Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Khoá luận tốt nghiệp sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc xóa đói giảm nghèo ở tỉnh ninh bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.88 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁỎ DỤC CHỈNH TRỊ

===£oClo3===

TRÀN THỊ TRANG

Sự VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO VIỆC
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở TỈNH NINH BÌNH HIỆN
NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

• • • •

Chuyên ngành: Triết học

Nguxri hướng dẫn khoa học ThS. NGUYEN
THỊ GIANG

HÀ NỘI – 2015

LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòi cảm ơn chân thành sâu sắc đến cô giáo Th.s Nguyễn Thị Giang đã tận
tình chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Em cũng xin cảm ơn các thầy cô trong


trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2, đặc biệt là có thầy cô khoa giáo dục chính trị đã dạy dỗ và
giúp đỡ em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Và em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện cũng như giúp đỡ em
hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Do thời gian có hạn cũng như hạn chế kiến thức của bản thân nên khóa luận không tránh
khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý , chỉ bảo của thầy cô và các bạn quan tâm


đến vấn đề này, để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 4 thảng 5 năm 2015 Sinh viên thực
hiện

Trần Thị Trang

LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Th.s Nguyễn Thị
Giang.

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không trùng lặp với kết
quả nghiên cứu trước đây của bất cứ tác giả nào khác.
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2015 Sinh
viên thực hiện

Trần Thị Trang


MỤC LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐÀU
1. Lý do chọn đề tài

Ở các nước đang phát triển và chậm phát triển đói nghèo không chỉ là thách
thức trong sự phát triển kinh tế mà còn là một vấn đề xã hội cần phải được quan tâm
giải quyết. Vì vậy, các quốc gia đã nỗ lực tìm các biện pháp để xóa đói, giảm nghèo,

thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lóp trong xã hội.
Việt Nam là một nước đang phát triến lựa chọn đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Với mục tiêu phấn đấu là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn
minh. Dân có giàu thì nước mới mạnh, xã hội mới tiến bộ được.Sau gần 30 năm đổi
mới, đất nước ta đã có những thành quả vô cùng to lớn, kinh tế tăng trưởng khá
nhanh, nhìn chung đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đời sống tinh thần ngày
càng được quan tâm. vấnđề xóa đói, giảm nghèo cũng được Việt Nam hết sức coi
trọng, đầu tư rất nhiều tiền của cho các chương trình xóa đói, giảm nghèo như
chương trình 133, 135,... Các chương trình xóa đói, giảm nghèo này đã đạt được
những hiệu quả to lớn như số hộ nghèo đói giảm nhanh, người nghèo vươn lên làm
giàu ngày càng nhiều. Việt Nam được Ngân hàng Thế giới đánh giá là nước vượt trội
trong xóa đói, giảm nghèo...Nhưng kết quả xóa đói, giảm nghèo thời gian qua ở
nước ta vẫn chưa thật vững chắc hiện tượng thoát nghèo lại tái nghèo vẫn diễn ra. Có
những nơi đời sống nhân dân vẫn gặp nhiều khó khăn, không chỉ ở các vùng sâu,
vùng xa mà ngay cả các tỉnh đồng bằng, hiện tượng đói nghèo vẫn diễn ra. Nó không
chỉ là thách thức cần giải quyết của các cơ quan trung ương mà còn cả các cấp chính
quyền địa phương phải quan tâm. Như vậy, giải quyết vấn đề đói nghèo là điều cấp
bách cần làm hiện nay.
Ninh Bình là một tỉnh còn khá nghèo ở miền Bắc, thu nhập bình quân đầu
người còn thấp chỉ 25 triệu đồng/người/năm (năm 2011) thấp hơn mức thu nhập bình
quân chung của đồng bằng sông Hồng. Đời sống của người dân trong tỉnh gặp khó
nhiều khó khăn, thiên tai thường xuyên xảy ra nên vấn đề đói nghèo cũng diễn ra


phức tạp trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, nhờ có sự quan tâm của các cấp chính quyền
từ trung ương đến địa phương, vấn đề xoá đói, giảm nghèo của tỉnh đã thu được
những kết quả khả quan từ 12,83% năm 2007 xuống còn 6,87% năm 2009. Song
nhìn chung vấn đề này vẫn còn rất nhiều bất cập, trong việc cụ thể hoá từ chính sách
đến thực tiễn đời sống. Nhận thức của người nhân dân vẫn còn hạn chế, xoá đói,
giảm nghèo của tỉnh cần phải được quan tâm hơn nữa. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Sự

vận dụng quan điếm toàn diện vào việc xoả đỏi, giảm nghèo ở tỉnh Ninh Bình hiện nay
” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình, mong góp một phần nhỏ vào công cuộc

xoá đói, giảm nghèo của tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu

Xoá đói, giảm nghèo là một vấn đề đặt ra cho đất nước ta từ lâu. Vì thế vấn đề
này cũng đã có được nghiên cứu rất nhiều qua các bài báo, bài nghiên cứu của các
tác giả khác nhau cả ở trong và ngoài nước, cả về giác độ xã hội lẫn giác độ kinh tế
đáng chú ý như một số công trình:
Báo cáo phát triển của Việt Nam (2000), “Tấn công nghèo đói”, Báo cáo
chung của nhóm công tác chuyên gia Chính Phủ-Nhà tài trợ-Tố chức chính phủ, Hội
nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, 14-15/12/1999. Báo cáo trình bày
bản chất nhiều khía cạnh đói nghèo ở Việt Nam như mức thu nhập và chi tiêu dẫn tới
sức khỏe kém và thiếu cơ hội học tập... Báo cáo cũng đề ra ba mảng hoạt động quan
trọng để chống lại nghèo đói.
Hoàng Thị Hiền (2005), “Xoả đỏi giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc ít người
một tỉnh tìoà bình-Thực trạng và giải pháp ”, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính

trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trong công trình này tác giả nghiên cứu vấn đề
sâu dưới giác độ kinh tế về thực trạng và cách thoát nghèo xóa đói, giảm nghèo của
đồng bào dân tộc ít người ở tỉnh Hòa Bình.
Ngô Quang Minh (1999), “Tác động kinh tế của nhà nước góp phẩn xoá đói,
giảm nghèo trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá”,Nx b Chính trị quốc gia, Hà


Nội. Tác giả tìm hiểu những tác động của nền kinh tế khi quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa diễn ra đã góp phần đẩy lùi xóa đói, giảm nghèo như thế nào.
Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hoà (1999), “ Phân hoá giàu nghèo ở một so quốc
gia trong khu vực châu Ả - Thải Bình Dương ”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đây là


những bài báo cáo khoa học tại hội thảo phân hóa giàu nghèo trong quá trình tăng
trưởng kinh tế ở một số nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Các báo cáo tập
trung phân tích mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phân hóa giàu nghèo, phân
tích xu hướng, nguyên nhân của sự phân hóa giàu nghèo cũng như những chính sách
giải quyết vấn đề này nhằm từng bước cải thiện mức sống, xóa đói, giảm nghèo.
Ngoài ra còn một số bài báo, bài viết về xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình: Tạp chí cộng sản (14/6/2010), Xoả đói, giảm nghèo ở Ninh Bình, “khi chí
đã quyết, lòng đã đồng”. Bài báo nghiên cứu về thành quả xóa đói, giảm nghèo của

tỉnh ủy Ninh Bình trong giai đoạn 2006-2010.
Các công trình nghiên cứu trên đề cập đến đói nghèo và xóa đói, giảm nghèo
cả về lí luận và thực tiễn. Tuy nhiên các tác giả trên chỉ nghiên cứu xóa đói, giảm
nghèo trên giác độ kinh tế, giác độ xã hội nhưng chưa có tác công trình nghiên cứu
nào đề cập đến vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở Ninh Bình trên giác độ triết học. Vì
vậy, tôi mạnh dạn đưa ra đề tài nghiên cứu xóa đói, giảm nghèo trên giác độ triết học
cụ thể là vận dụng quan điểm toàn diện vào giải quyết vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở
Ninh Bình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1 Mục đíchnghỉên cứu đề tài
Đe tài nghiên cứu sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc xóa đói, giảm
nghèo ở Ninh Bình hiện nay; từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm xóa đói, giảm
nghèo hiệu quả ở Ninh Bình.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích quan điếm toàn diện trong triết học Mác-Lênin và các quan niệm
vềxóa đói, giảm nghèo.


Nghiên cứu thực trạngđói nghèo ở tỉnh Ninh Bình và rút ra nguyên nhân dẫn
đến đói, nghèo của tỉnh.

Từ đó vận dụng quan điếm toàn diện đế đưa ra một số giải pháp nhằm xoá
đói, giảm nghèo ở Ninh Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh Ninh Binh hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về công tác xoá đói, giảm nghèo của tỉnh Ninh Bình giai đoạn từ
năm 2006 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủnghĩa Mác - Lênin, quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
xoá đói, giảm nghèo, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của Ngân hàng Thế giới đế
xem xét các vấn đề đói nghèo của tỉnh Ninh Bình.
Trong các vấn đề cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
nhưphương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê,....
6. Ý nghĩa đề tài

Khóa luận góp phần làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và hoạch
định chính sách xóa đói, giảm nghèo của trung ương và tỉnh.
Khóa luận cũng là tư liệu tham khảo cho những nghèo về cách xóa đói, giảm
nghèo.
Ngoài ra, khóa luận có thế làm tư liệu tham khảo cho những người quan tâm
đến vấn đề xóa đói, giảm nghèo.
7. Kết cấu khoá luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương và 9tiết
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
l.lNguyên lí về mối liên hệ phổ biến - cơ sở triết học của quan điểm toàn diện


l.l.lNội dung của moi liên hệ phố biến


Thế giới được tạo ra từ những sự vật, hiện tượng, những quá trình khác nhau.
Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn
tại tách rời, biệt lập nhau? Neu chúng tồn tại trong sự liên hệ qua lại, thì nhân tố gì
quyết định sự liên hệ đó.
Trả lời cho câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng
các sự vật, hiện tượng, tồn tại một cách tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái
kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc, không có sự rằng buộc lẫn nhau, có chăng
chỉ là những mối liên hệ hời hợt bên ngoài mang tính ngẫu nhiên.Ngược lại, những
người theo quan điếm biện chứng coi thế giới như một chỉnh thế thống nhất. Các sự
vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự
liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau.
Khi trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm tìm cơ sở của
sự liên hệ, tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng của các lực lượng tự nhiên
hay ở ý thức, ở cảm giác của con người.Những người theo quan điểm duy vật biện
chứng thì khẳng định rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng là
tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điếm này, các sự vật, hiện tượng trên
thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ là
dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả tư
tưởng, ý thức của con người vốn là những cái phi vật chất cũng chỉ là thuộc tính của
một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, nội dung của chúng cũng chỉ là
kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan.Theo quan điểm duy vật biện
chứng, mối liên hệ tồn tại một cách phổ biến cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên
hệ phổ biến mang tính chất bao quát, nó tồn tại thông qua những mối liên hệ đặc thù
của sự vật, nó phản ánh tính đa dạng và tính thống nhất của thế giới.
1.1.2Tính chất của mối liên hệ phổ biến
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất

cơ bản của mối liên hệ phố biến.


Thứ nhất, tính khách quan: Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách

quan, vốn có vì nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới, biếu hiện trong
tất cả quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quan điểm này, sự quy định lẫn
nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng
(hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý
thức con người. Con người chỉ có thể nhận biết và vận dụng để cải biến tự nhiên cho
phù hợp với mục đích của mình. Ví dụ như thực vật có mối liên hệ với môi trường
qua quá trình quang họp, con người dù muốn hay không thì quá trình đó vẫn diễn ra
hàng ngày.
Thứ hai, tính phổ biến: Tất cả các sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong mối liên

hệ phố biến. Không có bất cứ sự vật hiện tượng hay quá trình nào nằm ngoài mối
liên hệ phổ biến. Ví dụ như thực vật là nguồn thức ăn của động vật ăn cỏ, động vật
ăn cỏ lại là nguồn thức ăn của động vật ăn thịt ....Đồng thời, bản thân mỗi sự vật,
hiện tượng cũng là một hệ thống những mối liên hệ bên trong nó. Ví dụ như quá
trình hô hấp bên trong cơ thể con người là sự kết hợp hoạt động của mũi, khí quản,
phối...
Thứ ba, mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng không chỉ mang tính

khách quan, tính phố biến mà còn mang tính đa dạng, phong phú và nhiều vẻ.Tuỳ
thuộc vào từng sự vật, hiện tượng khác nhau thì sẽ có những mối liên hệ khác nhau.
Hay ở cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể
khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật của sự vật thì cũng có vai trò và vị trí nhất định. Có thể phân chia thành từng loại
tuỳ thuộc vào tính chất phức tạp hay giản đơn, thứ yếu hay chủ yếu, phạm vi rộng
hay hẹp, trình độ nông hay sâu,... Các mối liên hệ còn phụ thuộc vào điều kiện

không gian và thời gian cụ thể.
1.1.3 Các quan điểm rút ra từ mối liên hệ phổ biến
1.1.3.1 Nguyên tắc quan điếm toàn diện theo chủ nghĩa Mác - Lênỉn


Từ việc nguyên cứu nguyên lí về mối liên hệ phố biến các sự vật và hiện
tượng chúng ta rút ra quan điếm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật,
hiện tượng cũng như trong hoạt động thực tiễn.Với tư cách là một nguyên tắc
phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật và hiện tượng, quan điểm toàn
diện đòi hỏi để có nhận thức đúng về sự vật, chúng ta phải xem xét nó:
Một là, trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc

tính khác nhau của sự vật đó.
Hai là, trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với sự vật khác (kế cả trực tiếp

hay gián tiếp), cần tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tượng ở một hoặc
một vài mối liên hệ đã vội vàng đi đến những kết luận về bản chất của sự vật.
Đe cập hai nội dung vừa nêu trong phương pháp về nhận thức sự vật, Lênin
viết: “Đe thực sự hiểu được sự vật, cần phải bao quát và nghiên cứu các mặt, tất cả
các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó”[19, tr.364].Hơn thế nữa, quan
điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cần xem xét nó trong
mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.ứng với mỗi con người, mỗi thời
đại, mỗi hoàn cảnh cụ thể nhất định con người bao giờ cũng chỉ phản ánh một số
lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy tri thức đạt về sự vật cũng chỉ là tương
đối, không đầy đủ, không trọn vẹn.Ý thức được điều đó chúng ta sẽ tránh được việc
tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật, hiện tượng và trách xem đó là những
chân lí bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát triển. Đe nhận thức
được sự vật, chúng ta “cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng
ta khỏi phạm sai lầm và cứng nhắc” [19, tr.364].
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, không chỉ ở chỗ nó

chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật vẫn có thể là phiến diện nếu chúng
ta không đánh giá ngang nhau những thuộc tính, những quy định khác nhau của sự
vật được thế hiện trong mối liên hệ khác nhau đó. Quan điếm toàn diện chân thực
đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến


chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay
hiện tượng đó.Như vậy, quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn
trải, liệt kê dẫn đến đánh đồng ngang nhau những thuộc tính, những tính quy định
khác nhau đó.
Từ nhũng điều vừa trình bày trên đây có thể rút ra kết luận rằng quá trình hình
thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để
nhận thức một mặt, một mối liên hệ nào đó của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt,
nhiều mối liên hệ của sự vật đó và cuối cùng, khái quát những tri thức phương pháp
đó để rút ra tri thức về bản thân của sự vật.
Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn,
nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi để cải tạo được sự vật, chúng ta phải bằng
thực tiễn của mình biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật, cũng như những
mối liên hệ giữa sự vật đó với sự vật khác. Như vậy, phải sử dụng đồng bộ nhũng
biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay đổi những liên hệ
tương ứng.Vận dụng quan điếm toàn diện vào hoạt động thực tiễn cũng đòi hỏi
chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách có trọng
điếm” (V.I.Lênin). Trong khi khắng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các
mặt, các lĩnh vực của quá trình đổi mới.Quan điểm này vừa khác với quan điểm
chiết trung, vừa khác với quan điểm ngụy biện.Chủ nghĩa chung triết tuy cũng tỏ ra
chú ý tới nhiều mặt khác nhau, nhưng lại kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái
hết sức khác nhau thành một hình ảnh không đúng về sự vật. Chủ nghĩa chiết trung
không biết rút ravề mặt bản chất, mối liên hệ căn bản cho nên rơi vào chỗ cào bằng
các mặt kết họp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, do đó hoàn toàn
bất lực khi cần phải có quyết sách đúng đắn. Thực chất của thuật ngụy biện là sự

“đánh tráo” có dụng ý biến cái không cơ bản thành cái cơ bản, không bản chất thành
bản chất hoặc ngược lại, phản ánh sai lệch, xuyên tạc sự vật, hiện tượng. Cả chủ
nghĩa chiết trung lẫn thuật ngụy biện đều là những biếu hiện khác nhau của phương


pháp luận sai lẩm trong việc xem xét các sự vật và hiện tượng. Vì vậy, quan điểm
toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào sai lầm của chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy
biện.
1.1.3.2 Nguyên tắc lịch sử cụ thế Quan
điểm lịch sử - cụ thể có 3 yêu cầu:
Thứ nhất, khi phân tích xem xét, cải biến sự vật phải đặt nó trong điều kiện

không gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những điều kiện không
gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm của sự vật. phải phân tích
cụ thế mọi tình hình ảnh hưởng đến sự vật.
Thứ hai, khi nghiên cứu một lí luận, một luận điểm khoa học nào đó cần phân

tích nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lí luận đó. Có như vậy mới đánh giá
đúng giá trị và hạn chế của lí luận đó.
Thứ ba, khi vận dụng một lí luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều kiện

cụ thể của nơi được vận dụng.
1.2 Các quan niệm về đói nghèo và tiêu chuẩn xác định đói nghèo

1.2.1

Quan niệm về đói nghèo trên thế giới

Đói nghèo luôn luôn là nỗi ám ảnh thường trực của loài người. Nó đáng sợ
hơn cả thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh. Bởi vì các cuộc chiến tranh dù tàn khốc đến

đâu thì trước sau gì cũng được giải quyết, những thảm hoạ do thiên tai, dịch bệnh
gây ra cũng từng bước được khắc phục. Nhưng nghèo đói của nhân loại lại là vấn đề
vừa phức tạp, vừa cấp bách lại như một căn bệnh kinh niên khó bề cứu chữa.
Thế giới trải qua các cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật làm cho khối lượng
vật chất xã hội ngày càng gia tăng vượt bật nhưng nghèo đói vẫn là nỗi lo của con
người vì trên thực tế 1/3 dân số vẫn trong tình trạng đói khát và cùng cực. Trẻ em là
những nạn nhân thiệt thòi nhất của tình trạng đói nghèo. Mỗi ngày có hơn 100 triệu
trẻ em không có cái ăn, cái mặc, sống vô gia cư chỉ nhờ sự bố thí hoặc lao động quá
sức để kiếm sống, hon 50 triệu trẻ em làm việc trong những ngành có hại; hàng trăm


triệu trẻ em không được cắp sách đến trường.Đói nghèo vẫn diễn ra trên tất cả châu
lục với những mức độ khác nhau. Đặc biệt ở những nước đang phát triến, sự đói
nghèo là một vấn đề nhức nhối cần được tháo gỡ nhưng vô cùng khó khăn.
Quan điếm trước đây về đói nghèo:
Trước đây người ta thường đánh đồng nghèo đói với thu nhập thấp. Coi thu
nhập thấp là tiêu chí đánh giá nghèo đói. Quan điểm này có ưu điểm là thuận lợi cho
việc xác định số người nghèo dựa trên chuẩn nghèo, ngưỡng nghèo. Nhưng thực tế
đã chứng minh việc xác định đói nghèo trên thu nhập chỉ đo được một phần của
cuộc sống. Thu nhập thấp không phản ánh hết được các khía cạnh của đói nghèo, nó
không cho chúng ta biết được mức khốn khổ và cơ cực của những người nghèo. Do
đó, quan niệm này còn rất hạn chế.
Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm đói nghèo được
hiếu sâu hơn, rộng hơn và có những cách tiếp cận khác nhau dẫn đến quan điểm
khác nhau.Năm 1998 UNDP công bố một bản báo cáo nhan đề “khắc phục sự nghèo
kho của con người ” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo như sau:

Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con người như
biết đọc, biết viết, được tham gia vào các các quyết định cộng đồng và được nuôi
dưỡng tạm đủ.

Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu
tối thiểu.
Sự nghèo khổ cực độ nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng thoả
mãn những nhu cầu tối thiếu.
Sự nghèo khố chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định
như sự không có khả năng những nhu cầu lương thực và phí lương thực chủ yếu,
những nhu cầu này đòi hỏi khi được xác định khác nhau ở nước này hoặc nước khác.
Tại hội nghị bàn về xoá đói giảm nghèo do ESCAP tố chức tại Băng Cốc Thái
Lan (tháng 9/1993) đã đưa ra khái niệm về nghèo đói như sau: “Đói nghèo là tình


trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của
con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và
phong tục tập quán của địa phương”. Theo định nghĩa này thì mức độ nghèo đói ở
các nước khác nhau là khác nhau. Theo số liệu của ngân hàng thế giới thì hiện nay
có khoảng 1,3 tỷ người trên thế giới sống dưới mức độ nghèo đói, trong đó chủ yếu
là phụ nữ và trẻ em.
1.2.2 Tiêu chỉ xác định nghèo đói của các tố chức trên thế giới
Tiêu chí đánh giá mức độ nghèo đói của các quốc gia được ngân hàng thế giới
đưa ra như sau:
Thứ nhất, dựa trên mức thu nhập quốc gia (GDP) tính theo đầu người sẽ có 6

loại nước giàu nghèo khác nhau (theo thu nhập 1990)
Loại thứ nhất là các nước cực giàu trên 25000 USD/ năm Loại thứ
hai là các nước giàu từ 20000 đến 25000 USD/năm Loại thứ ba là
các nước khá giàu từ 10000 đến 20000 USD/năm Loại thứ tư là
các nước trung bình từ 2500 đến 10000 USD/ năm Loại thứ năm là
các nước nghèo từ 500 đến 2500 USD/ năm Loại thứ sáu là các
nước cực nghèo dưới 500 USD/năm
Tại đại hội lần 2 của uỷ ban nghèo khổ khu vực ESCAP họp tại Băng Cốc

(Thái Lan) tháng 9 năm 1995, Ngân hàng thế giới đưa ra chuẩn mực nghèo khổ
chung của toàn cầu là thu nhập bình quân đầu người dưới 370 USD/người/năm.
Thứ hai, dựa vào phương pháp sử dụng rộng rãi tại các nước phát triển trong

khu vực,căn cứ vào mức thu nhập tối thiếu là 2100 calo/ngày/người trong đó 70%
chi cho ăn,còn lại 30% chi cho các nhu cầu khác ngoài lương thực thực phấm như
mặc, ở, chữabệnh, văn hóa, đi lại... Dựa vào chuấn mực này và căn cứ vào số liệu
điều tra mức sống dân cư 1992 - 1993 của 4.800 hộ đại diện các vùng trong nước
Ngân hàng thế giới đãđưa ra con số Việt Nam có khoảng 51 % dân số thuộc diện đói
nghèo, trong đó 25% sốhộ thuộc diện đói về lương thực, thực phẩm. Nếu theo khu


vực thì nông thôn có 57% vàthành thị có 27% dân số thuộc diện đói nghèo.Theo
cách đánh giá trên của Ngân hàng thế giới, đối với Việt Nam, ngưỡngnghèo được
xác định tương đối cao so với thực tế. Trong khi nền kinh tế còn chậm pháttriển, nhu
cầu ăn uống thường chiếm từ 80 - 90% thu nhập của dân nghèo, các nhu cầukhác
còn ở mức hạn chế, hơn nữa giá cả sinh hoạt ở các vùng, miền cũng rất khác nhau,
dođó nếu xác định như vậy Việt Nam rất khó khăn trong việc tìm giải pháp để xoá
đói giảm nghèo hiện nay.
1.2.3

Quan niệm về đói nghèo ở Việt Nam

Ở nước ta căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của nhân dân
trong nhũng năm qua thì khái niệm đói nghèo được xác định như sau:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả mãn

những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn
mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng

quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể
của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội
cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.
Khái niệm về hộ đói:YỈỘ đói là một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối

thiểu không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống hay nói cách khác
đó là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa, thường xuyên phải vay nợ và
thiếu khả năng trả nợ.
Khái niệm về hộ nghèo:HỘ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thoả

mãn một phần nhu cầu tối thiếu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống
trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
1.2.4

Tiêu chí xác định đói nghèo ở Việt Nam
Ngoài cách xác định theo mức hưởng thụ calo do bữa ăn mang lại hàng ngày

qui đổi ra thu nhập của Ngân hàng thế giới thì các nhà nghiên cứu và các cơ quan


quản lí nhà nước có liên hoan đã nêu ra các mức xác định chuấn mực đói nghèo khác
nhau, điển hình là cách xác định của Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội.
Năm 1993 theo Tổng cục Thống kê lấy mức tiêu dùng là 2100 calo nếu quy
đối tương đương với lượng tiêu dùng lương thực, thực phẩm theo giá phù họp với
từng thời điểm, từng địa phương thì người dân Việt Nam phải có mức thu nhập bình
quân tối thiểu là 50000 đồng/người/tháng ở vùng nông thôn và 70000 đồng đối với
khu vực thành thị, để làm ranh giới xác định giữa người giàu và người nghèo.
Theo cách tính này thì mức thu nhập bình quân đầu người ở các hộ khu vực nông
thôn như sau:

Loại hộ nghèo: có mức thu nhập bình quân dưới 50000/người/tháng. Hộ đói

dưới 30000/người/tháng.
Loại hộ dưới trung bình: có thu nhập bình quân từ 50000- 70000/người/tháng.
Loại hộ trung bình: có mức thu nhập bình quân đầu người từ 70000-

125000/người/tháng.
Loại hộ trên trung bình: có mức thu nhập bình quân từ 125000-

250000/người/tháng.
Loại hộ giàu: có thu nhập từ 250000/người/tháng trở lên.


Sau 1 thời gian căn cứ vào trình độ phát triên của nên kinh kê thì tại thông
báo số 1751/LĐ-TB&XH ngày 20/5/1997 thì chuẩn mực về đói nghèo được quy
định lại là:
Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân theo đầu người dưới 13kg

gạo/người/tháng ở khu vực nông thôn, miền núi, 20kg gạo/người/tháng đối với khu
vực nông thôn đồng bằng và trung du, 25kg gạo/người/tháng đối với khu vực thành
thị.
Theo tiêu chuấn này tính đến năm 2000, cả nước có khoảng 4 triệu hộ nghèo,
chiếm tỷ lệ từ 24-25% tống số hộ trong cả nước. Trong đó 4 vùng có tỷ lệ đói nghèo
trên 30%. Ước tính tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng như sau:
Vùng

Số hộ nghèo (1000 hộ)

Tỷ lệ hộ nghèo (%)


Miền núi phía Bắc

923,3

34,1

Đồng bằng sông Hồng

482,1

14

Bắc trung bộ

833,8

38,6

Duyên hải miền Trung

555,7

31,9

Tây Nguyên

257,5

36,1


Đông Nam Bộ

261,4

12,8

686,2

20,3

Đông băng sông Cửu Long

Nguồn: Phân bố số hộ nghèo đói qua các vùng năm 2000 [3, tr.12].


Đặc biệt, tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xã miền núi, vùng sâu và vùng xa tỷ lệ này
còn cao hơn mức trung bình của các nước: Bắc Trung Bộ 38,6%; Tây Nguyên
36,1%; Miền núi phía Bắc 34,1%; Duyên Hải miền Trung 32,9%.
Chuẩn mực đói nghèo là một khái niệm động, phụ thuộc vào phương pháp
tiếp cận điều kiện kinh tế và thời gian quy định.
Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam năm 2002, theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là
12,9%, còn theo chuấn của Liên Hiệp Quốc là 29% trong đó tỷ lệ hộ đói là
10,87%.Dựa theo chỉ số nghèo tổng hợp (tiếng Anh: Human Poverty ĩndex- HPĨ),
Việt Nam xếp hạng 41 trên 95 nước năm 2004"Theo báo cáo của Oversea
Development Institute, Việt Nam là nước đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực
xóa đói giảm nghèo.
Theo nghị quyết của thủ tướng chính phủ Việt Nam 170/2005/QĐ-TTg ký
ngày 08/07/2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010:
Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000


đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000

đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Tính theo ngoại kim thì chuẩn nghèo của Việt Nam là 15 Mỹ kim/tháng cho mỗi gia
đình [23, tr.22].
Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có khoảng
2 triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số.Tuy nhiên, các kì họp Quốc hội Việt Nam, rất
nhiều đại biểu cho rằng tỷ lệ hộ nghèo giảm không phản ánh thực chất vì số người
nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng do tác động của lạm phát (khoảng
40% kể từ khi ban hành chuẩn nghèo đến nay) và do là suy giảm kinh tế. Theo chuấn
trên, nhiều hộ nghèo thoát nghèo nhưng vẫn không đủ sống và do đời sống khó khăn
nên rất nhiều người muốn còn được thuộc diện nghèo mãi để còn nhận các khoản hỗ
trợ như như vay vốn ưu


đãi, bảo hiểm y tế......
Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho rằng không thể duy trì chuấn nghèo
200.000-260.000 đồng như hiện nay mà cần rà sát và ban hành chuẩn nghèo mới cho
năm 2011 [32, tr.24]. Ngày 30 tháng 01 năm 2011, Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg
ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015:
Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng
đến 520.000 đồng/người/tháng.
Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng
đến 650.000 đồng/người/tháng.
Kết quả rà soát nghèo mới nhất (năm 2013), tỷ lệ hộ nghèo năm 2013 là 7,8%

(giảm 1,8% so với cuối năm 2012), tỷ lệ hộ cận nghèo 6,32% (giảm 0,25% so với
cuối năm 2012) [31, tr. 21].
1.3 Quan niệm về xóa đói, giám nghèo ở Việt Nam

Nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ mà Đảng ta hết sức coi trọng vì
nó không chỉ là vấn đề mang tính cấp bách về kinh tế mà còn mang tính xã hội,
chính trị sâu sắc. Muốn xóa đói, giảm nghèo thì phải ổn định về chính trị vì có ổn
định về chính trị thì mới có điều kiện phát triển kinh tế, mới xóa đói và giảm được
nghèo. Đảng ta xác định xóa đói, giảm nghèo một cách toàn diện trên trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội từ chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế... Ngay từ khi mới thành
lập nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nhà nước ta đã rất quan tâm đến xóa đói,
giảm nghèo. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Bác Hồ chỉ đạo đó là chống
giặc đói. Xóa đói, giảm nghèo trở thành một chính sách trong hệ thống chính sách xã
hội của nước ta lần đầu tiên vào năm 1998. Trong các văn kiện của Đảng, vấn đề xóa


đói, giảm nghèo được đề cập nhiều lần. Đảng khẳng định “khuyến khích làm giàu
hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi đôi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp
dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng căn cứ cách
mạng và kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi người,
mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành và chữa bệnh, từng bước thực hiện điều Chủ tịch Hồ
Chí Minh hằng mong ước” [7, tr.31 ].
Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) đã đề ra chủ trương xóa đói giảm
nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân cũng như
trong chiến lược phát triến chung của xã hội và đã trở thành một chủ trương chiến
lược, nhất quán, liên tục được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội của Đảng.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng đặcbiệt
của công tác xóa đói giảm nghèo. Chính thức xác định xóa đói, giảm nghèo là một
trong những chương trình quốc gia.Từ đó, đề ra Chương trình quốc gia về xóa đói

giảm nghèo trong 5 năm 1996 - 2000 cùng với 10 Chương trình kinh tế-xã hội khác.
Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998, Chính phủ chính thức phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo (Chương trình 133)
cho giai đoạn 1998-2000. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục bổ sung
Chương trình 135 -Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu các xã miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mục tiêu chính của Chương trình
này là hỗ trợ xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như: hệ thống điện, đường giao thông,
trường học, trạm y tế....tại 1715 xã nghèo nói trên. Ket quả là đến năm 2000 tỷ lệ
nghèo của cả nước còn 10% theo chuẩn cũ. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy,
không thể chỉ theo đuổi mục tiêu giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo mà cần giữ vững kết
quả giảm nghèo đã đạt được, tăng khả năng bền vững, hiệu quả của công tác giảm
nghèo, đặc biệt trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy, quan điểm giảm
nghèo bền vững đã được đề cập và thể hiện trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng


là: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo. Quan tâm xây
dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng cấp, cải tạo các
tuyến trục giao thông nối vùng nghèo, xã nghèo với nơi khác, tạo điều kiện thuận lợi
cho vùng nghèo, vùng khó khăn phát triển. Đi đôi với việc xây dựng kết cấu hạ tầng,
phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết đế dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo
đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng nhanh thu nhập...Nâng dần mức sống
của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo” [5,tr.299].
Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu nâng cao các phúc
lợi xã hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người nghèo, vùng nghèo, các đối
tượng chính sách....Nhà nước tăng đầu tư từ ngân sách tiếp tục phát triển cơ sở vật
chất - kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung cho toàn xã hội và bảo đảm cung ứng các
dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng nghèo,
các đối tượng chính sách...và dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp đến đời sống
nhân dân và là yếu tố quan trọng góp phần ồn định xã hội” [9, tr.99].

Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Thực hiện có
hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa nguồn
lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo
nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng
nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có các chính sách và giải pháp phù
hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn
và thành thị” [10, tr. 103].
Đe cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu cần đạt
được trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020: Giảm nghèo bền vững là một trong những
trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011
- 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước
hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh


mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và
nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt được: Thu
nhập của hộ nghèo tăng lên 3,5 lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các
huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm theo chuấn nghèo từng giai đoạn; Điều kiện
sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là vấn đề y tế, giáo dục, văn
hóa, nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn các dịch
vụ xã hội cơ bản; Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện nghèo; xã nghèo, thôn,
bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới,
trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao thông, điện, nước sinh hoạt.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, trong giai đoạn 2011 - 2015 sẽ tiếp tục
thực hiện những chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo đã và đang thực hiện:
Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, thực hiện Chương trình 135 giai
đoạn 3, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30a của chính phủ và các chương trình phát
triến kinh tế xã hội khác. Nguồn lực đề thực hiện công tác giảm nghèo sẽ được huy
động tối đa, không chỉ bằng Ngân sách Nhà nước mà còn huy động được sự tham
gia với tinh thần trách nhiệm cao của các tập đoàn kinh tế, các Tồng Công ty nhà

nước, Ngân hàng thương mại...và đặc biệt là từ chính bản thân người nghèo. Phối
họp nhiều phương thức hỗ trợ người nghèo như hỗ trợ người nghèo trong vay vốn tín
dụng ưu đãi, hỗ trợ về nhà ở, hỗ trợ về cung cấp và tạo điều kiện duy trì với các loại
dịch vụ, hỗ trợ giao đất, giao rừng; về đào tạo nguồn nhân lực...Đồng thời khắc phục
những hạn chế như: Các chương trình giảm nghèo triến khai chưa toàn diện, nhiều
chính sách, chương trình giảm nghèo được ban hành nhưng còn mang tình ngắn hạn,
chồng chéo, nguồn lực cho giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu, lại bị phân tán, dàn
trải, thiếu giải pháp cụ thể gắn kết việc thực hiện chính sách giảm nghèo với chính
sách an sinh xã hội, việc phối hợp chỉ đạo thực hiện giữa các bộ, ngành, địa phương
chưa chặt chẽ, hiệu quả... [5, tr.59]


Với những giải pháp đồng bộ như vậy, sẽ đảm bảo tính khả thi trong việc thực
hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn
2011-2015.
1.4 Vận dụng quan điểm toàn diện vào xoá đói, giảm nghèo ở Ninh Bình

Xóa đói, giảm nghèo là một mục tiêu tất yếu của quá trình tiến lên Chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Chính vì vậy xóa đói, giảm nghèo trở thành một trong những vấn đề cần được
quan tâm đặc biệt nhất là sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền từ trung
ương đến địa phương phải coi trách nhiệm của toàn xã hội, Nhà nước và người dân
đều phải chia sẻ trách nhiệm để thực hiện, cái gì dân làm được thì tạo điều kiện để
dân làm. Xóa đói, giảm nghèo phải toàn diện để nhằm tiến đến xóa bỏ hoàn toàn
toàn đói nghèo. Vận dụng quan điểm toàn diện vào xóa đói, giảm nghèo hiện nay ở
tỉnh Ninh Bình là phải kết hợp tất cả các mặt của đời sốngxã hội, quan tâm đến đời
sống không chỉ vật chất mà cả tinh thần của người nghèo. Xóa đói, giảm nghèo bằng
các biện pháp phải kết hợp đồng bộ từ chính trị, kinh tế, giáo dục đào tạo, y tế, công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tuyên truyền, kiểm tra, giám sát công tác xóa đói,
giảm nghèo.... Với quan điểm đó trong những năm tới cần tập trung những nhiệm vụ

và giải pháp chủ yếu sau:
Một là, về cơ chế, chính sách hô trợ người nghèo
Cần tích cực chỉ đạo triển khai và thường xuyên đôn đốc, kiểm tra đánh giá
việc thực hiện các chính sách hỗ trợ tạo điều kiện cho hộ nghèo phát triển sản xuất
tăng thu nhập. Trong đó đặc biệt chú trọng tăng cường hoạt động tạo vốn và khoản
vay un đãi đối với người nghèo, gắn kết tốt với việc cho vay vốn, cung ứng đủ vốn
cho người nghèo. Tỉnh cũng cần có chính sách hỗ trợ giống, khoa học cho người
nghèo, hỗ trợ để cải thiện nhà ở, đất ở, hỗ trợ để khắc phục hậu quả do ảnh hưởng
của thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh; nhân rộng các mô hình xóa đói, giảm nghèo có
hiệu quả,... nhằm hạn chế tái nghèo, phát sinh nghèo.


Hai là, về kinh tế
Nên tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã
hội như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; đưa giống mới, ứng
dụng khoa học kỹ thuật, tạo mở nhiều ngành nghề trong khu vực nông nghiệp, nông
thôn để tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập trên một đơn vị canh tác và trên một
đồng vốn.Khai thác và phát huy các lợi thế của tỉnh về phát triển các ngành dịch
vụdu lịch tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động nói chung và
người nghèo nói riêng, từ đó tạo tiềm lực kinh tế và sức mạnh vật chất để thực hiện
công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Ba là, về giáo dục và đào tạo
Chăm sóc sức khỏe phúc lợi xã hội cho người nghèo phải tạo điều kiện để
người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội về y tế, giáo dục và trợ giúp pháp lý trên cả
2 phương diện: đầu tư nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ và thực hiện đầy đủ
các chính sách hỗ trợ theo quy định.
Đối với y tế: Chú trọng chuẩn hoá để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh
của tuyến y tế cơ sở, quan tâm xây dựng công trình phụ trợ cho các trạm y tế.
Đối với giáo dục: Chỉ đạo thực hiện đồng bộ các chính sách, tuyên truyền để
người nghèo nâng cao nhận thức về đầu tư cho giáo dục.

Bốn là, tỉnh cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực

cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo. Tố chức tích cực hơn hoạt động truyền
thông, giám sát, đánh giá về thực trạng nghèo đói và việc thực hiện các chính sách,
chương trình, dự án về xóa đói, giảm nghèo. Đối mới nội dung, biện pháp để tuyên
truyền, giáo dục phù hợp với trình độ, hiểu biết của nhân dân. Thường xuyên kiếm
tra, đánh giá và hướng dẫn thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo.
Với những giải pháp chỉ đạo trên, cùng quyết tâm của các cấp, các ngành; sự
nỗ lực cố gắng của bản thân người nghèo; sự chung tay, chung sức của toàn xã hội,...
tin tưởng rằng công cuộc xóa đói, giảm nghèo của tỉnh sẽ thành công trong những
năm tiếp theo.
Chương 2
THỰC TRẠNG XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN


TỈNH NINH BÌNH
2.1 Khái quát về địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình

2.1.1

Vị trí đia lý và điều kiện tự nhiên
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc và khu vực đồng

bằng Bắc Bộ, Việt Nam. Vùng đất này từng là kinh đô của Việt Nam ở thế kỷ X, là
địa bàn quan trọng về quân sự qua các thời kỳ Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Tây Sơn.
Với vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình và lịch sử văn hóa, Ninh Bình là tỉnh có
tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng[12]. Ninh Bình được ví như một Việt Nam
thu nhỏ[23].
Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thố sông
Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh này cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội, vùng

duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. Phía bắc giáp với Hòa Bình, Hà
Nam, phía đông giáp Nam Định qua sông Đáy, phía tây giáp Thanh Hóa, phía đông
nam giáp biển (vịnh Bắc Bộ). Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà
Nội 93 km về phía nam. Tổng diện tích tự nhiên là 1.400 km 2.Trong đó, đất nông
nghiệp chiếm 60,963,9 h (đất lâm nghiệp 29,336 ha...); đất phi nông nghiệp 33,041,4
ha; đất chưa sử dụng 9,687,2 ha.
Tài nguyên khoáng sản ở Ninh Bình có nhiều loại nhưng đáng kế nhất là đá
vôi. Trên địa bàn tỉnh có trên 20000 ha diện tích núi đá vôi với trữ lượng tới hàng
chục tỉ m3, hàng chục triệu tấn đôlômit chất lượng tốt làm nguyên liệu sản xuất vật
liệu xây dựng, đặc biệt là xi măng và một số hoá chất. Ngoài ra, còn có một hàm
lượng đất sét lớn phân bố rải rác ở các vùng đồi núi thấp thuộc thị xã Tam Điệp,
huyện Gia Viễn, huyện Yên Mô dùng để sản xuất gạch ngói, làm nguyên liệu cho
sản xuất gạch ngói và làm nguyên liệu cho sản xuất xi măng, nguồn phân bùn dự trữ
khoảng 2 triệu tấn phân bố ở các xã huyện Nho Quan dùng để sản xuất phân vi sinh
phục vụ phát triển nông nghiệp sinh thái.


×