Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Phát triển hoạt động thu xếp vốn tại Tổng công ty tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.42 KB, 45 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
Lời mở đầu
Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều bước phát triển to lớn,
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được diễn ra mạnh mẽ. Kể từ khi Việt Nam chính
thức gia nhập WTO vào tháng 7/2007 đã đặt ra nhiều thuận lợi cũng như những thách
thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Đảng ta với quan điểm phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, định hướng
cho các thành phần kinh tế khác phát triển, vì vậy Đảng và Nhà nước đã cho phép
thành lập các Tổng công ty 90, 91; khuyến khích các Tổng công ty này tự chủ hơn
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ để có thể trở thành các Tập đoàn kinh tế mạnh, đảm
bảo gánh vác trách nhiệm năng nề trong tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước.
Ở nước ta đã xuất hiện nhiều mô hình các Tổng công ty/ Tập đoàn kinh tế
thành lập công ty tài chính cho riêng mình. Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu vốn
của các đơn vị này rất lớn mà chủ yếu là vốn trung và dài hạn để thực hiện các dự án
lớn, hiện đại hóa tài sản cố định phục vụ tốt cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, các
công ty tài chính ra đời có nhiệm vụ điều hòa vốn, đáp ứng đầy đủ vốn cho các dự án
của Tổng công ty / Tập đoàn kinh tế và các đơn vị thành viên. 1 số ví dụ như Công ty
tài chính cổ phần Hóa chất thuộc Tập đoàn hóa chất Việt Nam, Công ty tài chính Cổ
phần Điện lực thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam… Tổng Công ty tài chính Cổ phần
Dầu khí Việt Nam (PVFC) là một đại diện tiêu biểu, một tổ chức tài chính phi ngân
hàng có quy mô lớn và sự hoạt động hiệu quả, với nhiều sản phẩm, dịch vụ tài chính
đa dạng, trong đó mũi nhọn là hoạt động thu xếp vốn, đã góp phần tích cực đối với sự
lớn mạnh của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.
Trong quá trình thực tập nghiên cứu tại Tổng công ty tài chính Cổ phần Dầu
khí Việt Nam (PVFC), em xin mạnh dạn lựa chọn đề tài: “ Phát triển hoạt động thu
xếp vốn tại Tổng công ty tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam”
Bố cục của chuyên đề như sau:
Chương I : Lý luận cơ bản về hoạt động thu xếp vốn của Công ty tài
chính
Chương II : Thực trạng hoạt động thu xếp vốn tại Tổng công ty tài


chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam (PVFC)
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động thu xếp vốn tại Tổng công
ty tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam
Em xin chân thành cảm ơn tới thầy giáo – TS. Phan Hữu Nghị đã hết sức tận
tình hướng dẫn giúp đỡ em trong quá trình thực hiện chuyên đề này, tới các anh chị
tại Tổng công ty tài chính Cổ phần Dầu khí Việt Nam đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
trong thời gian em thực tập tại đây.
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
Chương 1
Lý luận cơ bản về hoạt động thu xếp vốn của công ty tài chính
trực thuộc Tập đoàn kinh tế
1.1 Những vấn đề chung về Công ty tài chính
1.1.1 Khái niệm và phân loại Công ty tài chính
1.1.1.1 Khái niệm
Trên thị trường tài chính, có 2 kênh dẫn vốn từ người có tiền nhưng không có
nhu cầu đầu tư đến những người cần tiền cho việc đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc mua sắm hàng hoá, đó là kênh dẫn vốn trực tiếp tức là người đi vay vay
vốn trực tiếp từ người cho vay, và kênh dẫn vốn gián tiếp tức người đi vay thông qua
các trung gian tài chính để vay vốn từ người cho vay.
Khi một nền kinh tế muốn phát triển hơn nữa, bắt buộc phải có thêm nhiều
vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng, máy móc trang thiết bị kỹ thuật cho đầu tư sản xuất,
đây là một nhân tố cơ bản dẫn đến sự gia tăng và phát triển hoạt động của các trung
gian tài chính - vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và
hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp
phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay: Đối với
người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi dưới hình thức lãi tiền
gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa còn đảm bảo sự an toàn về khoản tiền gửi và

cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi. Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được
nhu cầu vốn kinh doanh tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà
không chi phí nhiều về sức lực thời gian cho việc tìm kiếm những nơi cung ứng vốn
riêng lẻ. Đặc biệt là đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái
sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất. Có thể khẳng định
không có trung gian tài chính thì thị trường tài chính không thể có được lợi ích trọn
vẹn do trung gian tài chính nắm bắt được những chi phí thông tin và chi phí giao dịch
lớn trong nền kinh tế, vì vậy các trung gian tài chính có vai trò rất quan trọng trong
phát triển nền kinh tế.
Một trong những trung gian tài chính lớn nhất và quan trọng nhất của nền kinh
tế là ngân hàng, tuy nhiên vẫn có một số những quy định giới hạn và rào cản nhất
định cho nên trong một số trường hợp, ngân hàng không thể đáp ứng được hết những
nhu cầu về vốn của các cá nhân, tổ chức. Vì vậy các trung gian tài chính khác đã ra
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
đời, trong đó có công ty tài chính, chuyên môn hoá trong một số lĩnh vực hoạt động
và khắc phục những hạn chế của ngân hàng.
Công ty tài chính là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, có những hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là:
- Huy động vốn từ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các
loại giấy tờ có giá khác; nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá
nhân; tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài
nước.
- Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, cho vay theo hình thức uỷ thác của
Chính Phủ, cá nhân và tổ chức; cho vay tiêu dùng...
- Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác
- Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác
- Thực hiện nghiệp vụ cho thuê và thuê mua tài chính
- Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng

- Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư
- Nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá
nhân theo hợp đồng.
Một số điểm khác biệt giữa công ty tài chính và ngân hàng:
- Sự khác nhau về bản chất và phạm vi hoạt động:
Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, với chức năng là
sử dụng vốn tự có vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng
các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy
định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền
gửi dưới một năm.
Trong khi đó, ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan, cụ thể là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền
gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
- Mức vốn pháp định: thường thì các ngân hàng có mức vốn pháp định cao
hơn nhiều so với các công ty tài chính. Ở Việt Nam, theo nghị định 141/2006/NĐ-CP
thì đến năm 2010, vốn pháp địng của một công ty tài chính là 500 tỷ, còn của các loại
hình ngân hàng thì đều không thấp hơn 3000 tỷ.
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
- Thời hạn hoạt động: Thời hạn hoạt động của công ty tài chính tối đa là 50
năm. Trường hợp cần gia hạn thời hạn hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam chấp thuận, nhưng mỗi lần gia hạn không quá 50 năm. Trong khi đó, thời
hạn hoạt động của các ngân hàng không bị pháp luật khống chế.
- Cơ hội cạnh tranh và lợi ích mang lại:
Xét ở khía cạnh nào đó, các công ty tài chính sẽ chịu áp lực cạnh tranh ở mức
độ thấp hơn so với ngân hàng. Theo cam kết WTO, chỉ có ngân hàng thương mại
nước ngoài và công ty tài chính nước ngoài mới được thành lập công ty tài chính liên
doanh và công ty tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức tín dụng nước

ngoài chỉ được thành lập công ty tài chính liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước
ngoài nhưng phải có tổng tài sản trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp
đơn.
Trong khi ngân hàng hoạt động rộng và huy động vốn chủ yếu từ công chúng
thì công ty tài chính huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm công ty. Vì
thế, rủi ro xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập đoàn hay
nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng. Khi các quan hệ kinh tế
trong tập đoàn là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì khả năng xảy ra rủi ro là
không lớn.
- Sự điều chỉnh của Chính Phủ: Các công ty tài chính hầu như không phải chịu
sự điều hành chặt chẽ của Chính Phủ, Chính Phủ chỉ điều hành hạn mức tín dụng của
các công ty tài chính cho các cá nhân vay và kỳ hạn hợp đồng nợ, ngoài ra không có
bất kỳ hạn chế về mở chi nhánh, về tài sản có mà các công ty tài chính nắm giữ cũng
như sự thu hút vốn của các công ty tài chính. Điều này đã giúp cho các công ty tài
chính đáp ứng tốt các nhu cầu của khách hàng.
Có thể thấy lợi ích mà công ty tài chính mang lại cho các doanh nghiệp là rất
lớn. Không phải ngẫu nhiên mà trên thế giới, các tập đoàn lớn thường có ít nhất một
công ty tài chính. Công ty tài chính là công cụ để tập đoàn điều tiết vốn và sử dụng
vốn một cách có hiệu quả và thuận lợi nhất. Trong phạm vi nội bộ tập đoàn hoặc
nhóm công ty có quan hệ lợi ích gắn bó, công ty tài chính có thể dễ dàng huy động
các nguồn vốn nhàn rỗi từ các công ty thành viên để tập trung vốn đầu tư. Với tính
nội bộ cao trong hoạt động nghiệp vụ công ty tài chính có thể kiểm soát rủi ro và tập
trung vốn lớn cho các dự án quan trọng trong nội bộ tập đoàn.
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
1.1.1.2 Phân loại công ty tài chính
Đi đôi với sự phát triển của thị trường tài chính, các công ty tài chính cũng
phát triển đa dạng về loại hình với các chức năng chuyên biệt, phù hợp với nhu cầu
và sự phát triển của nền kinh tế.
- Phân loại căn cứ vào tính độc lập:

+ Công ty tài chính độc lập: là một thực thể độc lập, tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh của mình
+ Công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn kinh tế: là một đơn vị của Tập đoàn
kinh tế, được thành lập với tư cách là trung tâm tài chính, với chức năng điều hoà vốn
cho Tập đoàn kinh tế, là công cụ để Tập đoàn kinh tế điều hoà, chi phối và điều chỉnh
được hoạt động của các công ty thành viên, tạo mối liên kết chặt chẽ về tài chính cho
toàn bộ Tập đoàn. Đồng thời, công ty tài chính còn có một nhiệm vụ quan trọng và
xuyên suốt là huy động và tìm kiếm các nguồn vốn để tài trợ cho các dự án và hoạt
động sản xuất kinh doanh của các công ty thành viên cũng như của Tập đoàn kinh tế.
- Phân loại căn cứ vào hình thức sở hữu:
+ Công ty tài chính Nhà nước: là công ty tài chính được thành lập do nhà nước
đầu tư vốn và tổ chức hoạt động kinh doanh.
+ Công ty tài chính thuộc tổ chức tín dụng: là công ty tài chính được thành lập
từ nguồn vốn tự có của một tổ chức tín dụng, có tư cách pháp nhân và thực hiện hạch
toán độc lập.
+ Công ty tài chính cổ phần: được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần,
trong đó các cá nhân và tổ chức cùng nhau góp vốn theo quy định của pháp luật.
+ Công ty tài chính liên doanh: được thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt
Nam bao gồm một hay nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam với bên nước
ngoài bao gồm một hay nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nước ngoài trên cơ sở
hợp đồng liên doanh được kí kết.
+ Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài: được thành lập bằng vốn góp của
một hay nhiều tổ chức tín dungj nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Phân loại căn cứ vào đối tượng khách hàng
+ Công ty tài chính bán hàng: nghiệp vụ chủ yếu của công ty tài chính bán
hàng là thực hiện món vay cho những người tiêu dùng để mua những món hàng từ
một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuất riêng. Các công ty tài chính này trực tiếp cạnh
tranh với các ngân hàng về cho vay tiêu dùng và được người tiêu dùng sử dụng bởi vì
các món vay thường được thực hiện nhanh hơn và tiện lợi hơn tại nơi mua hàng.
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
+ Công ty tài chính người tiêu dùng: thực hiện những món vay cho những
người tiêu dùng để mua những món hàng riêng. Các công ty tài chính người tiêu
dùng là các công ty riêng biệt hoặc do các ngân hàng sở hữu. Nói chung, các công ty
này cho những người tiêu dùng nào vay mà không có tín dụng từ những nguồn khác
và thu các lãi suất cao hơn.
+ Các công ty tài chính kinh doanh: cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt cho
các doanh nghiệp bằng cách mua những khoản tiền sẽ thu có chiết khấu ( bao thanh
toán ), ngoài ra các công ty tài chính này còn chuyên môn hoá trong việc thuê thiết bị
là những thứ họ mua và sau đó cho các nhà kinh doanh thuê một số năm.
1.1.2 Vai trò của công ty tài chính
Các công ty tài chính từ khi ra đời đã tỏ rõ ưu điểm của nó và ngày càng
khẳng định vị trí quan trọng trong hệ thống tài chính. Công ty tài chính góp phần đem
lại lợi ích trọn vẹn và đầy đủ cho cả những người thừa vốn, những người cần vốn và
cho nền kinh tế.
- Công ty tài chính góp phần mang lại lợi ích trọn vẹn cho thị trường tài chính
do hoạt động của nó giúp giảm bớt những chi phí thông tin và chi phí giao dịch cho
nền kinh tế. Để những người cho vay nhận ra được những người muốn vay và để
những người muốn đi vay nhận ra được những người muốn cho vay là một điều khó
khăn và đòi hỏi chi phí đắt tiền. Đồng thời ngoài những chi phí thông tin, quá trình
thực tế cho vay cũng cần đến các chi phí giao dịch... Vì thế, các công ty tài chính với
tính chuyên môn hoá và tinh thông trong nghề nghiệp, sẵn sàng đưa ra những dịch vụ
tài chính tiện lợi với giá rẻ, góp phần đáp ứng đầy đủ, chính xác và kịp thời yêu cầu
giữa người cần vốn và người có vốn, góp phần thúc đẩy quá trình lưu thông tiền tệ
trong nền kinh tế.
- Thị trường tài chính phát triển khiến cho sự cạnh tranh giữa các định chế tài
chính ngày càng gay gắt, vì thế để tồn tại, bản thân các định chế tài chính trong đó có
công ty tài chính phải đa dạng hoá, nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ tài
chính; thường xuyên thay đổi lãi suất một cách thích hợp làm cho nguồn vốn được tài
trợ cho đầu tư tăng lên mức cao nhất.

Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
1.1.3 Hoạt động cơ bản của Công ty tài chính
1.1.3.1 Hoạt động tín dụng
Tín dụng là hoạt động truyền thống của các Tổ chức tín dụng nói chung và các
công ty tài chính nói riêng. Lợi nhuận được tạo ra từ hoạt động này chiếm tỷ trọng
khá lớn trong tổng lợi nhuận của Công ty tài chính. Hoạt động tín dụng được các
Công ty tài chính cung cấp dưới các hình thức:
- Cho vay: Là việc Công ty tài chính cho khách hàng mượn tiền với cam kết
khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định như đã thoả
thuận trong Hợp đồng cho vay. Do đặc điểm của nguồn huy động vốn của Công ty tài
chính như đã nói ở trên nên lãi suất cho vay của các Công ty tài chính thường cao hơn
lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại, vì vậy việc tìm kiếm các hợp đồng
cho vay của các Công ty tài chính là tương đối khó khăn. Công ty tài chính có thể cho
vay với các hình thức:
+ Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
+ Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
+ Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp
+ Cho vay dự án đầu tư.
- Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá: là hình thức cấp tín dụng theo đó
các công ty tài chính nhận các giấy tờ có giá và trao cho khách hàng một số tiền bằng
mệnh giá của chứng từ nhận chiết khấu trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà công ty
tài chính được hưởng.
- Bảo lãnh: là nghĩa vụ của công ty tài chính sẽ thanh toán cho bên thụ hưởng
của hợp đồng một khoản đền bù trong phạm vi của số tiền được nêu rõ trong giấy bảo
lãnh nếu bên đối tác không thực hiện hoặc thực hiện không đủ nghĩa vụ của mình
như đã nêu trong hợp đồng.Bảo lãnh giúp giảm thiểu rủi ro cho khách hàng, đồng
thời khách hàng không phải thanh toán ngay cho bên đối tác do đã có bảo lãnh của
công ty tài chính do đó có cơ hội trì hoãn trong việc thanh toán và làm tăng tài sản
lưu thông hiện có.

- Cho thuê: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc công ty tài
chính cho thuê máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên
cơ sở hợp đồng cho thuê giữa công ty tài chính và khách hàng. Bên cho thuê là các
công ty tài chính cam kết mua các máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển... theo
yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với tài sản thuê trong suốt quá trình
cho thuê. Bên thuê được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng thuê trước thời hạn.
Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục
thuê lại các tài sản đó theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận.
1.1.3.2 Hoạt động huy động vốn
Theo luật các tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành, các công ty
tài chính huy động vốn thông qua các hính thức sau:
- Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên của các cá nhân, tổ chức trong và
ngoài nước.
- Phát hành trái phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá
khác.
- Vay vốn từ các tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính trong nước, ngoài nước và
các tổ chức tài chính quốc tế.
- Nhận nguồn vốn uỷ thác từ Tổng công ty hoặc Tập đoàn kinh tế mà công ty
tài chính trực thuộc, từ các tổ chức tín dụng, Chính phủ, cá nhân hay tổ chức kinh tế
trong và ngoài nước...
Các công ty tài chính không được huy động vốn bằng cách vay vốn từ cửa sổ
chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước giống như các Ngân hàng thương mại; bù lại,
các công ty tài chính không phải duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà chỉ phải duy trì
các tỷ lệ đảm bảo an toàn nhất định ( tỷ lệ đảm bảo về vốn tự có, tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu, giới hạn tín dụng đối với khách hàng, tỷ lệ về khả năng chi trả, tỷ lệ tối đa của
vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn, giới hạn góp vốn, mua cổ
phần ) và các quỹ dự phòng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Ở Việt Nam,

Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định số 457/ 2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng
4 năm 2005 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn của các tổ chức tín dụng.
Các công ty tài chính thường đưa ra lãi suất huy động cao hơn so với các ngân
hàng thương mại do các khoản mà công ty tài chính huy động thường là vay trung và
dài hạn, có độ rủi ro cao vì thế chi phí huy động vốn cao.
1.1.3.3 Hoạt động đầu tư
Hoạt động đầu tư của công ty tài chính có 2 mảng lớn:
- Đầu tư vốn vào các dự án, doanh nghiệp: các công ty tài chính với nguồn
vốn tự có của mình, vốn uỷ thác của Tổng công ty/ Tập đoàn kinh tế, Chính phủ, các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư vốn vào các dự án; Hợp đồng hợp tác
kinh doanh; thành lập công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty TNHH; hoặc đầu
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
tư trực tiếp vào các doanh nghiệp thông qua việc mua cổ phần hoặc góp vốn liên
doanh.
- Đầu tư vào chứng khoán, kỳ hạn chứng từ có giá và các giấy tờ có giá khác:
đây cũng là một kênh kiếm lợi nhuận cho các tổ chức tài chính nói chung và công ty
tài chính nói riêng bởi chứng khoán là một phương tiện đầu tư có tính linh hoạt và an
toàn cao, giúp cho nhà đầu tư cơ cấu nguồn vốn của mình hiệu quả thông qua cơ cấu
nguồn thu nhập cố định, bên cạnh đó giúp tăng hiệu quả vòng quay vốn khi lãi suất
trên thị trường biến đổi theo chiều hướng có lợi và khi công ty tài chính có ưu thế và
kinh nghiệm hoạt động trên thị trường tài chính. Danh mục đầu tư của công ty tài
chính thường là trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, hoặc cổ phiếu của các công
ty tiềm năng bởi đấy đều là những chứng khoán có độ an toàn cao.
- Uỷ thác đầu tư: đây là hình thức đầu tư gián tiếp, theo đó các công ty tài
chính đại diện cho khách hàng đầu tư tài chính vào các cơ hội đầu tư tốt như: cổ phần
của các công ty cổ phần thực hiện IPO, các công ty cổ phần hoặc góp vốn vào các dự
án do khách hàng chỉ định hoặc do công ty tài chính cung cấp.
1.1.3.4 Các hoạt động khác
Ngoài các hoạt động cho vay, huy động vốn, đầu tư, thì công ty tài chính

còn thực hiện một số hoạt động khác như: tư vấn và thu xếp vốn, tư vấn cổ phần hoá,
kinh doanh ngoại hối, vàng; định giá công ty, lập phương án tài chính cho dự án,
nhận uỷ thác vốn, nhận uỷ thác bao thanh toán... Những dịch vụ này đã giúp cho công
ty tài chính thực hiện các hoạt động tương tự như một ngân hàng, trong đó có hoạt
động thu xếp vốn là một loại hình dịch vụ tài chính mới mẻ nhưng có ý nghĩa quan
trọng nhất là đối với các công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn kinh tế.
1.1.4 Đặc trưng của các công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn kinh tế
Ngày nay, nhiều Tập đoàn kinh tế lớn ở nước ta cũng như trên thế giới đều
thành lập công ty tài chính để phục vụ cho hoạt động của Tập đoàn, và không thể phủ
nhận những lợi ích mà công ty tài chính mang lại cho Tập đoàn kinh tế. Có thể hiểu
về công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn kinh tế nhu sau:
- Về bản chất: trong mô hình của Tổng công ty, sự ra đời của công ty tài chính
là dấu hiệu để phân biệt Tổng công ty hoạt động theo mô hình Tập đoàn kinh doanh
với mô hình Tổng công ty kiểu cũ.
- Về tư cách pháp nhân: các công ty tài chính chịu sự quản lý của Tập đoàn
kinh tế về chiến lược phát triển, tổ chức hoạt động và nhân sự; chịu sự quản lý của
Ngân hàng Nhà nước về nội dung và phạm vi hoạt động nghiệp vụ. Công ty tài chính
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, được Tập đoàn kinh tế
cấp vốn điều lệ ban đầu. Hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính và tự chịu
trách nhiệm về kết quả kinh doanh, hoạt động theo luật doanh nghiệp và quy chế hoạt
động của các tổ chức tín dụng.
- Vêf vai trò, nhiệm vụ: công ty tài chính có nhiệm vụ huy động và cho vay
đáp ứng nhu cầu vốn của Tổng công ty/ Tập đoàn kinh tế và các đơn vị thành viên.
Quan hệ tín dụng giữa công ty tài chính và các đơn vị thành viên của Tập đoàn được
thực hiện theo nguyên tắc có vay có trả. Trường hợp công ty tài chính thực hiện cho
vay đối với các cá nhân, tổ chức cá nhân khác ngoài Tập đoàn phải được sự đồng ý
của Hội đồng quản trị.
Các Tổng công ty muốn mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh

đều cần có nhu cầu vốn lớn cho chiến lược phát triển trung và dài hạn,vì vậy khi các
Tổng công ty này trở thành các Tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình Công ty mẹ
- Công ty con thì công ty tài chính ra đời với những hoạt động được sự điều chỉnh
bằng các văn bản pháp luật do Ngân hàng nhà nước ban hành, có thể trở thành công
cụ để Tập đoàn tìm kiếm các nguồn vốn bổ sung cho hoạt động của Tập đoàn thông
qua các nghiệp vụ:
- Huy động vốn: nhận tiền gửi có kỳ hạn của Tập đoàn, các doanh nghiệp
thành viên, các doanh nghiệp cùng ngành kinh doanh kỹ thuật và các cán bộ công
nhân viên trong Tập đoàn. Công ty tài chính cũng có thể thực hiện các nhiệm vụ như:
phát hành tín phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu công trình trong và ngoài
nước theo quy định của pháp luật, vay của các tổ chức tài chính và tín dụng trong và
ngoài nước. Nhưng cũng theo điều lệ mẫu này thì tổng vốn huy động không được quá
20 lần vốn tự có của công ty tài chính ( Vốn tự có của công ty tài chính bao gồm: vốn
điều lệ, quỹ dự trữ rủi ro, lợi nhuận chưa chia, phần giá trị tăng thêm do định giá lại
tài sản cố định, các loại vốn và quỹ khác ).
Như vậy, thông qua công ty tài chính, Tập đoàn kinh tế có thể huy động được
một lượng vốn không nhỏ phục vụ cho các chiến lược phát triển mở rộng hoạt động
hoặc đầu tư chiều sâu.
- Sử dụng vốn vay: Công ty tài chính có thể cho vay ngắn hạn, trung và dài
hạn trên cơ sở cân đối vốn trung và dài hạn ( không được cho vay trung và dài hạn
bằng vốn vay ngắn hạn ). Tuy nhiên, điều lệ cũng quy định: dư nợ cho vay ngắn hạn
của một khách hàng không quá 10% của công ty tài chính, riêng đối với những khách
hàng là Tập đoàn hay các công ty thành viên thì dư nợ cho vay không quá 15% vốn
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
tự có của công ty tài chính. Trong trường hợp cho vay trung và dài hạn theo dự án
của Tập đoàn thì phải dựa trên cân đối nguồn vốn thích hợp và căn cứ vào các dự án
đã được cấp và có thẩm quyền phê duyệt với mức cho
vay một dự án không quá 20% vốn tự có của công ty tài chính ( nếu có bảo lãnh của
Hội đồng quản trị thì tỷ lệ này có thể lên đến 30%, nếu vượt qua tỷ lệ này nữa thì

phải được sự chấp thuận bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước). Nhưng
lãi suất cho vay và huy động vốn của công ty tài chính lại do Tổng giám đốc Tập
đoàn quyết định theo uỷ quyền của Hội đồng quản trị dựa trên khung lãi suất do
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định. Công ty tài chính có thể sử dụng vốn tự
có để hùn vốn, liên doanh hoặc mua cổ phần của các doanh nghiệp thành viên và thực
hiện các nghiệp vụ khác như: tiếp nhận vốn uỷ thác trong và ngoài nước bao gồm cả
nguồn vốn Tập đoàn giao cho để đầu tư vào những công trình dự án của Tập đoàn
hay các doanh nghiệp thành viên. Công ty tài chính cũng có thể làm đại lý phát hành
trái phiếu cho Tập đoàn và các doanh nghiệp thành viên, tư vấn về tiền tệ và quản lý
tài sản khác theo yêu cầu của các doanh nghiệp khác trong Tập đoàn.
Như vậy, khi thực hiện các nghiệp vụ sử dụng vốn tự có của mình, công ty tài
chính đã đại diện cho Tập đoàn tham gia vào việc điều hoà vốn của Tập đoàn. Đây
cũng chính là công cụ chủ yếu để Tập đoàn kinh tế ( đóng vai trò như công ty mẹ ) có
thể chi phối và điều chỉnh hoạt động của các công ty thành viên, tạo mối liên kết chặt
chẽ về tài chính, tạo sức mạnh cho Tập đoàn. Theo mô hình này thì công ty mẹ thực
hiện việc đầu tư vào các công ty thành viên thông qua công ty tài chính. Cùng với sự
lớn mạnh của Tập đoàn kinh tế, công ty tài chính trở thành trung tâm điều phối vốn
hoạt động cho các công ty thành viên thông qua việc nắm giữ phần lớn vốn hoạt động
( trong đó có thể bao gồm cả vốn cổ phần ).
Đồng thời, Tập đoàn kinh tế là công ty mẹ phải thực hiện được các yêu cầu
cơ bản sau:
- Về báo cáo tài chính: các công ty con hạch toán độc lập và tự lập các báo cáo
tài chính định kỳ để gửi về công ty mẹ. Trên cơ sở đó, định kỳ công ty mẹ tiến hành
hợp nhất các báo cáo tài chính để lập thành báo cáo tài chính cho toàn bộ Tập đoàn.
- Về đầu tư và quản lý vốn: Thông qua công ty tài chính, vốn của công ty mẹ (
vốn chủ sở hữu và vốn huy động ) được đầu tư vào các công ty con theo chiến lược
của công ty mẹ, đồng thời căn cư vào quy mô hoạt động của từng công ty con. Các
công ty con có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn cũng như tự chịu trách nhiệm
về hiệu quả sử dụng vốn từ công ty tài chính lẫn vốn huy động được từ bên ngoài.
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
- Về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận: cả công ty mẹ và công ty con đều
phải tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý tài chính. Công ty mẹ có thể quản
lý doanh thu, chi phí, lợi nhuận và phân phối lợi nhuận trên lượng vốn góp của mình
tại từng công ty con thông qua hoạt động của công ty tài chính.
1.2 Hoạt động thu xếp vốn của công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn kinh tế
1.2.1 Khái niệm về hoạt động thu xếp vốn
Do là một trung gian tài chính, cho nên các công ty tài chính thuộc Tập đoàn
kinh tế cũng thực hiện hoạt động cho vay, giống như các tổ chức tín dụng khác. Tuy
nhiên, hoạt động tín dụng đơn thuần không phải là một mục tiêu hàng đầu và xuyên
suốt khi thành lập công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn kinh tế mà mục tiêu chủ yếu
là chuyên môn hoá các hoạt động tài chính, nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả các
hoạt động tài chính của Tập đoàn và các đơn vị thành viên, và điển hình của việc
chuyên môn hoá hoạt động tài chính của các Công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn
kinh tế là hoạt động thu xếp vốn. Hoạt động thu xếp vốn ra đời là một giải pháp để
đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư cho các dự án, đem lại lợi ích kinh tế lớn cho Tập
đoàn kinh tế và các đơn vị thành viên. Nguyên nhân vì các Công ty tài chính do có
vốn điều lệ thấp hơn so với các Ngân hàng thương mại, đồng thời các khoản vay lại
bị khống chế bởi hạn mức tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, nên
không thể cung cấp đủ vốn tín dụng cho nhu cầu vốn đầu tư của các dự án. Nhưng bù
lại, các Công ty tài chính lại có ưu thế là có trình độ chuyên môn trong việc tìm kiếm
nguồn vốn, nguồn hỗ trợ cho các dự án và có sự am hiểu về các dự án đặc biệt là các
dự án trong ngành về mặt kỹ thuật.
Có thể hiểu, hoạt động thu xếp vốn là một dịch vụ bao gồm một tập hợp các
nghiệp vụ do Công ty tài chính tiến hành nhằm thu xếp cho khách hàng có được
nguồn vốn với các điều kiện yêu cầu.
1.2.2 Đặc điểm của hoạt động thu xếp vốn
Phân tích các đặc điểm của hoạt động thu xếp vốn sẽ giúp ta hiểu rõ hơn khái
niệm hoạt động thu xếp vốn và vai trò của nó tại các công ty tài chính:
- Hoạt động thu xếp vốn mang tính “ tín dụng” : “thu xếp vốn” là một

thuật ngữ chỉ việc Công ty tài chính tìm kiếm một khoản vốn vay cho chủ đầu tư để
tài trợ cho dự án đi vào hoạt động, trên cơ sở đó Công ty tài chính được hưởng phí
thu xếp vốn, do vậy hoạt động thu xếp vốn mang tính tín dụng chứ không mang tính
đầu tư. Bản chất tín dụng của hoạt động thu xếp vốn còn được thể hiện rõ hơn khi các
Công ty tài chính thực hiện hoạt động thu xếp vốn bằng hình thức đồng tài trợ hoặc
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
cấp tín dụng trực tiếp bằng nguồn vốn tự có hoặc nguồn vốn uỷ thác của Tổng công
ty hay các tổ chức tín dụng khác, khi này, quan hệ giữa Công ty tài chính và chủ đầu
tư dự án là quan hệ vay mượn trực tiếp, chủ đầu tư phải hoàn trả cả gốc và lãi cho
Công ty tài chính.
- Hoạt động thu xếp vốn là một loại hình dịch vụ tài chính: Bởi vậy mà
hoạt động thu xếp vốn mang tính vô hình, không ổn định và khó xác định chất lượng.
Một đặc điểm khác biệt giữa hoạt động thu xếp vốn và hoạt động cho vay đơn thuần
đó là thu nhập của hoạt động thu xếp vốn chủ yếu là từ phí, có một phần là tiền lãi
( nếu Công ty tài chính thực hiện thu xếp vốn bằng nguồn vốn tự có của mình ), trong
khi đó thu nhập của hoạt động cho vay phần lớn là từ tiền lãi. Phí của hoạt động thu
xếp vốn được hiểu là khoản tiền “trả công” cho Công ty tài chính khi Công ty tài
chính thực hiện các giao dịch để thu xếp vốn thành công cho các dự án của khách
hàng và các chi phí khác liên quan tới khoản vay trong quá trình giải ngân và thu nợ,
lãi.
- Hoạt động thu xếp vốn có đối tượng là các dự án trung và dài hạn, mức
độ rủi ro cao: là vì các dự án trung và dài hạn thường đòi hỏi tổng số vốn đầu tư ban
đầu lớn, vượt quá khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của Công ty tài chính hoặc vượt quá
hạn mức vay mà Ngân hàng nhà nước cho phép. Do đó các dự án này cần một tổ
chức tài chính đứng ra dàn xếp vốn. Ngược lại, hoạt động thu xếp vốn không phù hợp
với các khoản vay ngắn hạn bởi những khoản vay ngắn hạn thường là các khoản vay
tài trợ cho tài sản lưu động, nhu cầu vốn vay không lớn mà các Công ty tài chính có
thể đáp ứng được mà không vi phạm tỷ lệ bảo đảm an toàn vốn tối thiểu mà Ngân
hàng Nhà nước quy định. Mặt khác, hoạt động thu xếp vốn cần nhiều thời gian để

tiến hành giao dịch, đàm phán với các tổ chức tham gia đồng tài trợ cũng như cần
thời gian để tiến hành thẩm định dự án, thực hiện thu xếp và quản lý các khoản vốn
tài trợ. Vì vậy hoạt động thu xếp vốn không phù hợp với các khoản vay dưới 1 năm.
Ngoài ra, các dự án trung và dài hạn thường có độ rủi ro cao nên việc sử dụng
hoạt động thu xếp vốn cho các dự án sẽ như một biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro
cho các nhà tài trợ. Khi có rủi ro xảy ra, rủi ro sẽ san cho các nhà tài trợ tương đương
với tỷ lệ tham gia tài trợ, chứ không một ai chịu hoàn toàn rủi ro.
- Hoạt động thu xếp vốn đòi hỏi các dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch
vụ khác đi kèm: bên cạnh việc công ty tài chính thực hiện thu xếp vốn đầy đủ và kịp
thời cho các dự án của khách hàng, khách hàng còn được Công ty tài chính tư vấn về
các phương án tài trợ vốn tín dụng cho dự án, giúp khách hàng chọn lựa được
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
phương án tài trợ có lãi suất cạnh tranh nhất và tối thiểu hoá các chi phí phải trả cho
các khoản vay, nâng cao hiệu quả dự án. Đặc điểm này còn được thể hiện ở chỗ Công
ty tài chính cam kết với khách hàng về việc chịu trách nhiệm đến cùng về dự án của
khách hàng thông qua việc hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả với các vấn đề phát sinh trong
quá trình giải ngân. Ngoài ra, khách hàng còn được Công ty tài chính cung cấp các
dịch vụ khác như quản lý khoản vay ( chịu trách nhiệm về các giao dịch thu gốc và
lãi ), dàn xếp thuê mua tài chính nếu khách hàng có nhu cầu...
1.2.3 Nguồn vốn cho hoạt động thu xếp vốn
Nguồn vốn là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động thu xếp vốn, việc tìm
kiếm nguồn vốn tài trợ cho các dự án là hết sức quan trọng. Sau đây là sơ đồ minh
hoạ các nguồn vốn mà công ty tài chính có thể huy động:
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
Sơ đồ 1: Nguồn vốn cho hoạt động thu xếp vốn
- Nguồn vốn tự có của Công ty tài chính: đây là cơ sở đầu tiên để công ty tài
chính đưa ra các phương án thu xếp vốn. Khi nhận được hồ sơ đề nghị thu xếp vốn
của khách hàng thì trước tiên công ty tài chính sẽ phải xem xét bản thân công ty tài

chính có khả năng cho vay bao nhiêu và lãi suất cho vay như thế nào, vì điều này phụ
thuộc vào quy mô vốn điều lệ của Công ty tài chính và hạn mức tín dụng mà Ngân
hàng nhà nước quy định. Nếu Công ty tài chính bằng số vốn tự có của mình không
thể đáp ứng được nhu cầu vốn của khách hàng, sẽ phải tìm kiếm nguồn vốn từ bên
ngoài để có thể cung cấp đủ số vốn thu xếp theo yêu cầu của khách hàng.
Vốn tự có của Công ty tài chính bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2:
+ Vốn cấp 1: bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự
phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ và lợi nhuận không chia.
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Nguồn vốn
huy động từ
các cá nhân,
tổ chức (
không bao
gồm TCTD)
Nguồn vốn tự
có của Công
ty tài chính
Nguồn vốn từ
các TCTD
trong và ngoài
nước
Công ty tài chính - Đầu mối thu xếp vốn
Dự án
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
+ Vốn cấp 2: bao gồm 50% phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định được
định giá theo quy định của pháp luật; 48% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng
khoán đầu tư ( kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp ) được định giá lại theo quy định của
pháp luật; trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do TCTD phát hành thoả mãn
các điều kiện theo mục 1.2.c khoản 1 điều 3 của quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN;

và các công cụ nợ khác thoả mãn các điều kiện theo mục 1.2.d khoản 1 điều 3 quyết
định số 457/QĐ-NHNN.
- Nguồn vốn huy động từ các cá nhân và tổ chức ( không bao gồm các
TCTD ): đây là nguồn vốn quan trọng phục vụ cho hoạt động thu xếp vốn của Công
ty tài chính. Vốn huy động bao gồm tiền gửi kỳ hạn trên 1 năm của các cá nhân và tổ
chức, vốn từ phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, chứng
chỉ tiền gửi..., vốn uỷ thác cho vay của các cá nhân và tổ chức ( nguồn vốn uỷ thác
cho vay của các cá nhân và tổ chức được hiểu là số vốn mà bên uỷ thác giao cho
Công ty tài chính là Bên nhận uỷ thác thông qua Hợp đồng uỷ thác cho vay, để Công
ty tài chính sử dụng số vốn này trực tiếp cho vay đến các đối tượng khách hàng có
yêu cầu thu xếp vốn hoặc vay vốn).
Ngoài ra, Công ty tài chính thường nhận vốn uỷ thác cho vay từ Chính phủ,
Tổng công ty/ Tập đoàn và các đơn vị thành viên của Tổng công ty/ Tập đoàn. Như
vậy công ty tài chính mà cụ thể là các Công ty tài chính trực thuộc Tập đoàn kinh tế
có thể thực hiện được chức năng của mình là vận hành và kinh doanh có hiệu quả các
nguồn vốn của ngành trên thị trường tài chính.
- Nguồn vốn từ các TCTN trong và ngoài nước: Đây cũng được coi là nguồn
vốn quan trọng sử dụng trong hoạt động thu xếp vốn. Công ty tài chính huy động vốn
từ các TCTD trong và ngoài nước để tài trợ cho hoạt động thu xếp vốn của mình dưới
2 hình thức chủ yếu là nhận vốn uỷ thác cho vay của các TCTD và mời gọi các
TCTD tham gia vào hoạt động thu xếp vốn cho dự án dưới hình thức đồng tài trợ.
+ Nhận vốn uỷ thác từ các TCTD trong và ngoài nước: Nhờ có nguồn vồn này
mà Công ty tài chính có thể huy động được nguồn vốn lớn trong thời gian dài. Mặt
khác, đây cũng là cơ hội tốt để cho các NHTM nói riêng và các TCTD nói chung có
cơ hội tiếp cận và cho vay các dự án ngành tốt, có hiệu quả kinh tế cao vì Công ty tài
chính là TCTD có sự am hiểu nhất định về ngành khi thẩm định dự án đặc biệt là các
công ty tài chính trực thuộc Tổng công ty/ Tập đoàn.
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa: Ngân hàng - tài chính
+ Mời gọi các TCTD trong và ngoài nước tham gia vào hoạt động thu xếp vốn

cho dự án dưới hình thức đồng tài trợ: Các TCTD thường lựa chọn hình thức này khi
tham gia hoạt động thu xếp vốn vì rủi ro phải gánh chịu được giảm thiểu.
Theo khoản 1 điều 2 của quyết định số 286/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành
Quy chế đồng tài trợ của các TCTD có nêu rõ: “Việc đồng tài trợ của các TCTD là
quá trình tổ chức thực hiện việc cấp tín dụng của bên đồng tài trợ với sự tham gia của
2 hay nhiều tổ chức tín dụng do một tổ chức tín dụng làm đầu mối cho một hoặc một
phần dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống
( gọi tắt là dự án ).” Cũng theo khoản 4 điều 2 của quyết định 286, công ty tài chính
không được phép đứng ra với tư cách là đầu mối đồng tài trợ để thực hiện quản lý, tổ
chức đồng tài trợ và giải quyết các vấn đề phát sinh của các bên tài trợ. Khi có một
hợp đồng thu xếp vốn của khách hàng được thực hiện dưới hình thức đồng tài trợ,
công ty tài chính sẽ phải tổ chức mời chào các tổ chức tín dụng tham gia tài trợ và
nhờ một ngân hàng thương mại đứng ra làm đầu mối đồng tài trợ, có trách nhiệm dự
thảo hợp đồng đồng tài trợ, lấy ý kiên thống nhất của các thành viên tham gia đồng
tài trợ và chịu trách nhiệm đôn đốc các thành viên sử lý các vấn đề phát sinh khi thực
hiện thu xếp vốn ( theo khoản 3 điều 16 của quyết định 286). Đồng tài trợ được áp
dụng trong các trường hợp:
• Nhu cầu xin cấp tín dụng của để thực hiện dự án của bên nhận tài trợ
vượt giới hạn cho vay hoặc bảo lãnh của TCTD theo quy định hiện
hành.
• Khả năng tài chính và nguồn vốn của một TCTD không đáp ứng được
nhu cầu cấp tín dụng của dự án.
• Nhu cầu phân tán rủi ro của TCTD.
• Bên nhận tài trợ có nhu cầu huy động vốn từ nhiều TCTD khác nhau.
+ Ngoài 2 hình thức trên, Công ty tài chính có thể huy động vốn từ các TCTD
trong và ngoài nước thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu...
Cao Thị Thanh Tâm Tài chính Doanh nghiệp 48C

×