Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Nghiên cứu về thành phần và sự biến động số lượng của các loài kiến thuộc phân họ ponerinae (hymenoptera formicidae) theo các mùa trong năm tại trạm đa dạng sinh học mê linh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.18 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA SINH - KTNN
Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt

TRẦN THỊ NGÁT

NGHIÊN CỨU VÈ THÀNH PHẦN VÀ SỤ BIẾN ĐỘNG SỐ LƯỢNG
CỦA CÁC LOÀI KIẾN THUỘC PHÂN HỌ PONERINAE (HYMENOPTERA:
FORMICIDAE) THEO CÁC MÙA TRONG NĂM TẠI TRẠM ĐA DẠNG SINH
HỌC MÊ LINH - VĨNH PHỦC



KHÓA LUẬN TỔT NGHIỆP ĐẠI HỌC

•••

Chuyên ngành: Động yật học
Ngưòi hưó’ng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LIÊN TS. ĐÀO
DUY TRINH

HÀ NỘI, 2015
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian thực hiện khóa luận và tiến hành nghiên cứu đề tài tại Viện Sinh thái
và Tài nguyên sinh vật, cũng như học tập tại trường, em đã nhận được sự giúp đỡ và tạo điều
kiện của các thầy cô công tác tại Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, các thầy cô giáo trong
khoa Sinh - KTNN - trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, cùng sự động viên khích lệ của gia
đình và các bạn sinh viên. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đõ’ quý báu này.
Đặc biệt em xin bày tở lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. Nguyễn Thị Phương Liên, CN.


Nguyễn Đắc Đại công tác tại Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, anh Trịnh Xuân Thành


công tác tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh - Vĩnh Phúc và TS. Đào Duy Trinh giảng viên
trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt
2 đã tận tình hướng dẫn, giúp đõ’ em trong suốt thòi gian qua để em có thế hoàn thành khóa
luận.
Em cũng xin bày tở lời cảm ơn đến gia đình, cũng như bạn bè đã tạo điều kiện và giúp đỡ
em hoàn thành khóa luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân, nên khóa luận khó
tránh khởi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo và góp ý của các thầy cô cũng như các bạn
sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015 Sinh viên

thực hiện Trần Thị Ngát

LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị
Phương Liên và TS. Đào Duy Trinh. Tôi xin cam đoan rằng: Đây là kết quả nghiên cứu của

riêng tôi.
Neu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015 Sinh
viên Trần Thị Ngát


Trường ĐHSP Hà Nội 2


Khóa luận tốt

MỤC LỤC

3.1.

Thành phần và vị trí các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae thu được tại

2.
PHỤ LỤC
DANH LỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Thành phần và số lượng các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae thu

DANH LỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Độ ưu thế của các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae thu được tại

THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
UBND: ủy Ban nhân dân VQG: Vườn quốc gia
MỞ ĐÀU
1. Lí do chọn đề tài
Kiến (Hymenoptera, Formicidae) là nhóm côn trùng đa dạng và phong phú về thành phần
loài vào bậc nhất thế giới, có số lượng lớn nhất trong Bộ Cánh màng Hymenoptera. Các nhà


khoa học ước tính có khoảng hơn 34.000 loài kiến tồn tại trên trái đất, trong đó có hon 15.000
loài đã được mô tả (Bolton, 1997).
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt
Kiến được xem là vật chỉ thị sinh học lý tưởng đế đánh giá sự đa dạng sinh học và kiểm

soát môi trường. Kiến được biết đến như một kỹ sư của hệ sinh thái. Ngoài ra, kiến còn được sử
dụng trong phòng trù’ sinh học một số loài sâu hại cho nông nghiệp.
Ớ Việt Nam, mới chỉ có một số tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu về các
loài kiến họ Formicidae, trong khi tiềm năng nghiên cứu về nhóm này ở Việt Nam là rất lớn.
Nghiên cứu của Bùi Tuấn Việt và các cộng sự (năm 2005) đã thống kê được 151 loài thuộc
50 giống và 11 phân họ tại Vưòn quốc gia (VQG) Tam Đảo, trong đó có 28 loài và 9 giống
thuộc phân họ Ponerinae [10].
Ponerinae là một phân họ hoạt động chủ yếu trên mặt đất và trong lóp hữu cơ của những
tầng lá rụng trên mặt đất. Nhóm này chuyên tìm bắt các động vật chân đốt khác, do đó chúng có
vai trò quan trọng trong việc cân bằng hệ sinh thái. Bên cạnh đó, trong quá trình xây dựng tố,
chúng mang các vật chất hữu cơ xuống lòng đất. Hoạt động sống của phân họ này làm thay đổi
tính chất vật lí, hóa học của đất, đồng thời làm tăng độ phì nhiêu của đất. Tuy nhiên, mới chỉ có
nghiên cứu về thành phần các loài kiến được thực hiện tại VQG Tam Đảo, mà chưa có nghiên
cún nào về sự đa dạng và biến động số lượng cá thế của phân họ Ponerinae vào các mùa trong
năm ở VQG Tam Đảo và vùng đệm là Trạm đa dạng sinh học Mê Linh.
Trạm đa dạng sinh học Mê Linh (21°23’57” - 21°25’15” vĩ độ Bắc, 105°42’40” 105°46’65” kinh độ Đông) là vùng đệm của VQG Tam Đảo.
Trạm đa dạng sinh học Mê Linh (Trạm) có diện tích 170,3 ha trong đó chiều dài khoảng
3.000 m, chiều rộng trung bình khoảng 550 m (chỗ rộng nhất khoảng 800 m, chỗ hẹp nhất
khoảng 300 m). Trạm có địa hình đồi và núi thấp với xu hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam.
Tuy có diện tích không lớn nhung Trạm có hệ động, thực vật rất phong phú. Tại đây, đã xác
định được 59 loài động vật có xương sống: 13 loài thú , 14 loài bò sát và 13 loài ếch nhái.
Trong khu bảo tồn bán tự nhiên của Trạm, hiện vẫn có thế bắt gặp nhiều loài động vật như
hươu, lợn rừng, cầy, sóc, dúi, rắn,... Đặc biệt, Trạm sở hữu 1 bộ sưu tập đáng chú ý nhất - bộ
sun tập rùa hiện có 11 loài rùa với trên 80 cá thế. Tại Trạm, có khoảng 1.200 loài cây tự nhiên
và nhân tạo. Hệ thực vật được chia thành các bộ, gồm thực vật trên núi đất, thực vật trên núi đá,
thực vật hạt trần, bộ tre nứa, thực vật ưa ấm, thực vật thủy sinh,.. .Hơn nừa, Trạm có trên 30
loài với 300 mẫu lan khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về côn trùng ở Trạm còn rất ít, đặc biệt


là những nghiên cứu về sự đa dạng của các côn trùng xã hội nói chung và các loài kiến nói

riêng.

Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt
Xuất phát từ những lí do trên, và đế có một cái nhìn tống quát hơn về sự đa dạng của các

loài kiến tại VQG Tam Đảo và vùng đệm, đề tài “ N g h i ê n c ứ u v ề thành phần và sự biến
động số lượng của các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae (Hymenoptera: F'ormicidae) theo các
mùa trong năm tại Trạm đa d ạ n g s i n h h ọ c M ê L i n h - V ĩ n h P h ú c 9 9 được lựa chọn.

2. Mục đích nghiên cứu
-

Đưa ra thành phần các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh.

-

Biến động số lượng các loài kiến thuộc phân họ này theo các mùa trong năm tại Trạm đa dạng
sinh học Mê Linh.

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
-

Ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu nhằm đưa ra những dẫn liệu mới về đa dạng thành phần các loài
kiến thuộc phân họ Ponerinae tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh và xác định những mùa trong
năm mà phân họ này phát triến với số lượng lớn nhất.
- Ý nghĩa thực tiễn: Đe xuất nhừng giải pháp bảo tồn sự đa dạng của các loài kiến thuộc
phân họ này.
4. Điểm mới
Đây là nghiên cứu đầu tiên về sự đa dạng thành phần loài và biến động số lượng của các

loài kiến thuộc phân họ Ponerỉnae theo các mùa trong năm tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh.
CHƯƠNG 1. TỐNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Khái quát về kiến
Tên khoa học: Formicidae Tên tiếng
Anh: Ant Tên Việt Nam: Kiến


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Khóa luận tốt

Hình 1. Loài Emeryopone buttelreepenỉ Forel, 1912
(Nguồn: Nguyễn Đắc Đại)
Cơ thế kiến được chia thành 3 phần: phần đầu, phần ngực và phần bụng. Phần ngực
nối với phần bụng bởi đốt eo.
Phần đầu có hai râu (gồm gốc râu, cuống râu, đốt chuyến, đốt roi và chùy râu), mắt
kép và miệng. Kiến dùng hai râu đế định hướng, ngửi mùi trong không khí, tìm thức ăn và
nhận biết đồng loại. Kiến có hai mắt, mắt kiến thuộc về đa tròng, tức là có nhiều tròng
trong mắt nên chúng chỉ nhìn thấy được một phần của vật thế trong mỗi tròng mắt. Tập họp
các điểm ảnh ở mỗi tròng mắt tạo nên vật thế hoàn chỉnh. Miệng kiến có hai hàm, hàm
ngoài và hàm trong. Hàm ngoài lớn hon hàm trong, dùng để tha thức ăn, tráng hoặc ấu
trùng. Hàm trong của
kiến có hàng lông rất nhỏ mà công dụng như chiếc lược đế lau chùi hai râu.
Phần ngực gồm 3 đốt ngực (đốt ngực trước, đốt ngực giữa, đốt ngực sau) và 3 đôi
chân (chân gồm có đốt háng, đốt đùi, đốt ống, gai ống chân, bàn chân và gai bàn chân). Mỗi
chân được chia ra làm 9 khúc nối nhau bởi những khuỷu chân. Mỗi bàn chân của kiến đều có
hai cái móc. Nhờ vào hai cái móc này mà kiến có thể bám, di chuyển trên cây và các bề mặt.
Kiến cũng dùng các móc này đế bới đất và đào các đường hầm dưới đất. Cặp chân trước cũng
có cái lược giống như hàm trong dùng đế lau chùi những cặp chân khác và đôi râu.
Phần cuối của phần bụng có ngòi đốt.



Kiến là nhóm côn trùng có tập tính xã hội cao và sống thành đàn với số lượng lớn (dao
động khoảng 1.000 - 20.000.000 cá thể trong một đàn). Thông thường trong xã hội kiến, có thế
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt
phân biệt 5 dạng đắng cấp xã hội chính như sau: Kiến chúa sống trong phòng chúa giữa tố, là
những cá thể cái có nhiệm vụ đẻ trứng trong suốt đời sống của mình. Kiến chúa có phần ngực
và đôi cánh phát triển. Mổi tố kiến có tù’ một đến nhiều con kiến chúa. Sau khi bay giao hoan
và phân đàn, kiến chúa rụng cánh, phần ngực và các đôi chân cũng suy kiệt và trở nên yếu ớt.
Lúc này chỉ có các cơ quan chức năng phục vụ sinh sản ở kiến chúa phát triên.
Kiến đực, là các cá thể có phần ngực, cánh và cơ quan sinh dục đực phát
triển
Kiến thợ chiếm số lượng chủ yếu của đàn. Cơ thể kiến thợ có cấu trúc thích ứng với tập
tính sống linh hoạt lao động và đi lại nhiều. Do đó, kiến thợ có nhiệm vụ chăm sóc kiến chúa,
vận chuyển và bảo vệ trứng, tìm kiếm thức ăn, đào đất xây tổ, canh giác tố,... Tất cả nhũng con
kiến thợ này là những kiến cái không có khả năng sinh sản (cơ quan sinh dục tiêu giảm). Hệ cơ
quan cảm giác của chúng phát triển. Các con kiến trong từng tố trao đối với nhau bằng “ thông
tin hóa học - pheromon” còn các con kiến trong mỗi tố phân biệt với các con cùng loài khác tố
bằng mùi.
Kiến lính, là loại to nhất và có bộ hàm lớn nhất, chúng có nhiệm vụ bảo vệ tố chống lại
kẻ thù và bảo vệ kiến thợ đi trên đường.
Một số dạng kiến trung gian cá thế đực, khi cần thiết có thể biến đổi thành con đực, có
chức năng giao phối đế bảo toàn và phát triến xã hội tố tiên. Dạng trung gian thứ hai là những
kiến thợ cá thế cái, có thể chuyển thành kiến chúa đế sinh sản.
Kiến là họ côn trùng ăn tạp. Chúng tìm mồi ở khắp mọi nơi, đôi khi còn lấy của các tố
khác. Và việc vận chuyến thức ăn của chúng tương đối thuận lợi vì chúng có tính tập thế cao,
chúng cùng nhau chuyến thức ăn về tố theo hàng lối nghiêm chỉnh.
Ponerinae là một phân họ của loài kiến thuộc họ Formicidae. Trên thế giới có khoảng
2.347 loài thuộc 48 giống của phân họ Ponerinae đã được ghi nhận [21]. Các loài kiến thuộc

phân họ Ponerinae mang đầy đủ những đặc điếm chung của kiến như sống theo đàn có số lượng
lớn, sự phân chia đẳng cấp trong đàn, tập tính giao phối,... Nhưng bên cạnh đó, chúng cũng
mang nhũng đặc điếm riêng. Phân họ Ponerinae sống chủ yếu ở dưới đất gồm các loài chuyên
bắt mồi như các động vật chân đốt khác, đặc biệt là những loài sâu hại cây trồng. Do đó, chúng


có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc cân bằng sinh thái cũng như bảo vệ cây trồng trong
nông nghiệp.
1.2.

Trường ĐHSP Hà Nội 2
Tình hình nghiên cứu phân họ Ponerinae trên thế giói

Khóa luận tốt

Năm 2007, Yoshimura and Fisher đã xác định được 7 giống (giống A n o c h e t u s , giống
H y p o p o n e r a , giống L e p t o g e n ỵ s , giống O d o n t o m a c h u s , giống P a c h y c o n d y l a ,

giống P l a t y t h y r e a và giống P o n e r a ) thuộc phân họ Ponerinae ở vùng Malagasy [20].
General and Alpert (2012) đã xác định được 11 phân họ, 92 giống tại Philippines, trong
đó có 14 giống thuộc phân họ Ponerinae [15].
Tại Ấn Độ, Bharti and Wachkoo (2013), đã thống kê được 216 loài thuộc giống
L e p t o g e n ỵ s của phân họ Ponerinae, đồng thời ghi nhận được 2 loài mới là

Leptogenys transỉtỉonỉs và Leptogenys lattkeỉ [6].
Năm 2014, Rakotonirina and Fisher đã xác định được 60 loài thuộc giống L e p t o g e n y s
trong phân họ Ponerinae tại Malagasy [14].
1.3.

Tình hình nghiên cứu phân họ Ponerinae trong nước


Ớ Việt Nam, những nghiên cứu về khu hệ kiến được tiến hành từ những năm đầu thế kỷ
21 do một số tác giả trong và ngoài nước thực hiện (Yamane, 2002; Eguchi, Bui & Yamane,
2008; Le, 2010; Eguchi, 2011; Bui, Eguchi & Yamane, 2013), đã phát hiện được 344 loài kiến
thuộc 10 phân họ trong đó xác định được 46 loài kiến thuộc 11 giống của phân họ Ponerinae
trên lãnh thố Việt Nam [8, 9, 12, 13, 18, 19].
Bùi Tuấn Việt (2003) đã xác định được 160 loài thuộc 50 giống và 8 phân họ tại Vườn
Quốc gia Cúc Phương trong đó phân họ Ponerinae có 42 loài thuộc 14 giống; 120 loài thuộc 42
giống trong 8 phân họ tại rừng Hương Son, Hà Tĩnh trong đó phân họ Ponerinae có 27 loài
thuộc 12 giống; tại Sa Pa đã xác định được 87 loài thuộc 33 giống trong đó có 24 loài, 10 giống
thuộc phân họ Ponerinae; tại Vườn Quốc gia Tam Đảo đã ghi nhận được 85 loài thuộc 38 giống
trong đó có 21 loài, 11 giống thuộc phân họ Ponerinae.
Đã ghi nhận được 118 loài kiến thuộc 43 giống ở rừng Hương Sơn, Hà Tĩnh trong đó
có 26 loài, 11 giống thuộc phân họ Ponerinae; 159 loài, 49 giống ở VQG Cúc Phương, trong
đó có 42 loài, 13 giống thuộc phân họ Ponerinae (Bui Tuan Viet, 2005) [3].
Năm 2005, Bùi Tấn Việt và nnk. đã ghi nhận được 151 loài kiến thuộc 46 giống tại VQG
Ba Vì trong đó có 29 loài, 9 giống thuộc phân họ Ponerinae; xác định được 151 loài kiến thuộc
50 giống tại VQG Tam Đảo, trong đó có 28 loài, 9 giống thuộc phân họ Ponerinae [11].


Bùi Thanh Vân và nnk. (2010) đã xác định 50 loài kiến thuộc 31 giống và 5 phân họ tại
VQG Ba Vì, Hà Nội, trong đó phân họ Ponerinae chiếm 14 loài thuộc 8 giống [1].
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt
CHƯƠNG 2. ĐÓI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
2.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tất cả các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae, họ Formicidae, bộ


Hymenoptera, lóp Insecta phân bố ở 4 sinh cảnh: sinh cảnh rừng kín thường xanh mưa mùa
nhiệt đới (rừng cây lá rộng, rừng nứa xen cây gỗ), rừng thưa thường xanh mưa mùa nhiệt đới
(rừng cây lá rộng, rừng nứa xen cây gỗ và rừng giang), rừng trồng dưới tán cây keo và rừng keo
tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh.
2.2.

Thòi gian nghiên cứu
Từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 3 năm 2015

2.3.

Địa điêm nghiên cứu
Địa điểm: Đe tài được thực hiện tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh.
Bốn sinh cảnh được chọn để nghiên cún:
+ Sinh cảnh rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới (rừng cây lá rộng và rừng nứa xen

cây gỗ)
+ Sinh cảnh rừng thưa thường xanh mưa mùa nhiệt đới (rừng cây lá rộng, rừng nứa xen
cây gỗ và rừng giang)
+ Sinh cảnh rừng trồng dưới tán cây keo + Sinh cảnh
rừng keo
2.4.
-

Nội dung nghiên cún

Xác định thành phần loài của phân họ Ponerinae ở Trạm đa dạng sinh học Mê Linh và so sánh
thành phần loài giữa các sinh cảnh khác nhau.

-


Xác định các loài kiến chiếm ưu thế theo số lượng cá thề thu được.

-

Nhận xét về sự biến động số lượng các loài trong phân họ Ponerinae theo các mùa trong năm.

2.5.
2.5.1.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu mâu ngoài thực địa

-

Thời gian thu mẫu: mẫu được thu thập từ tháng 6/2012 đến tháng 5/2013.

-

Địa điếm thu mẫu: được thực hiện ở 4 sinh cảnh là rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới,
rừng thưa thường xanh mưa mùa nhiệt đới, rừng trồng dưới tán cây keo, ròng keo tại Trạm đa
dạng sinh học Mê Linh.


-

Kiến được thu thập chủ yếu bàng phương pháp bẫy hố. Bầy hố được làm từ các cốc nhựa có
đường kính 10 cm, chiều cao 13 cm, mỗi cốc chứa 20 ml cồn với 4% foocmon. Cốc được đặt
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt

thấp hơn mặt đất khoảng 1 cm.

-

Sử dụng bẫy hố để điều tra định lượng. Tổng số có 15 bẫy được đặt ở mỗi điếm sinh cảnh.
Khoảng 10 ngày thu mẫu từ các bẫy hố một lần, đế cách 10 ngày rồi lại đặt bẫy, sau 10 ngày lại
thu mẫu lần tiếp theo.

-

Ngoài ra, các loài kiến bò trên mặt đất, dưới lớp thảm mục, trong thân cây mục, dưới tán cây
cao từ 1-1,5 m còn được thu thập bằng các phương pháp khác như bắt bằng tay, sử dụng panh
và rây sàng 30x30 cm.

2.5.2
-

Phương pháp phân tích mâu vật trong phòng thỉ nghiêm

Mau sau khi được thu thập sẽ được tách lọc và bảo quản trong cồn 70%. Sau đó, mẫu kiến được
làm khô và cắm lên bằng kim cắm côn trùng đối với mẫu vật có kích thước lớn, những mẫu vật
có kích thước nhỏ được dính trên miếng bìa cứng hình tam giác, sau dùng kim côn trùng đế
cắm.

-

Mỗi mẫu có 1 etiket riêng.

-


Mau được đế trong các hộp gỗ, lun giữ tại phòng Sinh thái côn trùng, Viện Sinh thái và Tài
nguyên Sinh vật.

2.5.3.

Xử lí và phân tích mâu vật
Xử lí và bảo quản mẫu bằng cồn 70°
Xử lý số liệu và vẽ biếu đồ bằng phần mềm excel 2010.
Các số liệu được tính toán dựa trên cơ sở sau:

* Độ ưu thế (D) của 1 loài được tính bằng tỷ lệ phần trăm số lượng cá thể của một loài so với
tống số cá thể thu được

£> = —xioo
N
Trong đó ĩiị: số lượng cá thế loài i
N: Tổng số cá thể thu được.
* Chỉ số đa dạng sinh học của Shannon - Weiner ( H’)
H

'=~Ỳ, p, ìoễ(p,)
i=ỉ

Trong đó: n: số lượng loài


ĩij: số lượng cá thế loài i N: Tổng số lượng cá
2.5.4.

thế thu được

Trường ĐHSP Hà Nội 2
Phương pháp định loại

Khóa luận tốt

- Việc định tên các loài kiến được dựa theo Bolton (1994), Eguchi et al. (2011), Jaitrong (2011),
Yamane (2012) cùng sự giúp đờ của TS. Nguyễn Thị Phương Liên và CN. Nguyễn Đắc Đại.
2.6.

Một vài nét khái quát về Trạm đa dạng sinh học Mê Linh, Vĩnh Phúc
Theo tài liệu của ƯBND xã Ngọc Thanh (2004) [5] và báo cáo khoa học của Lê Đồng

Tấn (2003) [4], Trạm đa dạng sinh học Mê Linh - Vĩnh Phúc có những đặc điểm sau:
2.6.1.

Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên

2.6.1.1.

Vị trí địa lí
Trạm đa dạng sinh học Mê Linh nằm trong địa phận của hợp tác xã Đồng Trầm, thuộc

xã Ngọc Thanh, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc, cách thị xã Phúc Yên 35km, cách hồ Đại Lải
khoảng 12km về phía Bắc. Khu trực trạm ở phía Bắc giáp huyện Phố Yên, tỉnh Bắc Thái, phía
Đông giáp họp tác xã Đồng Trầm, xã Ngọc Thanh, huyện Mê Linh, phía tây giáp vùng ngoại vi
Vườn Quốc gia Tam Đảo, huyện Tam Đảo.
Diện tích của Trạm đa dạng sinh học Mê Linh - Vĩnh Phúc khoảng 170,3 ha, chiều dài
khoảng 3.000m, chiều rộng từ 300-800m. Độ cao từ 50-520m so với mặt nước biển.
2.6.1.2.
-


Điều kiện tự nhiên

Địa hình: Trạm đa dạng sinh học Mê Linh thuộc vùng bán sơn địa phía Bắc huyện Mê Linh.
Đây là phần kéo dài về phía Đông Nam của dãy Tam Đảo, có địa hình đồi núi thấp với xu
hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, điếm cao nhất thuộc đỉnh núi Đá Trắng cao 520m. Địa hình
phần lớn là đất dốc (độ dốc trung bình 15-30°), các bãi bằng rất ít, rải rác vài ba bãi nhở dọc
ven suối vùng ranh giới phía Tây. Đây là khu vực rừng đầu nguồn của một vài suối nhỏ chảy ra
hồ Đại Lải [5].

-

Khí hậu, thời tiết
+ Thuộc vùng khí hậu chung của đồng bằng Bắc Bộ. Nhiệt độ trung bình năm là 22 đến
23°c. Tháng có nhiệt độ cao từ tháng 6 đến tháng 8 và lạnh vào tháng 12 và tháng 1 [5].
+ Lượng mưa trung bình 1358,7mm/năm. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng

10, chiếm 90% lượng mưa của cả năm. Mưa tập trung vào các tháng 6,7,8,9. Cao nhất là vào tháng
8. số ngày mưa khá nhiều 142 ngày/năm. Độ ấm trung bình là 84%, thấp vào tháng 2 dưới 80%
[5].


+ Có 2 mùa gió thối: gió mùa Đông Bắc (tháng 10 đến tháng 3 năm sau) và gió Đông
Nam (tháng 4 đến tháng 9 trong năm) [5].
Trường ĐHSP Hà Nội 2
Khóa luận tốt
2.6.2.
Tài nguyên động, thực vật tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh, Vĩnh Phúc.
-


Hệ động vật: Theo kết quả điều tra năm 2003 đã xác định thành phần phân loại học của 5 lớp:
thú (13 loài), chim (109 loài), bò sát (14 loài), ếch nhái (13 loài), côn trùng (25 bộ, 99 họ, 461
loài) [4].

-

Hệ thực vật: Trạm đa dạng sinh học Mê Linh hiện có 166 họ thực vật với 651 chi và 1129 loài.
Có thể nói rằng thảm thực vật nguyên sinh ở Trạm đa
dạng sinh học Mê Linh đã bị phá hủy hoàn toàn, thay thế vào đó là các trạng thái rừng thứ
sinh và rừng trồng [4].


CHƯƠNG 3. KÉT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1.

Thành phần và vị trí các loài kiến thuộc phân họ Ponerìnae thu được tại

Trạm đa dạng sinh học Mê Linh.




3.1.1.

o



Thành phân các loài kiến thuộc phân họ Ponerỉnae
Trong tống số 3440 cá thế kiến của phân họ Ponerinae thu được tại các điểm


nghiên cứu, tôi đã xác định được 17 loài kiến thuộc 8 giống (bảng 3.1) Bảng 3.1.
Thành phần và số lượng các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae thu được ở Trạm
đa dạng sinh học Mê Linh
ST

Tên loài

Số lượng cá thể kiên thu được ở Tổng các

Tỷ lệ cá

sinh cảnh nghiên cứu

thể của

số

một loài
trên tông
sô các
loài kiến
(%)

Rừng
Rùng
Rừng
kín
thưa
trồng

thường
thường
dưới
xanh
xanh
tán cây
mưa
mưa
keo
1. Giống Anochetus

Rừn
g



1

Ấ. r i s i i

2

2

9

0

13


0,38

1

0

0

0

1

0,03

55

80

13

3

151

4,39

2

0


7

0

9

0,26

237

34

0

464

13,49

2. Giông Centromymex
2

C. fecie

3. Giông Diacamma
3

D. sp of LD

4. Giông Harpegnathos
4


H . Ve n a t o r

5. Giông Leptogenys
5

L. kitte lì

193

6

L. kraepeỉini

7

0

0

0

7

0,20

7

L. peuqueti


3

0

5

0

8

0,23

8

L. splofLD

0

1

39

18

58

1,69

9


L. sp2 of LD

16

0

0

0

16

0,46

535

502

30

0

1067

31,01

351

475


77

1036

30,12

6. Giông Odontomachus
10

0. montícola

7. Giông Odontoponera
11

0. denticuỉata

133

12

0. sp of LD

0

1

0

0


1

0,03

8. Giông Pachycondyla
13

p. lobocaren

260

25

5

0

290

8,43

14

p. luteipes

51

32

0


0

83

2,41

15

P. r u f i p e s

1

9

93

59

162

4,71

16

P. s p l o f L D

1

0


12

0

13

0,38

17

P. s p 2 o f L D
rp Á Á
Tông sô

0

0

3

58

61

1,78

1260

1240


725

215

3440

100

Trong 4 sinh cảnh nghiên cứu thì số lượng cá thế thu được ở rừng kín thường xanh
mưa mùa nhiệt đới là nhiều nhất với 1260 cá thế, tiếp đến là sinh


cảnh rừng thưa thường xanh mưa mùa nhiệt đới với 1240 cá thể, sau đó đến sinh cảnh
ròng trồng dưới tán cây keo với 725 cá thể, cuối cùng là sinh cảnh rừng keo có số
lượng cá thế ít nhất với 215 cá thế.
Bảng 3.2. Chỉ số đa dạng loài của kiến tại Trạm đa dạng sinh học
ơ

Mê Linh



o



Sinh cảnh






o



Chỉ sô Shannon - Weiner (H)

Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới

Rừng thưa thường xanh mưa mùa nhiệt

0,702

0,628

đới
Rừng trông dưới tán cây keo

0,566

Rừng keo

0,583

Dựa vào bảng trên, ta thây chỉ sô đa dạng Shannon - Weiner (H) ở sinh cảnh
rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới là cao nhất (0,702), tiếp đó đến sinh cảnh
rừng thưa thường xanh mưa mùa nhiệt đới (0,628), sinh cảnh rừng keo (0,583) và
thấp nhất là sinh cảnh rừng trồng dưới tán cây keo (0,566).

Sự khác biệt về mức độ đa dạng ở các sinh cảnh nghiên cứu có thế do một số
nguyên nhân sau:
Rừng trồng dưới tán cây keo có thế bị con người tác động mạnh mẽ làm thay
đối tính chất lí, hóa của môi trường, đặc biệt là môi trường đất theo chiều hướng xấu,
nguồn thức ăn, nơi sống bị hạn chế. Từ đó, sự đa dạng loài kiến ở sinh cảnh này thấp
hơn so với các sinh cảnh khác.
Phần lớn các loài kiến là sinh vật ăn thịt, vì vậy sự tồn tại của chúng trong sinh
cảnh nào đó sẽ phụ thuộc vào nguồn thức ăn của chúng trong sinh cảnh đó. Trong
quần xã sinh vật ở sinh cảnh rùng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới có nhũng loài
động vật không xương sống mà không có ở các sinh cảnh còn lại (ngược lại). Chang


hạn như loài C e n t r o m y m e x f e a e chỉ có ở sinh cảnh rừng kín thường xanh mưa
mùa nhiệt đới mà không tìm thấy ở 3 sinh cảnh còn lại,
nguyên nhân nào mà loài C e n t r o m y m e x f e a e , chỉ được bắt gặp ở sinh cảnh rừng
kín thường xanh mưa mùa nhiệt đói, hay do các nhân tố sinh thái thì cần được nghiên
cứu thêm để có kết luận chính xác. Hoặc loài L e p t o g e n y s s p l o f L D lại không
tìm thấy ở rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới nhưng lại xuất hiện ở
3 sinh cảnh còn lại. Hay loài P a c h y c o n d y l a l u t e ỉ p e s xuất hiện ở 2 sinh cảnh rừng
kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới và rừng thưa thường xanh mưa mùa nhiệt đới mà
không có ở sinh cảnh rừng trồng dưới tán cây keo và sinh cảnh rừng keo. Do đó, sự
xuất hiện các loài kiến ở các sinh cảnh là khác nhau.
Tập hợp các loài thiên địch của kiến có thế khác nhau giữa các sinh cảnh. Có
những loài thiên địch xuất hiện ở sinh cảnh này mà không có ở sinh cảnh khác. Đây
cũng là 1 lý do khiến cho các sinh cảnh có sự đa dạng các loài kiến khác nhau.
3.1.2.

So loài và so lượng cá thế của các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae
Trong số 8 giống đã xác định được thì thấy 2 giống có số loài nhiều nhất và


cùng có 5 loài là giống L e p t o g e n ỵ s và giống P a c h y c o n d y l a (cùng chiếm
29,42%). Hai giống này chiếm ưu thế về số lượng loài tại các sinh cảnh nghiên cún.
Giống O d o n t o p o n e r a có 2 loài (chiếm 11,76%). Năm giống còn lại có số loài ít
nhất, mỗi giống chỉ có 1 loài, chiếm 5,88% bao gồm giống A n o c h e t u s , giống
C e n t r o m y m e x , giống D i a c a m m a giống H a r p e g n a t h o s và giống
O d o n t o m a c h u s (Bảng 3.3).

Bảng 3.3. Số loài và số lượng cá thế thuộc các giống của phân họ Ponerinae thu
được tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh


STT

Giông

Sô loài

Tỷ lệ (%)

Sô cá thê

Tỷ lệ (%)

1

Anochetus

1

5,88


13

0,38

2

Centromymex

1

5,88

1

0,03

3

Diacamma

1

5,88

151

4,39

4


Harpegnatho
s
Leptogenys

1

5,88

9

0,26

5

29,42

553

16,08

Odontomach
us
Odontoponer
a
Pachycondyl
a
Tông sô

1


5,88

1067

31,01

2

11,76

1037

30,15

5

29,42

609

17,70

17

100

3440

100


5
6
7
8

O d o n t o m a c h u s chiếm ưu thế về số lượng cá thề (chiếm 31,01% tống số cá thề

thu được). Giống O d o n t o p o n e r a có số lượng cá thể đứng thứ hai (chiếm 30,15%
tổng số cá thể thu được). Tiếp đến là giống P a c h y c o n d y l a (chiếm 17,70% tổng
số cá thể thu được), giống L e p t o g e n y s (16,08%), giống D i a c a m m a (4,39%),
giống

Anochetus

(0,38%),

giống

Harpegnathos

(0,26%).

Giống

C e n t r o m y m e x có số lượng cá thể ít nhất, chỉ thu được 1 cá thể (chiếm 0,03%).

3.1.3.

Các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae chiếm ưu thế ve so lượng cả thê đã


thu được
Trong tống số 17 loài kiến thu được tại các sinh cảnh ở Trạm đa dạng sinh học
Mê Linh, 6 loài được tôi ghi nhận là phố biến, có số lượng cá thế bắt gặp cao (bắt
gặp trên 100 cá thể/1 loài), kết quả ở bảng 3.4 và hình 3.1.
Chiếm ưu thế về số lượng cá thể thu được tại các sinh cảnh nghiên cứu là loài
O d o n t o m a c h u s m o n t í c o l a (chiếm 31,01% tống số cá thể kiến thu được) và

loài O d o n t o p o n e r a d e n t i c u ỉ a t a (chiếm 30,12% tống số cá thế kiến thu
được).


Tiếp đến là 2 loài có số lượng cá thể bắt gặp tương đối cao bao gồm: L e p t o g e n y s
k ỉ t t e l i (chiếm 13,49%) và P a c h ỵ c o n d y l a ỉ o b o c a r e n (chiếm 8,43%). Hai loài

có số lượng cá thế thấp là P a c h y c o n d y l a

r u ỷ ỉ p e s (chiếm 4,71%) và

D i a c a m m a s p (chiếm 4,39%). Các loài còn lại chiếm tỷ lệ rất thấp (bao gồm 11

loài, mỗi loài trung bình chiếm tỷ lệ 0,71% tổng số cá thể kiến thu được).
Bảng 3.4. Số lượng cá thể của các loài kiến phổ biến trong tổng số lượng cá thể
kiến thu được tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh
STT

Tên loài

Sô lượng cá thê


Tỷ lệ (%)

1

Odontomachus montícola

1067

31,01

2

1036

30,12

3

Odontoponera
dentỉcuỉata
Leptogenỵs kitteli

464

13,49

4

Pachycondyla ỉobocaren


290

8,43

5

Pachycondyla rufipes

162

4,71

6

Dỉacamma sp ofLD

151

4,39

7

Các loài còn lại (11 loài)

270

7,85

3440


100

Tông sô



Odontomachus
montícola



Odontoponera
denticulata



Leptogenys kitteli



Pachycondyla
lobocaren



Pachycondyla rufipes



Diacamma sp of LD




Các loài còn lại


Hình 3.1. Độ ưu thế của các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae thu được tại
Trạm đa dạng sinh học Mê Linh
Điều tra tại 4 sinh cảnh, tôi nhận thấy kích thước quần thế của mỗi loài rất
khác nhau ở từng sinh cảnh (bảng 3.5 và hình 3.2)
Bảng 3.5. Số lượng cá thế loài thu được ở các sinh cảnh nghiên cứu
của 6 loài kiến phổ biến
STT

Tên loài

Sô lượng cá thê kiên thu được ở các sinh cảnh

Rừng

kín Rừng

thưa Rừng trồng

Tông
Số

Rừng keo

thường xanh thường xanh dưới tán cây

mưa

mùa mưa

nhiệt đới

1

Odontomachu
s
montícola

535

mùa

keo

nhiệt đới

502

(50,14%) (47,05%)

30
(2,81%)

0

1067

(100%)


2

3

Odontoponer
a
denticuỉata
Leptogenys
kitte li

4

5

Pachycondyla
lobocaren
Pachycondyla
rufipes

6

Diacamma sp
ofLD

133

351


475

77

(12,84%)

(33,88%)

(45,85%)

(7,43%)

(100%)

193

237

34

0

464

(41,59%)

(51,08%)

(7,33%)


260

25

5

(89,66%)

(8,62%)

(1,72%)

1

9

93

59

162

(0,62%)

(5,55%)

(57,41%)

(36,42%)


(100%)

55

80

13

3

151

(36,42%)

(52,98%)

(8,61%)

(1,99%)

(100%)

V*

1036

(100%)

0


290
(100%)

rừng kín thường xanh mưa mùa
nhiệt đới

Hình 3.2. Số lượng cá thể kiến thuộc phân họ Ponerinae thu được ồ’ các sinh cảnh
khác nhau của 6 loài kiến phố biến
Kết quả bảng 3.5 và hình 3.2 cho thấy:
Loài O d o n t o m a c h u s m o n t í c o l a chiếm ưu thế về số lượng cá thế ở sinh

■ rừng thưa thường xanh mưa mùa
nhiệt đới
■ rừng trồng dưới tán cây keo
■ rừng keo


cảnh rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới, sau đó đến sinh cảnh rừng thưa thường
xanh mưa mùa nhiệt đới, sinh cảnh rừng trồng dưới tán cây keo.
Loài O d o n t o p o n e r a d e n t i c u l a t a chiếm ưu thế về số lượng cá thế ở sinh
cảnh rùng trồng dưới tán cây keo. Tiếp đến là sinh cảnh rừng thưa thường xanh mưa
mùa nhiệt đới, rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới và tìm thấy số lượng cá thể
kiến ít nhất ở sinh cảnh rùng keo.
Trong 4 sinh cảnh nghiên cứu, loài L e p t o g e n y s k i t t e l ỉ có số lượng cá thế
thu được cao nhất tại sinh cảnh rừng thưa thường xanh mưa mùa nhiệt đới trong khi
loài P a c h y c o n d y l a ỉ o b o c a r e n thu được số lượng cá thế nhiều nhất tại rùng kín
thường xanh mưa mùa nhiệt đới. Cả ba loài này ( O d o n t o m a c h u s m o n t í c o l a ,
L e p t o g e n y s k i t t e ỉ i và P a c h y c o n d y l a l o b o c a r e n ) đều không tìm thấy ở


sinh cảnh rừng keo và gặp rất ít ở sinh cảnh rừng trồng dưới tán cây keo.
Loài P a c h y c o n d y l a r u f i p e s có số lượng cá thế thu được cao nhất ở sinh
cảnh rừng trồng dưới tán cây keo, tiếp đến là sinh cảnh rừng keo, sinh cảnh rừng thưa
thường xanh mưa mùa nhiệt đới và thấp nhất ở sinh cảnh rừng kín thường xanh mưa
mùa nhiệt đới.
Loài D i a c a m m a s p o f L D thu được với số lượng cá thế nhiều nhất ở sinh
cảnh rừng thưa thường xanh mưa mùa nhiệt đới, sau đó đến sinh cảnh rừng kín thường
xanh mưa mùa nhiệt đới và ít nhất ở sinh cảnh rừng keo.
Như vậy, qua kết quả của các bảng và các hình, ta thấy thành phần và vị trí các
loài kiến thuộc phân họ Ponerinae thu được ở Trạm đa dạng sinh học Mê Linh rất đa
dạng và phong phú.
3.2.

Tương quan giữa số lượng các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae với số cá thê

thu được tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh
Ket quả phân tích sự đa dạng của các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae (bảng
3.6) cho thấy: Tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh có 2 loài chỉ bắt gặp 1 cá thế trong


suốt thời gian nghiên cứu. Những loài bắt gặp duy nhất 1 cá thể tại vùng nghiên cún
thuộc tình trạng đon độc ( S t a t e o f a l o n e ) rất có ý nghĩa trong khoa học đặc biệt
trong công tác bảo tồn, những vùng có nhiều loài trong tình trạng tương tự như vậy với
một hệ sinh thái chưa ốn định có nhiều tác động gây suy giảm sự phong phú của loài.
Bảng 3.6. Sự đa dạng của các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae tại Trạm đa
dạng sinh học Mê Linh
Sô cá thẽ/loài

Sô cá thê thu được


Sô loài

1

2

2

7

7

1

8

8

1

9

9

1

13

26


16

16

1

58

58

1

61

61

1

83

83

1

151

151

1


162

162

1

290

290

1

464

464

1

1036

1036

1

1067

1067

1


Tông cộng

3440

17


Số cá thể thu được

Hình 3.3. Tương quan giữa số lượng các loài kiến theo số cá thể thu được
Từ hình 3.3, ta có thể chia độ đa dạng của các loài kiến tại khu vực nghiên
cứu thành 2 nhóm:
Nhóm 1 có sự đa dạng trung bình về loài với 2 loài. Trong nhóm này lại
chia ra thành 2 nhóm nhỏ: nhóm có kích thước nhỏ, mỗi loài có 1 cá thế (bao
gồm 2 loài) và nhóm có kích thước trung bình , mỗi loài có 7-16 cá thế (bao
gồm 2 loài).
Nhóm 2 ít đa dạng, có số loài là 1 loài. Trong nhóm này ta lại chia thành 2
nhóm nhỏ: nhóm có kích thước quần thế trung bình , mỗi loài có 7-16 cá thế (bao
gồm 4 loài) và nhóm có kích thước quần thế lớn, mỗi loài có 58-1067 cá thể (bao
gồm 9 loài).
Như vậy, về mặt bảo tòn những loài nằm trong nhóm 1 và đặc biệt là nhóm
có kích thước quần thế nhở (1 cá thế) cần được bảo vệ và duy trì hơn so với nhóm
2.
3.3.

Sự phân bổ của các loài kiến thuộc phân họ Ponerinae ở các sinh

cảnh
Dựa vào số loài kiến thu được, tôi đánh giá sự phân bố của khu hệ kiến
trong vùng nghiên cứu theo 4 sinh cảnh (xem bảng 3.7 và hình 3.3).

Bảng 3.7. Số lượng loài kiến của các giống thuộc phân họ Ponerinae bắt gặp tại
bốn sinh cảnh nghiên cứu


STT

Giông

Sô lượng loài ở các sinh cảnh
Rừng Rừng
kín

thường

thưa

Rừng

xanh

trồng

Rừng
keo

Tông
Số

thường mưa mùa nhiệt dưới tán
xanh


đới

cây keo

mưa
mùa
nhiệt
1

Anochetus

đới
1

2

Centromymex

1

0

0

0

1

3


Diacamma

1

1

1

1

1

4

Harpegnatho
s
Leptogenỵs

1

0

1

0

1

4


2

3

1

5

Odontomach
us
Odontoponer
a
Pachycondỵl
r-r-1 /\a
Tông so

1

1

1

0

1

1

2


1

1

2

4

3

4

2

5

14

10

12

5

17

5
6
7

8

1

1

0

1

là sinh cảnh rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới (14 loài), tiếp đến là sinh
cảnh rừng trồng dưới tán cây keo (12 loài), sinh cảnh rừng thưa thường xanh mưa
mùa nhiệt đới (10 loài) và thấp nhất là ở sinh cảnh rừng keo (5 loài).
Bốn giống ghi nhận được ở cả 4 sinh cảnh là giống D i a c a m m a , giống
L e p t o g e n y s , giống O d ơ n t o p o n e r a , giống P a c h y c o n d y l a . Hai giống
A n o c h e t u s và giống O d o n t o m a c h u s đều không bắt gặp ở sinh cảnh rùng

keo. Giống


×