là người
Dùng những từ chỉ đặc điêm, phẩm
chất của con người cho đối tượng
không phải là người
Coi đôi tượng vô sinh như con
người để tâm tình, trò chuyện với
chúng

142


Dùng đại từ nhân xưng của con

4

2,8%


người cho
đốiluận
tượng
Khoá
tôt không
nghiệp phải là
Ản du
chuyển đổi
cảm giác

Vật hoá

Nguyễn Thị Ngọc K37A

người
Từ thính giác sang thị giác

3

18,8%

16

Từ thính sang vị giác

4

25%

(7,1%)


Từ thính sang xúc giác

4

25%

Từ thị giác sang xúc giác

3

18,8%

Từ thính sang khứu giác

2

12,4%

Dùng những từ chỉ loài vật đê nói
về con người
Tổng số

2

2
(0,9%)

225


225
(100%)

2.1.2.

Nhận xét
+ Ân dụ đích thực là tiểu loại ấn dụ xuất hiện nhiều và khá là phố biến

trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn (65 phiếu, chiếm 28,9%). Tiểu loại này được
chia ra làm 3 tiếu loại nhỏ, mỗi kiếu xuất hiện với một tần suất lớn nhỏ khác
nhau. Qua việc khảo sát, chúng tôi nhận thấy, nhờ việc sử dụng một cách linh
hoạt, phong phú, với tần suất khá cao tiếu loại ấn dụ này, Phan Thị Thanh Nhàn
đã tạo ra cho ngôn ngữ thơ của mình giá trị thẩm mĩ khá cao. Qua đó, nhà thơ
bộc lộ tư tưởng, tình cảm của mình với cuộc đời, với xã hội và thời đại.
+ Ẩn dụ chuyến đổi cảm giác xuất hiện ít hơn so với ẩn dụ đích thực (gồm
16 phiếu, chiếm 7,1%) nhưng nó lại có vai trò và giá trị vô cùng to lớn. Chính
nhờ việc sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác này mà Phan Thị Thanh Nhàn đã
tạo được ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc. Tiểu loại ẩn dụ này không chỉ thể
hiện cái nhìn mới lại về thế giới xung quanh của nhà thơ mà còn bộc lộ tài năng
sáng tạo độc đáo của bà.
+ Nhân hoá trong các sáng tác thơ của Phan Thị Thanh Nhàn là một biện

pháp tu từ được sử dụng với tần số cao, đáng kể nhất (142 phiếu, chiếm 63,1%).


Đặc biệt là trong các bài thơ viết cho thiếu nhi, tiểu loại này xuất hiện một cách
đậm đặc và phổ biến.
Ngoài
làm cho thế giới trẻ thơ trở nên sống động,
Khoá

luậntác
tôtdụng
nghiệp
Nguyễn Thị Ngọc K37A
chân thực và phong phú, nhân hoá còn giúp Phan Thị Thanh Nhàn bày tở, gửi
gắm tâm tư tỉnh cảm một cách kín đáo, tế nhị mà sâu lắng.
+ Vật hoả là một tiểu loại ấn dụ được sử dụng với tần số thấp nhất trong

thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Nhưng không vì thế mà tiểu loại này không có vai trò
quan trọng trong các sáng tác của các nhà thơ. Nó góp phần thế hiện một cách tập
trung nhất, sâu sắc nhất quan điểm, thái độ, tình cảm, lòng yêu quê hương của tác
giả.
* Như vậy mỗi tiểu loại ẩn dụ có sự đóng góp khác nhau về mức độ, về giá trị và
tầm quan trọng để tạo nên phong cách thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Tất cả đã góp
phần tạo nên nét duyên dáng, kín đáo mà vô cùng trẻ trung ở tác giả.
2.2.
2.2.1.

Phân tích kết quả thống kê
Ần dụ đích thực
Đây là tiểu loại ấn dụ được xây dựng trên cơ sở những nét tương đồng (về

tính chất, màu sắc, hình dáng, trạng thái...) giữa hai đối tượng A, B. Dựa vào sự
tương đồng đó, người đọc sẽ tìm hiểu và phát hiện ra đối tượng mà tác giả ngầm
so sánh và hiểu hơn về chúng.
Trong tống số 225 phiếu thống kê, ấn dụ đích thực chiếm 65 phiếu, tương
đương với 28,9% tổng số các an dụ tu từ.
2.2.1.1.

Ân dụ xây dựng trên cơ sở sự tương đồng về tính chất giữa hai đối tượng

Trong các tác phẩm thơ chọn lọc của Phan Thị Thanh Nhàn, đây là kiểu ẩn

dụ khá phố biến (49 phiếu, chiếm 75,4% ẩn dụ đích thực). Bằng việc sử dụng kiểu
ẩn dụ này, tác giả đã bộc lộ những tâm tư, tình cảm, cảm xúc của mình trước cuộc
đời. Hay nói cách khác, những ẩn dụ tu từ này đã chuyển tải thế giới cảm xúc của
nhà thơ đến với bạn đọc một cách tế nhị nhất, sâu sắc nhất. Chúng ta sẽ đi phân
tích một số ví dụ tiêu biểu để hiểu rõ điều này.
Ví dụ 1:


“Bây giờ em yếu mệt Biết
đỡ đần Và em đang
Khoá luậnnhờ
tôt ai
nghiệp

Nguyễn Thị Ngọc K37A

khoẻ lại Chỉnh là nhờ mùa
xuân ”

(Chính là nhờ mùa xuân)
Chúng ta đều biết một năm có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Và mùa xuân
là mùa bắt đầu của một năm, mùa của tuổi mới, mùa của sức sống mới và là mùa
của những gì hạnh phúc ngọt ngào nhất. Ở đây, mùa xuân là vế B, ta liên tưởng tới
vế A là mục tiêu, nghị lực sống, tình yêu thương giữa con người với con người. Sự
so sánh, liên tưởng giữa nghị lực sống, mục tiêu, tình yêu thương của con người
với hình ảnh mùa xuân thật độc đáo, sâu sắc.
Phan Thị Thanh Nhàn là nhà thơ có một cuộc sống khá vất vả bởi người
chồng gắn bó với bà chưa được bao lâu thì phải lìa xa bà đến với thế giới bên kia.

Một mình bà vừa phải lo toan, chăm sóc chu toàn cho gia đình, vừa phải hoàn
thành tốt công việc được xã hội giao phó. Vì vậy, ta cảm thấy nhiều lúc bà cảm
giác rất mệt mỏi song vì tình yêu cuộc sống, vì gia đình, vì người con thân yêu mà
bà đã vượt qua đế trở thành một Phan Thị Thanh Nhàn như ngày hôm nay.
Hình ảnh ấn dụ “mùa xuân” còn trở đi trở lại trong thơ của bà như trong bài
“Nhà cũ”:
“Căn nhà đã nhốt
Những ngày trong veo
Mùa xuân còn mãi Nơi

mình buông neo ”
Mùa xuân là nguồn cảm hứng vô tận của các nhà thơ, hình ảnh “mùa xuân”
là một ẩn dụ còn xuất hiện khá nhiều trong thơ của Chế Lan Viên, Nguyễn Đình
Thi, Tố Hữu và Xuân Quỳnh. Nhưng với cách nói của Phan Thị Thanh Nhàn,
“mùa xuân” trong thơ bà có vẻ sinh động, hấp dẫn và đặc biệt riêng, nó không trở
nên sáo mòn, nhàm chán mà vẫn vô cùng hấp dẫn và tươi mới.
Ví dụ 2:


“Bác về, gửi gạch tặng dân Giếng đẩu
tiên ấyKhoá
ở sânluận
đìnhtôt
làng
Tròn xoe dưới một
nghiệp

Nguyễn Thị Ngọc K37A

tản bàng ơi gàu nước mát đầy tràn thương

yêu Lòng Cha chia khắp xóm nghèo Thắm
sâu mạch nước trong veo giếng này”
(Giếng nước Bác Hồ)
Bài thơ “Giếng nước Bác Hồ” được Phan Thị Thanh Nhàn viết tại Quảng
An vào tháng 9 năm 1969. Giếng làng quê hương nhà thơ không chỉ là nơi gặp gỡ
câu chuyện làm ăn thôn xóm mà là kỉ niệm gắn liền với Bác Hồ. Năm 1969, cả
nước đau đớn vì sự ra đi của một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc - Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Bà viết bài thơ này cũng như góp một tiếng khóc, một sự nhớ nhung vô bờ
tới vị lãnh tụ vị đại của dân tộc. Hình ảnh ấn dụ “Cha” được tác giả dùng để chỉ
Bác Hồ. Người không chỉ là một vĩ lãnh tụ xuất sắc trong phong trào giải phóng
dân tộc mà Người còn có phẩm chất giống người cha, luôn chăm sóc chu đáo đối
với đàn con - nhân dân Việt Nam, không màng tới quyền lợi của bản thân, làm
mọi việc, hi sinh cho hạnh phúc của các con. Các con luôn được sống trong vòng
tay che chở của Người. Qua hình ảnh ẩn dụ “cha”, ta thấy được sự giản dị, gần gũi
của một vị lãnh tụ cách mạng, một vị Cha già thực thụ và vô cùng gần gũi, thân
thiết của con dân đất Việt. Qua đây ta còn thấy tình yêu, sự kính trọng của tác giả
nói riêng và toàn thể dân tộc nói chung đối với Bác Hồ. Dù Bác có ra đi mãi mãi
thì trong tâm trí mọi người, Bác vẫn sống, Bác vẫn tồn tại. Và những gì liên quan
tới Bác sẽ vẫn được duy trì và bảo vệ đến cùng. Một bài hát nào đó có câu: “Bác
Hồ là tình yêu thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại”. Phan Thị
Thanh Nhàn là một người con trong số nhiều người con của dân tộc Việt bày tỏ
tình cảm thiêng liêng ấy với người Cha già của dân tộc một cách chân thành nhất.
Ví dụ 3:
“Ngoài khơi xa, biến cô đơn Bao nhiêu
chiếc sóng cũng buồn như nhau Tím bầm


mang mãi niềm đau Nhớ thương nên nỗi bạc
đầu bờ Khoá
ơiỉ ” luận tôt nghiệp


Nguyễn Thị Ngọc K37A

(Biển và đất mỏ)
Con sóng - bờ xa, thuyền - biến là những hình ảnh ấn dụ được Phan Thị
Thanh Nhàn thế hiện khá thành công, nó mang rất nhiều ý nghĩa: những con sóng
ngày đêm muốn cập bến bờ cũng giống như tình yêu đi tìm mãi bến đỗ của nó.
Trong ca dao, hình ảnh thuyền và bến (bờ) thường được nói sự khăng khít, gắn bó
của tình yêu:
“Thuyền về có nhớ bến chăng Ben thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Hay như trong thơ Xuân Quỳnh:
“Chỉ có thuyền mới hiếu Biến
mênh mông nhường nào
Chỉ có biến mới biết
Thuyền đi đâu về đâu

(Thuyền và biển)
Tác giả Xuân Quỳnh cũng thông qua hình ảnh thuyền và biển để nói lên
tâm trạng yêu nhau của đôi trai gái. Còn với Phan Thị Thanh Nhàn, bà đã
mượn hình ảnh “sóng - biến” đế nói về ngọn lửa tình yêu đang khao khát, đang
nhớ thương đến cháy lòng. Đó là sóng lòng hay còn được gọi là sóng tình, là
khát vọng nhớ nhung, da diết đến buồn đau. Đoạn thơ cho ta thấy, ngoài cái dữ
dội, mãnh liệt thì còn có sự dịu dàng, đằm thắm của người con gái Việt Nam
khi yêu. Hình tượng người phụ nữ đứng trước biến hay nói rộng ra là đứng
trước tình yêu thì luôn đặt mình lên những “con sóng” để khám phá, chinh
phục tình yêu. Phan Thị Thanh Nhàn đã mượn những hình ảnh đó đế bày tỏ
cảm xúc, suy nghĩ của mình về tình yêu.
Ví dụ 4:
“Anh đã nhô bọt vào quả khứ Đã
quên rồi muối mẫn gừng cay Sao



tôi vân thương về ngày cữ Vân
nghĩ luận
rằngtôt
anh
chang đối thay ”
Khoá
nghiệp

Nguyễn Thị Ngọc K37A

(Yêu)
Ban đầu, trai gái yêu nhau thường lấy trăng, hoa, sông, núi... làm cái cớ
để tỏ tình, để hứa hẹn, thề thốt. Ở vào thời điểm mơ mộng, huyền diệu ấy, tình
yêu hiện ra thật lãng mạn, đẹp đẽ. Tâm lí của những kẻ đang yêu là “Nhất nhật
bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp nhau dài bằng ba thu), nhưng
khi đã nên vợ nên chồng thì tình yêu chuyến thành tình thương, tình nghĩa, tức
là đi vào chiều sâu của tình cảm. Tác giả đã mượn các hình ảnh gần gũi, quen
thuộc để miêu tả tình nghĩa vợ chồng.
Hình tượng thơ không cầu kì, bóng bẩy mà đơn sơ, gần gũi. “Muối” và
“gừng” là những gia vị thường dùng trong bữa cơm hằng ngày của người bình
dân. Hơn thế, muối và gừng còn là những vị thuốc đắc dụng trong lúc ốm đau.
Muối và gừng là những sản phẩm đo chính tay người dân làm ra và gắn bó đời đời
kiếp kiếp với họ. Muối là kết tinh của nước biến, màu trắng, hạt nhỏ, có vị mặn.
Muối có mặt trong bữa ăn của mọỉ nhà, mọi người. Gừng là loại cây thường được
trồng ở trong vườn, ngoài đồng. Vị cay nồng của gừng làm nóng ran tù' miệng vào
tới gan ruột, khiến ta có cảm giác tăng thêm nhiệt huyết, sức lực. Độ cay của gừng
được ngầm so sánh với mức độ thắm thiết của tình cảm trai gái nhưng thiên về
tình cảm vợ chồng nhiều hơn. Trong gian nan, vất vả, tình nghĩa vợ chồng càng

thêm sâu đậm. Gừng cay, muối mặn tượng trưng cho tình nghĩa của những cặp vợ
chồng nghèo cùng nhau chung lưng đấu cật, lên thác xuống ghềnh, lên rừng xuống
biển. Chén cơm sẻ nửa, hạt muối chia đôi. Qua gian nan, cơ cực, tình nghĩa vợ
chồng gắn bó càng thêm sâu sắc.
Hình ảnh “gừng cay muối mặn” là một hình ảnh vô cùng quen thuộc và gần
gũi. Tác giả đã sử dụng thi liệu vốn có sẵn trong ca dao rất khéo, rất tài tình.
“Muối ba năm muối đang còn mặn Gừng chín thảng gừng hãy
còn cay Việc sử dụng ẩn dụ tương đồng về tính chất giữa hai đối tượng đã khiến

ngôn ngữ thơ Phan Thị Thanh Nhàn có một sức gợi rất ám ảnh và sâu xa. Khi tìm


ra sự tương đồng về tính chất giữa hai đối tượng ấy, Phan Thị Thanh Nhàn đã thế
hiện cách so sánh, liên
tưởng
ngôn Thị Ngọc K37A
Khoá
luậnrất
tôtphong
nghiệpphú, sinh động và làm giàu thêm cho Nguyễn
ngữ thơ ca. Cách sử dụng ngôn ngữ đặc biệt này còn giúp chúng ta cảm nhận được
con mắt nhìn thế giới xung quanh của nhà thơ là vô cùng tinh tế.
2.2.1.2. Ẩn dụ xây dựng trên cơ sở tưong đồng về trạng thải giữa hai đối tượng
Những ẩn dụ này xuất hiện không nhiều trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn (11
phiếu, chiếm 16,9% ẩn dụ đích thực) nhưng nó lại chứa đựng một giá trị rất lớn
trong việc thể hiện quan niệm về nhà thơ trước cuộc đời, trước con người.
Khi phân tích một số ví dụ tiêu biếu, chúng ta sẽ nhận thấy rõ hiệu quả của
nó trong các tác phẩm thơ của Phan Thị Thanh Nhàn.
Ví dụ :
“Đây là Cường, người anh cả thân yêu

Sau hai mươi ba ngày đêm giữ chốt Khi
H2ã xuống điếm cao 311 Tay anh còn

giương thắng ngọn cờ”
(Gương mặt sư đoàn)
“Ngã xuống” là một ẩn dụ tương đồng về trạng thái. “Ngã” là một động từ
thế hiện sự chuyển động đột ngột, ngoài ý muốn, sang vị trí thân sát trên mặt nền
do mất thăng bằng” [13B, tr 667]. Sự tương đồng về trạng thái giữa “ngã xuống”
và cái chết đã giúp nhà thơ không cần nói một cách cụ thể, người đọc cũng hiếu
đó là sự hi sinh, mất mát. Vì khi con người mất đi, đồng nghĩa với đó là sự chấm
dứt mọi hoạt động và chuyển sang trạng thái nằm yên bất động. Ở đây, Phan Thị
Thanh Nhàn đã tìm thấy sự tương đồng giữa “ngã xuống” và sự hi sinh của các
chiến sĩ trên mặt trận chống kẻ thù xâm lược nói chung và đồng chí Cường nói
riêng. Câu thơ lắng xuống như một phút mặc niệm của tác giả trước hương hồn
đồng chí. Anh là một trong số rất nhiều người đã hi sinh mình vì sự nghiệp giải
phóng toàn dân tộc. Đây cũng là cách nói để nhà thơ thể hiện sự biết ơn, lòng cảm
phục chân thành đối với những người lính cụ Hồ.


×