Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Khoá luận tốt nghiệp rèn kĩ năng sử dụng tính từ cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.93 KB, 62 trang )

NGUYỄN THỊ T HANH HẬU

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ
RÈN KĨ NĂNG SỬ DỤNG
TÍNH TỪ CHO HỌC
NỘI 2
SINH TIỂU HỌC

KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC


• • •

Chuyên ngành:Phương pháp dạy học Tiếng Việt

Ngưòi hưóng dẫn khoa học ThS. Vũ Thị Tuyết

HÀ NỘT, 2015
NGUYỄN THỊ T HANH HẬU

RÈN KĨ NĂNG SỬ DỤNG TÍNH TỪ CHO HỌC
SINH TIỂU HỌC

KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC


• • •

Chuyên ngành:Phương pháp dạy học Tiếng Việt



Ngưòi hướng dẫn khoa học ThS. Vũ Thị Tuyết

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ
NỘI 2
HÀ NỘI, 2015


Đe hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành nhất đến Thạc sĩ Vũ Thị Tuyết - người đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ trong
quá trình hoàn thành khóa luận này.Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
các thầy cô trong khoa Giáo dục Tiểu học - trường Đại học Sư phạmHà Nội 2
vàtrường Tiểu học Đống Đa - thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo điều
kiện giúp đõ' tôi trong quá trình thực hiện khóa luận.
Trong khi thực hiện đề tài này, do thời gian và năng lực có hạn, tôi chưa đi
sâu khai thác hết được nên còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Vì vậy tôi rất mong
LỜI CẢMƠN
nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn đế đề tài thêm hoàn
thiện hơn.
Tôi xỉnchânthànhcảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2015.
Sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Hậu
Tôi xỉn cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết
quả và số liệu trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Đe tài chưa được công
bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác.

Hà Nội, tháng 05 năm 2015. Sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Hậu



LỜI CẢMƠN


DANHMỤCNHỮNGTỪVIÉTTẮT

GV
HS

Giáoviên
Họcsinh

HSTH

Học sinh Tiểu học

SGK

Sáchgiáokhoa

NXB

Nhàxuấtbản

TT

Tính từ

DT

Danh từ


CN

Chủ ngữ

VN

Vị ngữ

MỤC LỤC


MỞ ĐÀU

1. Lí do chọn đề tài
Trong hệ thống giáo dục phổ thông nước ta, cấp Tiểu học được xem là cấp học
nền tảng, từ đó các em có thế học tiếp lên các cấp học khác. Môn tiếng Việt là một
môn học vô cùng quan trọng trong chương trình đào tạo cấp Tiểu học. Nó có nhiệm
vụ hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết đế học tập
và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuối, góp phần rèn luyện các thao
tác tư duy. Hơn nữa, môn học Tiếng Việt còn cung cấp cho học sinh những kiến
thức căn bản về tiếng Việt và còn được bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt, góp phần hình
thành nhân cách con người Việt Nam.
Phân môn Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng trong dạy học tiếng Việt ở
bậc Tiếu học, nó là chìa khóa mở ra kho tàng văn hóa trên mọi lĩnh vực đời sống, xã
hội của con người. Phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh lĩnh hội Tiếng Việt, văn
hóa, là công cụ giao tiếp tư duy và học tập. Đối với học sinh, khi sử dụng Tiếng Việt
thì việc Luyện từ và câu có một vai trò quan trọng nó giúp học sinh có đủ điều kiện
để sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong học tập các môn văn hóa, trong việc
viết văn bản. Xuất phát từ mục đích yêu cầu của môn Tiếng Việt trong trường tiếu

học nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt, văn hóa và hiện đại để suy
nghĩ, giao tiếp và học tập. Thông qua việc học Tiếng Việt rèn cho học sinh năng lực
tư duy, phương pháp suy nghĩ giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm trong sáng.
Có như vậy mới thực hiện được nhiệm vụ đào tạo học sinh thành những con người
phát triển toàn diện.
Dạy học Luyện từ và câu không thể thiếu được hệ thống từ loại tiếng Việt.
Tính từ là một trong những từ loại quan trọng trong hệ thống từ loại. Tính từ có một
số lượng tương đối lớn trong hệ thống từ vựng và có một vị trí hết sức quan trọng
trong cơ cấu ngữ pháp.


Trên thực tế, thời gian dạy học tính từ trong chương trình Tiểu học lại chưa
nhiều, chưa có đủ thời gian đế học sinh vận dụng vào trong thực tế. VI vậy, việc
nghiên cứu để tìm ra giải pháp, rèn kĩ năng sử dụng tính từ cho học sinh Tiếu học là
một vấn đề cần được quan tâm hiện nay. Thực tế, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu
tìm hiểu về vấn đề này nhưng những người viết vẫn thấy cần phải đi sâu nắm chắc
được vấn đề cần rèn luyện các kĩ năng sử dụng tính từ cho học sinh Tiếu học một
cách có hiệu quả hơn.
Đe tài còn có ý nghĩa thực tiễn đối với việc học tập của sinh viên khoa Giáo
dục Tiểu học trong hiện tại và việc dạy học của tác giả khóa luận trong tương lai.
Qua việc thực hiện khóa luận, chúng tôi có điều kiện tìm hiểu tỉ mỉ, sâu sắc hơn
những kiến thức về từ loại tính từ trong hệ thống từ loại tiếng Việt rất đa dạng và
phong phú. Sự nghiên cứu về đề tài còn củng cố, nâng cao sự hiểu biết cho sinh
viên về tính từ, cách vận dụng những kiến thức đó vào dạy học. Ngoài ra,sự nghiên
cứu về đề tài còn giúp sinh viên có tài liệu tin cậy về từ loại tính từ trong tiếng Việt
và các biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng tính từ cho học sinh Tiểu học. Giúp
những giáo viên dạy ở các trường tiểu học có tài liệu tham khảo về nội dung,
phương pháp rèn kĩ năng sử dụng tính từ cho học sinh Tiểu học.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Rèn kĩ năng sử dụng
tính từ cho học sinh Tiểu học” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình.


2. Lịch sử vấn đề
Dạy và học từ loại tiếng Việt là một nhiệm vụ khó khăn và đã được không ít
các nhà giáo dục nghiên cứu, tìm hiếu. Tuy nhiên, chúng tôi chưa tìm được công
trình nghiên cứu nào chuyên xem xét về việc dạy học tính từ cho HSTH. Trong một
số giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học cũng có đề cập tới việc
dạy từ loại cho HSTH nhưng chỉ viết ở mức độ sơ bộ.
Trong khóa luận tốt nghiệp Đại học và sau Đại học, chúng tôi thấy có một số
công trình bàn đến việc dạy từ loại nói chung trong đó có đề cập đến việc dạy học


tính từ. Tiêu biểu là luận văn sau Đại học của tác giả Lê Thị Lan Anh. Trong luận
văn của mình, tác giả đã tập trung nghiên cứu về dạy từ loại. Tuy nhiên, do mục
đích đặt ra là xem xét việc dạy tất cả các từ loại nên tác giả chưa thể nghiên cứu kĩ,
đào sâu vào một từ loại riêng biệt là tính từ. Vì vậy, vấn đề mà chúng tôi chọn là
tính tò vẫn còn những khoảng trống.
Ngoài ra, trong đề tài này, tôi đã sưu tầm, tổng họp và xử lí các tài liệu sau
đây:
Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiếu học (Tài liệu đào tạo GV - 2007) của

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án phát triến GV tiểu học. Cuốn sách đã cập nhật
những thông tin đổi mới về nội dung chương trình SGK và phương pháp dạy học
theo chương trình mới. Cuốn sách đã trình bày một cách chi tiết, cụ thể về cấu trúc,
nội dung và phương pháp dạy học cho từng phân môn trong môn Tiếng Việt. Ngoài
ra, cuốn sách còn giới thiệu được một số phương pháp dạy học tích cực theo hướng
đổi mới như: sử dụng bộ đồ dùng học tập trong dạy học, sử dụng máy chiếu, băng
hình... nhằm phục vụ cho quá trình dạy - học có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
- Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt - Diệp Quang Ban - tập 1. Cuốn sách này đã
cung cấp đầy đủ các kiến thức về ngữ pháp và đặc biệt là từ loại. Đây là một cơ sở lí
luận quan trọng cho việc dạy học từ loại ở Tiểu học.

- Giáo trình Tiếng Việt 3 - Lê A (chủ biên) - Phan Phương Dung - Đặng Kim
Nga. Đây là một cuốn sách viết đầy đủ về ngữ pháp tiếng Việt, những nội dung nằm
trong chương trình dạy học cấp Tiếu học được cung cấp đầy đủ và có thể áp dụng
vào thực tiễn.
Dựa trên những công trình nghiên cứu đã trình bày ở trên, tôi tìm hiều và
nghiên cứu để thực hiện đề tài “Rèn kĩ năng sử dụng tính từ cho học sinh Tiểu học”.
3. Đối tưọng nghiên cún
Các biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng tính từ cho học sinh Tiếu học.


4. Mục đích nghiên cún
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi mong tìm ra các biện pháp rèn luyện kĩ năng
sử dụng tính từ cho học sinh qua đó nâng cao khả năng sử dụng tính từ cho HSTH.
5. Nhiệm vụ nghiên cún
- Xác định cơ sở lí luận cho đề tài.
- Các biện pháp rèn luyện, nâng cao kĩ năng sử dụng tính từ cho học sinh Tiểu
học.
- Thực nghiệm.
6. Phạm vi nghiên cún
Kĩ năng sử dụng tính từ của một số lóp học sinh trường Tiểu học Đống Đa,
thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Phương pháp nghiên cửu
- Phương pháp điều tra khảo sát
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp tổng hợp
8. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, phần Ket luận, phần Nội dung của khóa luận được tổ
chức làm 3 chương:

Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2. Một số biện pháp rèn luyện, nâng cao kĩ năng sử dụng tính từ cho
học sinh Tiểu học
Chương 3. Thực nghiệm
NỘI DƯNG Chương 1 Cơ SỠ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIẺN
1.1.

Co’ sở ngôn ngữ học


1.1.1.

Từ loại
Từ loại là một phạm trù ngữpháp lớn, cho đến nay chưa có một định nghĩa

thống nhất nào về từ loại, tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa về
từ loại như sau:
Theo tác giả Đinh Văn Đức‘Tử loại là các lớp từ trong một ngôn ngữ cụ thế,

được phân chia về mặt ngữ pháp" [8, 9].
Tác giả Diệp Quang Ban lại cho rằng: ‘Tử loại là kết quả nghiên cứu von từ

trên bình diện ngữ pháp, đó là những lớp từ có chung bản chất ngữ pháp, được
biếu hiện trong các đặc trưng thong nhất dùng làm tiêu chuấn tập hợp và quy loại ”
[3, 84].
Theo tác giả Vũ Đức Nghiêu - Nguyễn Văn Hiệp thì ‘Tử loại là nhũng phạm trù

ngữ pháp, chủng được xác định và phân biệt với nhau dựa trên những tiêu chí đặc
điếm về mặt hình thức ngữ pháp, chức năng ngữ pháp” [11,286].
Theo tác giả Lê A - Phan Phương Dung, Đặng kim Nga ‘Tử loại là các lớp từ

có sự giống nhau về đặc điếm ngữ pháp” [1, 22].

Ta có thế thấy, dù đưa ra những định nghĩa khác nhau, nhưng các nhà nghiên
cứu vẫn có nhận định chung về từ loại: Từ loại là phạm trù ngữ pháp, được phân
chia dựa trên những tiêu chí về mặt ngữ pháp.
1.1.2.

Tiêu chí phân định từ loại tiếng Việt
Đe phân định từ loại tiếng Việt, các nhà ngôn ngữ học thường dựa trên 3 tiêu

chí làm cơ sở:
1.1.2.

ĩ. Ý nghĩa khải quát của từ

Ý nghĩa khái quát là ý nghĩa phạm trù chung có tính khái quát hoá cao, nó là
kết quả của quá trình trừu tượng hóa ý nghĩa của hàng loạt cái cụ thể: danh từ chỉ sự
vật, động từ chỉ hoạt động, tính từ chỉ đặc điểm tính chất,... Mỗi ý nghĩa này tồn tại
trong từng từ cụ thể thuộc cùng lớp từ đó.


Ví dụ: Tính từ chỉ đặc điểm hình dáng của người: cao, gầy, béo, thấp,... tính từ
chỉ đặc điểm của vật: ngắn, dài, sắc,....
1.1.2.2.

Khả năng kết hợp của từ

Trong cuốn “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt - tập 1”, Diệp Quang Ban cho rằng
khả năng kết hợp của từ trong phạm vi nghiên cứu về từ loại được hiểu như sau:
- Có hay không có khả năng làm thành tố chính trong cụm từ chính phụ. Tiêu

chuấn này chủ yếu dùng vào việc phân biệt thực từ với hư từ, thực từ có khả năng
này, hư từ không có khả năng này.
Ví dụ: Tính từ, động từ, danh từ có khả năng làm thành tố chính trong cụm
danh từ, cụm động từ, cụm tính từ. Nhưng quan hệ từ, phụ từ... lại không có khả
năng này.
- Có khả năng kết hợp với những hư từ chuyên dùng để xác định từ loại cho từ
đang được xét. Hư từ được dùng để xác định từ loại cho một từ nào đó được gọi là
từ chủng (từ làm chứng cho tư cách từ loại của một từ). Trên cơ sở đó, tiêu chuẩn về

khả năng kết hợp được đánh giá như là tiêu chuẩn hình thức của việc định loại từ
tiếng Việt.
Ví dụ: Các phụ từ về mức độ như: rất, hơi, quá,... có khả năng đứng trước tính
từ đế bố sung ý nghĩa cho tính từ. Đó là các từ chứng được dùng để xác định từ loại
của từ trong thực tế sử dụng chính xác.
Chang hạn trong câu: Bạn Lan lớp em rất nhí nhảnh.
Ta có thể nhận biết ngay được rằng, đứng sau từ rất, từ nhí nhảnh là một tính
từ.
1.1.2.3. Chức vụ cú pháp
Theo Diệp Quang Ban trong cuốn: “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt - tập 1”,
chức vụ cú pháp là các từ thuộc cùng một từ loại thì thường giữ một chức vụ trong
câu. Hay hiểu theo cách khác, chức vụ cú pháp chính là khả năng và cách thức thể
hiện các chức năng ngữ pháp của từ trong câu.


Các từ thuộc một lóp nào đó có thể đảm đương nhiều chức vụ cú pháp trong
câu. Trong các chức vụ cú pháp đó thường có một hoặc hai chức vụ nối lên rõ hơn
tiêu biểu cho lóp từ đó.
- Tính từ thường làm vị ngữ trong câu, với vai trò làm chủ ngữ thì ít hơn.
Ví dụ:


Lan là một cô gái rất xỉnh.
TT (VN)

Tham lam là một tính xấu.

TT (CN)
Như vậy, việc phân định từ loại tiếng Việt được dựa vào một tập hợp ba tiêu
chí: ý nghĩa từ vựng - ngữ pháp khái quát có tính chất phạm trù của từ, khả năng kết
hợp của từ và chức năng cú pháp chủ yếu của từ. Trong đó, tiêu chí ý nghĩa khái
quát của từ và khả năng kết hợp của từ có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, quy
loại từ vì đây là hai tiêu chí bền vững không thay đối. Tiêu chí chức năng cú pháp
chủ yếu của từ là tiêu chí không bền vững, có thể thay đổi được.
1.1.3.

Kết quả phân định từ loại tiếng Việt

Dựa vào 3 tiêu chí trên, các nhà nghiên cứu thường chia từ loại tiếng Việt thành
2 nhóm lớn, đó là thực từ và hư từ. Tuy nhiên, cũng có một số nhà nghiên cứu cho
rằng có một lớp từ ở giữa, đó là lớp trung gian, nhưng ở đây chúng tôi chỉ xét 2 lóp
lớn là thực từ và hư từ. Theo đa số các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thì lớp thực từ bao
gồm danh từ, động từ, tính từ, đại từ. Hư từ bao gồm: phụ từ, số từ, quan hệ từ, tình
thái từ. Việc phân loại của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ có sự chênh lệch nhưng
tính từ được xếp vào lớp thực từ.
1.1.4.

Hiện tượng chuyến loại từ trong tiếng Việt

Trong tiếng Việt có hiện tượng một số từ có vỏ ngữ âm giống nhau nhưng ý
nghĩa và đặc điếm ngữ pháp của các từ đó lại khác nhau khi đặt chúng vào một ngữ
cảnh nào đó. Trong trường hợp như vậy, từ đã chuyển đổi sang một chức năng khác

và chuyển sang một từ loại khác. Đó là hiện tượng chuyên loại của từ.


Ví dụ:
Tôi còn nhiều khó khăn chưa vượt qua được.
DT
Tôi khó khăn lắm mới thuyết phục được em gái đi học.
TT
Đe nhận biết được hiện tượng chuyển loại từ, có thể dựa vào các đặc điểm của
hiện tượng này:
- Từ chuyển loại có hình thức đồng âm. Một từ thuộc từ loại này khi chuyển
thành một từ thuộc từ loại khác vẫn giữ nguyên vỏ ngữ âm, chúng là hai từ đồng âm
khác từ loại.
- Từ chuyến loại có yếu tố nghĩa từ vựng chung. Yeu tố nghĩa từ vựng chung là
cơ sở của ý nghĩa từ loại và cùng là thành phần trong ý nghĩa khái quát của từ.
- Từ ban đầu có khả năng kết họp và chức năng ngữ pháp khác với từ chuyển
loại, mặc dù không phải lúc nào cũng xác định hoặc phân biệt được một cách dứt
khoát.
Trong tiếng Việt, thường gặp một số trường họp chuyến loại sau đây:
*Chuyển loại trong nội bộ thực từ:


Chuyển loại động từ <-► tính từ <-> danh từ, thường gặp đối với lớp từ đa

tiết ghép gốc Hán Việt: quẩn chúng, ý thức, khuyết điếm, hòa bình... Từ
Hán Việt thường khó định loại khi đứng riêng một mình.


Chuyển loại giữa động từ <-► danh từ: từ chỉ hành động như: cày, cuốc, cưa,


đục,... chuyến loại thành tên gọi đồ vật tương ứng như: cái cày, cái cuốc, cải cưa, cải
đục, ...hay những từ chỉ hành động như: cuộn, bó, nam,... chuyến thành đon vị sự vật

tương ứng: một cuộn, một bó, một nắm,... từ chỉ hành động đa tiết như: suy nghĩ, đắn
đo, lo ngại,... chuyển thành tên gọi hay khái niệm hay sự vật trừu tượng như: nhũng
suy nghĩ, những đắn đo, những lo ngại,...




Chuyển loại giữa tình từ <-> danh từ: từ chỉ tính chất đa tiết thường chuyển

thành danh từ chỉ sự vật trừu tượng: khó khăn, gian khổ, sung sướng,... thành: mọi
khó khăn, mọi gian kho, mọi sung sướng,...


Chuyển loại trong nội bộ từ loại danh từ: danh từ chỉ đồ vật như: chén, bát,

thuyền, xe, mâm,... chuyển thành danh từ chỉ đơn vị: một chén rượu, một bát cơm, một
thuyền cá, một xe gạo, một mâm cô...


Chuyến loại từ thực từ <-> hư từ:

Hiện tượng chuyển loại từ thực từ hư từ thường kèm theo hiện tượng mờ nghĩa
trong thực từ.


Chuyển loại danh từ

Ví dụ: Vùng đồng bằng là một vùng trù phú, đông dân, nhiều của.
DT
Sách của thư viện.
QHT
Ngoài ra, một số danh từ chỉ vị trí: trên, dưới, trong, ngoài,... chuyển thành
quan hệ từ: ngồi trên ghế, đi dưới nước, họp trong phòng, ăn ngoài quán,...


Chuyển loại động từ <-► quan hệ từ: một số quan hệ từ có nguồn gốc từ

động từ: cho, bằng, vào, đe,...


Chuyển loại danh từ <-> đại từ: nhiều danh từ chỉ người trong quan hệ thân

thuộc: ông, bà, cháu, dì...chuyển thành đại từ xưng hô.
*Chuyển loại trong nội bộ hư từ: một số phụ từ có thể thực hiện chức năng liên
kết của quan hệ từ: còn, rồi,... hoặc dùng phối hợp hai phụ từ để kiêm chức năng liên
kết: vừa ... vừa đã ... lại mới ... đã ... hoặc dùng phối họp một quan hệ từ với một phụ
từ: vừa mới ... nên ...
Đôi với tính từ, hiện tượng chuyên loại từ của từ loại từ này thường gặp nằm
trong nội bộ thực từ, giữa tính từ, động từ và danh từ, sự chuyến loại giữa tính từ và
danh từ.


1.1.5.
1.1.5.1.

Tính từ trong tiếng Việt
Khái niệm


Tính từ là một trong những từ loại cơ bản của thực từ. Các nhà khoa học khi
nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt đều quan tâm tìm hiểu tính từ. Sự quan tâm đó
trước hết thể hiện ở việc đưa ra định nghĩa về tính từ của mỗi tác giả.
Theo tác giả Lê Biên trong cuốn “Từ loại Tiếng Việt hiện đại” thì tính từ là
những thực từ gọi tên tính chất, đặc trưng của sự vật, thực thể hoặc của vận động,
quá trình, hoạt động.
Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung cho rằng: tính từ là lớp từ chỉ ý nghĩa đặc
trưng của thực thế hay đặc trưng của quá trình.
Thông qua một số định nghĩa về tính từ tiếng Việt, có thể thấy sự chưa thật
nhất quán giữa các nhà khoa học trong việc nêu khái niệm tính từ vì mỗi tác giả chú
ý nhiều hơn đến một đặc điểm của từ loại này.
Ví dụ: Tính từ chỉ màu sắc: xanh, đỏ, tím ngắt, trắng muốt,...
Tính từ chỉ phẩm chất: tốt, xấu, tham lam,...
Đe có cái nhìn bao quát về tính từ tiếng Việt, theo chúng tôi cần dựa vào
3 đặc điểm cơ bản của nó:
- về mặt ý nghĩa: tính từ chỉ đặc điểm hay tính chất.
- về khả năng kết hợp: tính từ có khả năng kết họp với các loại phụ từ. Tính từ
dễ kết hợp với các phụ từ chỉ mức độ hơn nhưng hầu như không kết hợp với các các
phụ từ chỉ mệnh lệnh. Khả năng này có thể coi là khả năng làm thành tố chính của
cụm tính từ. Ví dụ: Trong câu: “Chiếc khăn này đẹp quá!” tính từ đẹp hoàn toàn có
thể kết hợp với phụ từ quá để chỉ mức độ.
- về chức vụ cú pháp: tính từ có khả năng đảm nhiệm chức năng của các thành
phần câu: khi làm vị ngữ, tính từ không cần đến từ “là”.
Ví dụ: Quả khế / rất chua.
CN VN (TT)


7.7.5.2.


Phân loại tính từ

Tính từ là một lớp từ đa dạng về ý nghĩa, khả năng kết hợp, nên có thể được
phân thành nhiều lớp nhỏ theo các tiêu chí khác nhau. Các nhà nghiên cứu đều có
cách phân loại trong các công trình của họ, song giữa các nhà nghiên cứu vẫn có
nhận định chung về sự phân loại tính từ:
- Tính từ chỉ chất và tính từ quan hệ
- Tính từ chỉ đặc trưng xác định thang độ và tính từ chỉ đặc trưng không xác
định thang độ.
a. Tính từ chỉ tính chất và tính từ quan hệ


Tính từ tính chất

*Tính từ tính chất được hiểu là những tính từ vốn mang ý nghĩa tính chất chứ
không phải vay mượn nó ở lóp từ khác. Ý nghĩa tính chất ở đây phong phũ về nội
dung.
Ví dụ:
- Ý nghĩa các loại phẩm chất: tốt, xấu, đúng, đẹp, sai,...
- Ý nghĩa về lượng: nhiều, ít, cao, thấp, đắt,...


Tính từ quan hệ

Tính từ chỉ quan hệ là tính từ mà ý nghĩa chỉ tính chất của chúng được vay
mượn ở ý nghĩa thực tế của danh từ.
Tính từ chỉ quan hệ có thể có gốc là danh từ chung, cũng có thể có gốc là danh
từ riêng.
Ví dụ:
- Tính từ có quan hệ với danh từ riêng: con người (rất) Việt Nam, giọng (rất)

Hà Nội, thái độ (rất) Chí Phèo,...
- Tính từ có quan hệ với danh từ chung: cung cách (rất) quý phái, (rất) sang
trọng, (rất) nông dân, (rất) nghệ sĩ,...


b.Tính từ chỉ đặc trưng xác định thang độ và tính từ chỉ đặc trưng không xác
định thang độ
*Tính từ chỉ đặc trưng xác định thang độ
Tính từ chỉ đặc trưng xác định thang độ là tính từ có thể kết hợp với các phó từ
chỉ thang độ: rất, hơi, quá,... về phía trước hoặc sau.
Ví dụ: rất đẹp, rất giỏi, rất anh h ù n g , . . đ ẹ p lắm, vui quá,...
*Tính từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ
Trong tiếng Việt có một nhóm nhỏ từ, xét cách hoạt động trong câu và xét về
mặt ý nghĩa thì giống hệt tính từ, nhưng không kết hợp được với các phó từ chỉ
thang độ thường đứng trước tính từ. Đó là những đặc trưng không xác định thang độ
như: chính, công, chung, riêng, tư, đực, cái, trống, mái,... trong các tổ họp từ: vấn đề
chính, quyền lợi chung, quỹ công, đời tư,...
về nghĩa tính từ chỉ đặc trưng không xác định thang độ có thể là tính từ chỉ tính
chất hoặc tính từ chỉ quan hệ.
Ví dụ:
- Vấn đề chính = vấn đề có tính chất chính (chỉ tính chất).
- Quyền lọi chung = (1) quyền lợi nói chung, không cụ thể (chỉ tính chất).
= (2) quyền lợi thuộc về mọi người (chỉ quan hệ).
về hoạt động ngữ pháp, tính từ không xác định thang độ thường làm yếu tố mở
rộng cho danh từ.
Ví dụ: thì thầm, róc rách, ngân nga,... trong các tổ họp từ: giọng thì thầm, tiếng
suối róc rách, tiếng đàn ngân nga,...
1. Chức năng của tính từ trong tiếng Việt
2. Khả năng chuyển hóa từ loại của tính từ
Khi nhắc đến khả năng chuyển hóa từ loại của tính từ, ta thường hay gặp sự

chuyển hóa trong nội bộ thực từ. Ta có thể thấy sự chuyển loại giữa động từ, tính từ


và danh từ, thường gặp đối với lớp từ đa tiết ghép gốc Hán Việt: quần chúng, ý thức,
khuyết điểm, hòa bình, công chúa,...
Ví dụ:
Сопя chúa là con gái của vua.

DT
Bạn Lan trông như с ông chúa.
TT
Ngoài ra, ta còn gặp sự chuyển loại của tính từ và danh từ.
Ví dụ:
Anh ta leo núi hết sức khó khăn.
TT
Cô sẽ vượt qua moi khó khăn để đến với anh.
DT
Sự chuyển loại từ danh từ sang tính từ:
Ví dụ:
Huế là một thành phố thơ mộng.

DT
Cô gái ấy có giọng nói rất Huế.
TT
Như vậy, chuyển loại là quá trình động,là một hiện tượng tích cực trong ngôn
ngữ, là một biểu hiện của quá trình tự điều chỉnh hệ thống ngôn ngữ, là một trong
các phương thức cấu tạo từ và là cơ sở để tạo ra từ mới. Sự chuyến loại của tính từ
rất phong phú, tùy vào từng trường hợp ta có thể nhận biết nó chuyển loại từ từ loại
nào.



1.2.

Cơ sở tâm lí học

Học sinh Tiểu học là những trẻ có độ tuổi từ 6 - 11 tuổi. Đây là lứa tuổi đầu
tiên đến trường - trở thành học sinh và có bước chuyển từ hoạt động vui chơi sang
hoạt động học tập là chủ đạo. Hoạt động học tập có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển tâm lí của học sinh Tiểu học. Cùng với cuộc sống nhà
trường, hoạt động học tập đem đến cho trẻ nhiều điều mới lạ mà trước đây trẻ chưa
bao giờ có được hoặc không thể tiếp cận được.
Cùng với sự phát triển về thể chất và dựa trên những thành tựu tâm lí đã đạt
được của giai đoạn trước, trẻ sẽ tạo lập nên những cái mới trong đời sống tâm lí của
mình, mà trước hết là tính chủ định, kĩ năng làm việc trí óc, sự phản tỉnh - những
cấu tạo tâm lí mới đặc trưng cho lứa tuối này. Ngoài ra, nhà trường và hoạt động học
tập cũng cũng đặt ra cho trẻ những đòi hỏi mới của cuộc sống... Trẻ chỉ phải tự lập
lấy vị trí của mình trong môi trường “trung lập về tình cảm”, mà còn phải thích ứng
những bó buộc không tránh khỏi và chấp nhận về một người lớn ngoài gia đình
(thầy, cô giáo) sẽ đóng vai trò hàng đầu trong cuộc sống của trẻ. Trẻ chẳng những
phải ý thức thái độ trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ của mình, đặc
biệt là nhiệm vụ học tập và biết điều khiển hành vi của mình một cách có chủ định,
đồng thời phải có khả năng thiết lập, vận hành cùng một lúc các mối quan hệ với
các đối tượng khác và mang tính chất khác nhau.
Trước những thử thách này, trẻ dù muốn hay không cũng phải lĩnh hội các cách
thức, phương thức phức tạp hơn chủa hành vi và hoạt động đế thỏa mãn những yêu
cầu và đòi hỏi cuộc sống nhà trường và nhờ vậy đẩy được sự phát triển của mình lên
một mức cao hơn. Tuổi tiểu học là tuổi của sự phát triển hồn nhiên bằng phương
thức lĩnh hội. Cùng với việc lĩnh hội, tiếp thu mô hệ thống tri thức về các môn học,
trẻ em học cách học, học kĩ năng sống trong môi trường học và môi trường xã hội.
Cùng với sự ảnh hưởng khá lớn của môi trường giáo dục gia đình và quan hệ bạn bè

cùng tuổi, cùng lớp và trường học, học sinh Tiểu học lĩnh hội các chuấn mực quy tắc


đạo đức của hành vi. Sự lĩnh hội trên tạo ra những biến đối cơ bản trong sự phát tri
en tâm lí của học sinh Tiểu học. Chúng không chỉ đảm bảo cho các em những bước
ngoặt quan trọng trong cuộc sống ở tuối thiếu niên - lứa tuối có xu thế vươn lên làm
người lớn. Chức năng được thực hiện thắng lợi nhờ các đặc điểm đặc trưng của lứa
tuồi này - sự tuân thủ tuyệt đối và những người có uy tín với các em (đặc biệt là
thầy, cô giáo), sự mẫn cảm, sự lưu tâm, đặc biệt là thái độ vui chơi ngây thơ đối với
các đối tượng mà các em được tiếp xúc.
Khả năng tưởng tượng của học sinh Tiểu học cũng đã phát triển hơn so với trẻ
mầm non nhờ có bộ não phát triến và vốn kinh nghiệm ngày càng dày dặn. Tuy
nhiên, tưởng tượng của các em vẫn có một số đặc điểm nổi bật: ở đầu tuối tiếu học,
hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền và dễ thay đối; ở cuối tiếu học, tưởng
tượng tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở
cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,... Đặc
biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này chi phối mạnh mẽ bởi xúc cảm,
tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình
cảm của các em.
Trí nhớ trực quan - hình tượng và trí nhớ máy móc của HSTH phát triến hơn
trí nhớ logic - từ ngữ. Các em ghi nhớ, giữ gìn và nhớ lại các hiện tượng, hình ảnh
tốt hơn là các câu chữ có hình tượng khô khan. Dưới ảnh hưởng của hoạt động học
tập, trí nhớ có chủ định, trí nhớ từ ngữ - logic xuất hiện, phát triển nhưng không biệt
lập với trí nhớ máy móc, trí nhớ trực quan - hình
tượng.
Chú ý không chủ định được phát triến mạnh và chiếm ưu thế ở học sinh Tiểu
học. Chú ý của học sinh chưa bền vững, nhất là học sinh đầu lớp tiểu học. Do khả
năng tống hợp nên sự chú ý của học sinh còn phân tán, vì thiếu khả năng phân tích
nên dễ bị cuốn vào hình ảnh trực quan gợi cảm. Sự chú ý của học sinh thường
hướng vào bên trong, vào tư duy và hoạt động trí óc. Chú ý có chủ định được phát



triến cùng với sự phát triến của động cơ học tập mang tính chất xã hội cao và sự
phát triển ý thức với kết quả học tập.
HSTH là lứa tuối sống và phát triển trong nền văn minh nhà trường theo giai
đoạn. Giai đoạn một gồm lớp 1,2,3 trong cấp độ này thì lóp 1 đặc biệt - lớp đầu của
cấp tiếu học, được nhiều người cho là “cửa ải lớp 1”. Giai đoạn hai gồm lớp 4,5 lớp cuối cấp tiểu học. Hai cấp độ này tuy có sự khác nhau về mức độ phát triển tâm
lí và trình độ thực hiện hoạt động học tập, nhưng không có sự thay đổi đột biến,
không có sự phát triển theo chiều hướng mới dù ở cấp độ nào thì học sinh tiếu học
vẫn là nhân vật trung tâm, là linh hồn của trường tiểu học. Ở đấy, trẻ đang từng
ngày, từng giờ tự hình thành cho mình năng lực của người ở trình độ sơ đắng nhưng
cơ bản, như sử dụng tiếng mẹ đẻ, năng lực tính toán, đặc biệt là năng lực làm việc
trí óc - năng lực tạo ra các năng lực khác. Cùng với các năng lực trên sự hình thành
tình cảm, thái độ và cách cư xử phù hợp với dân tộc và văn minh nhân loại hiện đại.
Học sinh Tiểu học ngày nay là những chủ thể đang trưởng thành chính mình bằng
hoạt động của mình dưới sự tố chức, hướng dẫn của người lớn theo phương pháp
nhà trường hiện đại.
Xem xét những đặc điếm tâm lí chúng tôi thấy, tư duy logic của học sinh Tiểu
học cũng như những tư duy lập luận, khả năng trừu tượng của các em còn ở mức độ
đon giản chính vì vậy mà những hoạt động này cần được lặp đi lặp lại nhiều lần để
các em hình thành thói quen với kĩ năng làm bài. Từ đó chúng tôi đi xây dựng hệ
thống bài tập nhằm giúp luyện kĩ năng làm bài tính từ cho học sinh.
1.3.
1.3.1.

Cơ sở thực tiễn
Nội dung bài học về tính từ trong chương trình Tiếu học
Chương trình Tiếng Việt phần tính từ được thực hiện hóa trong SGK Tiếng

Việt từ lóp 2 đến lớp 5 thành 2 dạng bài. Dạng bài thực hành về tính từ ở lớp 2 là

bài: Từ chỉ đặc điểm. Câu kiểu Ai thế nào?( tuần 15, trang 122, tập 1) và bài: Từ chỉ
tính chất. Kiếu câu Ai thế nào? (tuần 16, trang 133, tập l);ở lớp 3 cũng là dạng bài


thực hành, bài: Ôn tập về từ chỉ đặc điếm. Ôn tập câu Ai thế nào? (tuần 14, trang 117,
tập 1) và bài: Ôn tập về từ chỉ đặc điểm, ôn tập câu Ai thế nào? Dấu phẩy (tuần 17,
trang 145, tập 1). Dạng bài lí thuyết được dạy và học ở lớp 4, bài: Tính từ (tuầnl 1,
trang 110, tập 1) và bài: Tính từ (tiếp theo) (tuần 12, trang 123, tập 1). Lớp 5 các em
có duy nhất 1 bài ôn tập: Ôn tập về từ loại (trang 142, tập 1).
Như vậy, ta thấy tính từ được dạy trong chương trình Tiếu học chưa nhiều và
kết hợp dạy với các nội dung khác như: câu, dấu câu... Chính vì vậy mà nội dung về
tính từ chưa được khai thác sâu để học sinh hiểu rõ kiến thức này để vận dụng nó
vào các bài tập và sử dụng tính từ trong học tập cũng như trong đời sống. Qua đây,
chúng tôi nhìn nhận được vấn đề cần phải được xem xét và nghiên cứu để đưa ra
được các biện pháp phù hợp nâng cao kĩ năng sử dụng tính từ cho học sinh Tiểu
học.
1.3.2.

Thực trạng xác định và sử dụng tính tù'của học sinh Tiểu học
Qua thời gian ba tháng thực tập, tuy không được trực tiếp giảng dạy nhiều tiết

Luyện từ và câu nhưng chúng tôi được dự giờ các tiết dạy của giáo viên hướng dẫn
cùng với dự giờ giáo sinh thực tập tại trường Tiểu học Đống Đa - thành phố Vĩnh
Yên - tỉnh Vĩnh Phúc. Trong đó chúng tôi được dự tiết dạy “Ôn tập về từ chỉ đặc
điểm và ôn tập câu Ai thế nào?” - một tiết dạy điển hình về dạy học tính từ ở Tiểu

học lớp 2, lớp 3. Chúng tôi thấy rõ một phần thực trạng của việc dạy học tính từ của
giáo viên và học sinh trường Tiểu học.
Đe tìm hiểu thực trạng việc dạy học tính từ cho học sinh ở các trường Tiểu
học, chúng tôi đã trao đổi kinh nghiệm giảng dạy với các giáo viên. Chúng tôi cũng

kết họp quan sát dự giờ của giáo viên các khối lớp 2,3 và lớp
4 ở trường Tiếu học Đống Đa - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc với các bài: khối 2: từ chỉ đặc
điểm. Kiểu câu Ai thế nào? ; khối 3: ôn tập về từ chỉ đặc điểm. Ôn tập câu Ai thế
nào? ; khối 4: tính từ, tính từ (tiếp theo).


Chúng tôi đã dự các tiết dạy của giáo viên ở hai khối lớp 3 và lớp 4 với các
dạng bài khác nhau đế có thể đánh giá khách quan thực trạng của việc dạy học tính
từ cho học sinh. Chúng tôi xin đưa ra những khó khăn và thuận lợi ảnh hưởng đến
việc dạy của giáo viên.
về thuận lợi, chúng tôi đã tìm hiểu những thuận lợi chung mà trường Tiểu học
Đống Đa - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc nơi tôi đã thực tập. Đội ngũ giáo viên có chuyên
môn nghiệp vụ, năng lực sư phạm vững vàng có tinh thần dạy học, chỉ bảo tận tình
học sinh. Học sinh rất có ý thức tự giác trong học tập. Trường Tiểu học Đống Đa có
cơ sở vật chất, phương tiện dạy học đầy đủ. Hơn nữa, Ban Giám hiệu nhà trường rất
sát sao trong việc quản lí kiểm tra chuyên môn của giáo viên. Trong quá trình giảng
dạy, các giáo viên đã nắm chắc quy trình lên lóp và thực hiện đầy đủ các bước, nắm
được mục tiêu của môn học và có hướng điểu chỉnh trong quá trình giảng dạy.
về khó khăn, chúng tôi thấy học sinh giữa các lớp trong cùng một khối có năng

lực nhận thức khác nhau điều đó dẫn đến khả năng học tập của học sinh không đồng
đều. Mặt khác, ở lứa tuổi này học sinh vẫn còn chịu ảnh hưởng của chú ý không chủ
định nên học sinh vẫn ham chơi chưa tập trung vào bài học, làm quá trình truyền đạt
kiến thức cho học sinh thường xuyên bị gián đoạn. Ngoài ra, trong thời gian một tiết
học học sinh chưa phát huy được khả năng của mình. Đa số các giáo viên sử dụng
phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên giảng nhiều mà phần kiến thức về từ
loại tương đối trừu tượng vì vậy hiệu quả của việc giảng dạy chưa cao. Theo như
chúng tôi thấy, học sinh sau khi được học bài về tính từ các em chưa ứng dụng sử
dụng nhiều vào trong cuộc sống.
Đe đưa ra được những nhận xét về thực trạng sử dụng tính từ của HSTH trên,

chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng nhận biết và sử dụng tính từ của học sinh
lớp 4A1 tại trường Tiểu học Đống Đa bằng cách sử dụng các phiếu hỏi (phụ lục).
Ket quả thu được như sau:
- Ở phiếu số 1


a. Tỉ lệ xác định đúng các tính từ trong phiếu điều tra
Không có học sinh nào xác định đúng 100% số tính từ trong phiếu.
Có 3 học sinh xác định được 90%- 99% tính từ trong phiếu chiếm 6.9% tổng
số học sinh tham gia khảo sát.
Có 11 học sinh xác định được 80%- 89% tính từ trong phiếu chiếm 26%.
Có 9 học sinh xác định được 70%-79% tính từ trong phiếu chiếm 20,9%.
Có 7 học sinh xác định được 60%-69% tính từ trong phiếu chiếm 16,2%.
Có 6 học sinh xác định được 50%-59% tính từ trong phiếu chiếm 13,9%.
Có 4 học sinh xác định được 40% - 49% tính từ trong phiếu chiếm 9,3%.
Có 3 học sinh xác định được 30% - 39% tính từ trong phiếu chiếm 6,9%.
b. Tỉ lệ học sinh nhầm lẫn các từ loại khác là tính từ
Có 18% học sinh không nhầm lẫn khi xác định tính

từ trongphiếu,

chiếm 42% tổng số học sinh tham gia khảo sát.
Có 15 học sinh nhầm lẫn từ 1% - 10% các từ loại khác

là tínhtừ trong

phiếu, chiếm 35%.
Có 3 học sinh nhầm lẫn từ 11 % - 20% các từ loại khác là tính từ trong
phiếu, chiếm 6,9%.
Có 2 học sinh nhầm lẫn từ 21% - 30% các từ loại khác là tính từ trong phiếu,

chiếm 4,6%.
Có 3 học sinh nhầm lẫn từ 31 % - 40% các từ loại khác là tính từ trong phiếu,
chiếm 6,9%.
Có 2 học sinh nhầm lẫn từ 41 % - 50% các từ loại khác là tính từ trong phiếu,
chiếm 4,6%.
- Ở phiếu số 2
Kết quả thu được như sau:
Có 2 học sinh viết được 15 câu đúng yêu cầu đặt ra chiếm 4,6% tổng số học
sinh tham gia.


Có 4 học sinh viết được 14 câu đúng yêu cầu đặt ra chiếm 9.3%.
Có 6 học sinh viết được 13 câu đúng yêu cầu đặt ra chiếm 13,9%.
Có 5 học sinh viết được 11 câu đúng yêu cầu đặt ra chiếm 11,6%.
Có 3 học sinh viết được 10 câu đúng yêu cầu đặt ra chiếm 7%.
Có 2 học sinh viết được 9 câu đúng yêu cầu đặt ra chiếm 5%.
Có 5 học sinh viết được 8 câu đúng yêu càu đặt ra chiếm 11,6%.
Có 16 học sinh viết được từ 5 - 7 câu đúng yêu cầu đặt ra chiếm 37,2%.
Từ kết quả thống kê trên, chúng ta có thể thấy được đa số các em đã xác định
tương đối chính xác từ loại tính từ và biết vận dụng để đặt câu.Tuy nhiên, học sinh
vẫn chưa nắm vững kiến thức về từ loại này và vận dụng một cách triệt đế từ loại
này vào cuộc sống. Vì vậy, việc rèn luyện kĩ năng sử dụng tính từ cho học sinh Tiểu
học là cần thiết để học sinh có thể vận dụng vào thực hành các bài tập tính từ và lấy
đó làm nền tảng cho cấp học sau.
Chương 2
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN,
7 NÂNG CAO KĨ NĂNG sử







DỤNG TÍNH TỪ CHO HỌC SINH TIẺU HỌC
2.1.
2.1.1.

Nâng cao năng lực hiểu biết về tính từ cho giáo viên và học sinh
Nâng cao năng lực hiểu biết về tính từ cho giáo viên tiểu học
Giáo viên là người giữ một vai trò quan trọng trong bất cứ một quá trình giáo

dục nào, đồng thời giáo viên cũng là người quyết định tới chất lượng và hiệu quả
dạy học trong phân môn Luyện từ và câu nói chung và dạy học về tính từ nói riêng.
Trong giờ dạy học về tính từ, nếu bản thân người giáo viên tiếu học không nắm chắc
kiến thức về tính từ thì khó có thế giúp học sinh lĩnh hội được nội dung bài học một
cách khoa học. Giáo viên cũng khó có thể giải thích cho học sinh một cách thỏa
đáng, thuyết phục về các hiện tượng ngôn ngữ có thể gặp trong bài học. Do đó, để
nâng cao được hiệu quả dạy học về tính từ, người giáo viên tiểu học phải không
ngừng hiểu, nghiên cứu và bồi dưỡng kiến thức tiếng Việt của bản thân.


×