Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

báo cáo nghiên cứu khoa học ' dẫn liệu về số lượng và sự biến động số lượng của sếu đầu đỏ (grus antigone sharpii blanford, 1929) ở vườn quốc gia tràm chim, huyện tam nông, tỉnh đồng tháp'

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.81 KB, 9 trang )




Báo cáo nghiên cứu
khoa học:

"Dẫn liệu về số lượng và
sự biến động số lượng
của Sếu đầu đỏ (Grus
antigone sharpii
Blanford, 1929) ở Vườn
Quốc gia Tràm Chim,
huyện Tam Nông, Tỉnh
Đồng Tháp"



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4a-2008


27
Dẫn liệu về số lợng và sự biến động số lợng của Sếu
đầu đỏ (Grus antigone sharpii Blanford, 1929) ở Vờn Quốc
gia Tràm Chim, huyện Tam Nông, Tỉnh Đồng Tháp

Nguyễn Cử
(a)
, Đỗ Thị Nh Uyên
(b)




Tóm tắt. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu về sự biến động số lợng của Sếu
đầu đỏ (Grus antigone sharpii Blanford, 1929) ở Vờn Quốc gia (VQG) Tràm Chim,
huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp trong thời gian từ tháng 12/2007 đến tháng
06/2008. Kết quả đã cho thấy thời gian Sếu đầu đỏ tập trung về VQG chủ yếu từ tháng
2 đến tháng 4 trong năm, vào thời gian này số lợng của chúng đạt cao nhất là 126 cá
thể (tháng 4/2008). Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng đã phân tích sự biến động
số lợng của đàn Sếu từ năm 2000 đến năm 2008 và chỉ ra nguyên nhân của sự biến
động này. Bài báo cũng đã nêu một số đề xuất giải pháp bảo tồn nhằm ổn định số
lợng đàn Sếu đầu đỏ ở VQG Tràm Chim.

I. Mở đầu
Loài Sếu đầu đỏ đợc tìm thấy lại ở VQG Tràm Chim vào năm 1986 thuộc
phân loài Sếu phơng đông Grus antigone sharpii Blanford, 1929; đây là một trong
ba phân loài của loài Sếu đầu đỏ Grus antigone (Linnaeus,1758). Phân loài này có
kích thớc lớn và hiện đang bị đe dọa ở Việt Nam cũng nh trên toàn cầu ở mức sẽ
nguy cấp (VU) [2, 5]. Quần thể thế giới của phân loài này hiện gặp ở VQG Tràm
Chim ớc tính có khoảng 500 - 1.000 cá thể [7]. Số lợng của chúng trong khu vực
nói chung cũng nh ở VQG Tràm Chim nói riêng thờng biến động qua các năm và
đang có chiều hớng ngày càng suy giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Để duy
trì sự tồn tại và phát triển của Sếu đầu đỏ cần tiến hành các hoạt động điều tra
nghiên cứu một cách thờng xuyên nhất là tại VQG Tràm Chim để từ đó có thể đề
xuất các giải pháp thích hợp nhằm bảo vệ, duy trì sự ổn định và phát triển về số
lợng của chúng.
ở Việt Nam, trớc đây (khoảng năm 1924) đã gặp từng đôi Sếu hoặc từng
nhóm ở vùng Trung Trung bộ và Nam Bộ [1]. Một số thông tin khác cho rằng trong
thập niên 1950, Sếu đầu đỏ thờng sinh sản ở đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên,
cho đến ngày 5 tháng 1 năm 1986 mới chính thức quan sát đợc 46 con Sếu đầu đỏ ở
vùng Tam Nông [8]. Những ghi nhận trong các năm tiếp theo của thập kỷ 90 đã cho
thấy Sếu đầu đỏ có ở Tràm Chim (tỉnh Đồng Tháp), Kiên Lơng (tỉnh Kiên Giang),

VQG Lò Gò Xa Mát (tỉnh Tây Ninh), VQG Cát Tiên (tỉnh Đồng Nai), và một vài nơi
khác trong vùng rừng khộp thuộc huyện Buôn Đôn và Ê Súp thuộc tỉnh Đắc Lắk
(theo ICF).
Bài viết đã trình bày các kết quả điều tra nghiên cứu về số lợng và sự biến
động số lợng của Sếu đầu đỏ qua các năm (từ 2000 đến 2008) tại VQG Tràm Chim
và nêu một số đề xuất thích hợp dựa trên các kết quả thu đợc.

Nhận bài ngày 01/10/2008. Sửa chữa xong 21/11/2008.




N. Cử, Đ. T. N. Uyên và biến động số lợng của Sếu đầu đỏ , TR. 27-34


28
II. Địa điểm, thời gian và phơng pháp nghiên cứu
2.1. Địa điểm, thời gian
Nghiên cứu thực địa đợc tiến hành từ tháng 12/2007 đến hết tháng 6/2008
tại 05 địa điểm của VQG Tràm Chim, đó là:
Khu A1: có diện tích 4.942,8 ha, thuộc phân khu bo v nghiêm ngt, có ranh
gii là kênh An Bình (phía Bc); kênh Phú Thành (phía Tây); ê bao s 4 ( phía
ông); ê bao s 1 ( phía Nam). Hệ thực vật đặc trng gồm các loài c nng
(Eleocharis atropupurea, E. dulcis); lúa ma (Oryza nutifugon); c ng (Panicum
repens); c mm (Ischaemum indicum); m ly sen, ngh (Nelumbium nelumbo) và
tràm (Melaleuca cajiputi). Hệ thống kênh gồm kênh Ba Hồng, kênh Mời Nhẹ và
kênh Phú Đức.
Khu A2: Tng din tích 1.122,7 ha. Thảm thực vật gồm c nng (Eleocharis
dulcis); c ng (Panicum repens); c mm (Ischaemum indicum); ngh (Polygonum
tomentosum); rng tràm (Melaleuca cajiputi) và cây mai dng (Mimosa pigra)

chiếm 26 ha.
Khu A3: Tng din tích là 44,5 ha. Trong ó thực vật đặc trng có c năng
(Eleocharis atropupurea; E. dulcis); c ng (Panicum repens); mai dng dày 5,1 ha.
Khu A4: Tng din tích 731,9 ha. Trong ó, c nng (Eleocharis atropupurea;
E. dulcis); c ng (Panicum); rừng tràm (Melaleuca cajiputi) và mai dng là 142,2
ha.
Khu A5: Vi din tích 440,5 ha, thực vật đặc trng gm ng c nng (E.
atropupurea, E. dulcis); ng c ng (Panicum repens); mai dng dày (Mimosa
pigra) là 91,4 ha; rng tràm (Melaleuca cajiputi); các loi t khác (kênh, b ê).

Hình 1: Bản đồ VQG Tràm Chim - các điểm đếm Sếu (vị trí cờ)



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4a-2008


29
2.2. Phơng pháp và t liệu nghiên cứu
- Tính số lợng cá thể Sếu đầu đỏ đợc tiến hành theo phơng pháp của Tổ
chức Sếu Quốc tế (ICF) đã sử dụng, cụ thể nh sau:
Bố trí ngời đếm ở những vị trí đã định sẵn, là những nơi có tầm quan sát
rộng. Qui định và thống nhất các giờ đếm sếu trong ngày tại tất cả các điểm đếm.
Ghi nhận lại đầy đủ tất cả các kết quả đếm ở từng điểm trong cùng một thời gian.
Sau đó cộng số cá thể ghi nhận đợc ở tất cả các điểm trong cùng một thời điểm và
lấy kết quả ở thời điểm có số cá thể ghi nhận cao nhất.
- Tổng số có 17 điểm đếm đợc bố trí gồm 11 điểm ở khu A1; 1 điểm ở khu A2;
1 điểm ở khu A3; 1 điểm ở khu A4 và 3 điểm ở khu A5. Mỗi điểm đếm đợc bố trí 1
ngời.
- Thời gian đếm trong ngày đợc tiến hành từ 6h00đến 8h30, mỗi lần đếm

cách nhau 10 phút.
- áp dụng các phơng pháp truyền thống về điều tra chim trong tự nhiên, đặc
biệt là tại các vùng đất ngập nớc với các trang bị thông thờng nh ống nhòm, máy
ảnh và xuồng để đi lại quan sát trên các kênh rạch.
- Tham khảo các t liệu nghiên cứu có liên quan [4, 6, 9].
- Có sự hợp tác trong điều tra nghiên cứu với cán bộ kỹ thuật, kiểm lâm viên
của VQG Tràm Chim.
III. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Số lợng và biến động số lợng Sếu đầu đỏ ở VQG Tràm Chim
- Từ năm 2007 đến năm 2008:
Từ tháng 12/2007 đến 6/2008 là thời gian mùa khô ở vùng đồng bằng sông
Cửu Long, và là lúc những con sếu đầu tiên đã bắt đầu xuất hiện và ở lại Tràm
Chim trong suốt thời gian này để kiếm ăn. Số lợng cá thể Sếu đầu đỏ ở các khu vực
trong VQG tại thời điểm này đợc tổng hợp ở bảng 1 dới đây.
Bảng 1: Số lợng cá thể Sếu đầu đỏ ở VQG Tràm Chim từ tháng 12/2007 - 6/2008

Năm 2007

Năm 2008
Thời gian


Khu vực
Tháng 12

Tháng 1

Tháng 2

Tháng 3


Tháng 4

Tháng 5

Tháng 6

A1 2 5 0 10 12 4 0
A2 0 0 0 3 0 0 0
A3 0 0 0 0 0 0 0
A4 0 0 16 19 22 0 0
A5 5 6 41 74 92 0 0
Tổng số 7 11 57 106 126 4 0

Nh vậy có thể thấy tại VQG Tràm Chim số lợng Sếu đầu đỏ bay đến tập
trung chủ yếu ở khu A4 và A5, đây là nơi có nhiều bãi cỏ năng là nguồn thức ăn chủ
yếu của chúng, lại có địa hình trống trải, yên tĩnh. Thời điểm Sếu đầu đỏ tập trung



N. Cử, Đ. T. N. Uyên và biến động số lợng của Sếu đầu đỏ , TR. 27-34


30
đông nhất để kiếm ăn lên tới 92 cá thể ở khu A5 (ngày 15/4). Ngoài ra Sếu còn di
chuyển đến các khu A1 và A2 để uống nớc và ngủ. Khu A3 là nơi duy nhất hiện nay
không có Sếu về sinh sống, nguyên nhân chủ yếu do khu vực này bị cây mai dơng
xâm chiếm nên cỏ năng không phát triển đợc.
Sự biến động số lợng của Sếu đầu đỏ đợc thể hiện nh sau (biểu đồ 1).



Kết quả trên đã cho thấy sự biến động số lợng cá thể của Sếu đầu đỏ tại
VQG Tràm Chim. Cụ thể vào tháng đầu tiên của mùa khô (12/2007) chỉ có 7 cá thể
(chiếm 5,55% số cá thể ghi nhận đợc ở thời điểm nhiều nhất), và số lợng của chúng
đã tăng dần. Vào tháng 1 năm 2008, con số này đã tăng lên với con số không đáng kể
là 11 cá thể. Số lợng cá thể Sếu về nhiều từ tháng 2 với 57 cá thể, tức là đã tăng
hơn so với tháng 12 tới 50 cá thể, và vào tháng 3 là 106 cá thể. Số lợng của chúng
đạt đỉnh cao nhất vào tháng 4 năm 2008 là 126 cá thể. Vào đầu tháng 5 số lợng Sếu
bắt đầu giảm và chỉ còn 4 cá thể vào giữa tháng này. Từ cuối tháng 5 cho đến tháng
6 số cá thể Sếu tại đây đã trở về con số 0, điều này cho thấy vào thời gian này toàn
bộ Sếu đã đi khỏi vùng kiếm ăn ở VQG Tràm Chim, các số liệu quan sát khác cũng
cho thấy lúc này chúng cũng đã hoàn toàn bay khỏi vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Nh vậy, Sếu đầu đỏ xuất hiện ở VQG Tràm Chim trong suốt thời gian mùa
khô từ tháng 12/2007 đến cuối tháng 5/2008. Tuy nhiên, số lợng đàn bắt đầu tăng
chủ yếu từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2008 với số lợng nhiều nh

ất là 126 cá thể.

- Từ năm 2000 đến năm 2008:
Số lợng và biến động số lợng Sếu đầu đỏ ở VQG Tràm Chim từ năm 2000
đến năm 2008 đợc tổng hợp từ các điều tra nghiên cứu khác nhau [9, 10], kết quả
nh sau (bảng 2, biểu đồ 2).
Biểu đồ 1:
Biến động số lợng Sếu đầu đỏ từ tháng

0
20
40
60
80

100
120
140
Tháng
12
Tháng
1
Tháng
2
Tháng
3
Tháng
4
Tháng
5
Tháng
6
2007
2008
Thời
gian
Số lợng
12/2007 đến tháng 6/2008 ở VQG Tràm
Chim



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4a-2008



31
Bảng 2: Số lợng cá thể của Sếu đầu đỏ ở VQG Tràm Chim từ năm 2000 đến năm 2008
Năm
2000
[9,10]

2001
[9,10]

2002
[9,10]

2003
[9,10]

2004
[9,10]

2005
[9,10]

2006
[9,10]

2007
[9,10]

2008
Số lợng
cá thể

157 48 113 128 159 93 97 125 126



Biểu đồ 2 cho thấy số lợng Sếu đầu đỏ đã ghi nhận đợc tại VQG Tràm
Chim qua các năm từ năm 2000 đến 2008 là không ổn định. Số lợng Sếu về VQG
Tràm Chim từ năm 2000 là 157 cá thể, nhng ngay năm sau đó số lợng của chúng
lại giảm xuống mức rất thấp là 48 cá thể. Các năm tiếp theo con số này đã có xu
hớng tăng dần trở lại, cụ thể vào năm 2002 là 113 cá thể, năm 2003 là 128 cá thể.
Đến năm 2004 số lợng của chúng đã tăng lên tới con số 159 cá thể, đây là số cá thể
cao nhất trong cả thời gian nói trên, nhng sau đó vào năm 2005 lại giảm xuống chỉ
còn 93 cá thể và có xu hớng tăng lên chút ít với 97 cá thể vào năm 2006. Năm 2007,
đã thể hiện sự gia tăng số lợng của đàn sếu, đạt con số 125 cá thể, và năm 2008 là
126 cá thể (chiếm 19,04%, trong số này có 24 con non).
Số lợng cá thể của Sếu đầu đỏ tăng lên trong thời gian gần đây là một tín
hiệu đáng mừng và cần phải có biện pháp để thu hút đàn Sếu về VQG Tràm Chim
ngày càng đông với số lợng ổn định.
3.2. Một số nhận xét về nguyên nhân của sự biến động số lợng Sếu
đầu đỏ ở VQG Tràm Chim
- Các t liệu nêu trên về sự hiện diện của Sếu đầu đỏ ở VQG Tràm Chim tuy
còn hạn chế, song đã cho thấy số lợng cá thể và sự biến động số lợng đó trong thời
gian chúng xuất hiện tại đây vào mùa khô hàng năm.
Biểu đồ 2:
Biến động số lợng cá thể Sếu đầu đỏ từ năm 2000

đến năm 2008 ở VQG Tràm Chim
0
20
40
60

80
100
120
140
160
180
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Thời
gian
Số lợng




N. Cử, Đ. T. N. Uyên và biến động số lợng của Sếu đầu đỏ , TR. 27-34


32
- Kết quả theo dõi sự di chuyển theo mùa (mùa khô và mùa ma) của các
quần thể Sếu đầu đỏ ở khu vực Đông Dơng của Tổ chức Sếu Quốc tế (ICF) bằng việc
sử dụng máy phát sóng radiotracking đã cho thấy Sếu đầu đỏ bay đến kiếm ăn tại
Vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, cụ thể là VQG Tràm Chim vào mùa
khô là từ vùng kiếm ăn và sinh sản làm tổ của chúng tại một số nơi ở Campuchia.
Cả hai quốc gia đều có khí hậu 2 mùa rõ rệt, và sự di chuyển của chúng gần nh
hoàn toàn phụ thuộc vào sự thay đổi khí hậu thời tiết hàng năm tại mỗi nơi.
- Thủy văn là yếu tố quan trọng đối với sự duy trì đàn sếu ở VQG Tràm Chim.
Để phòng chống cháy rừng (rừng tràm và các bãi cỏ trong đó) vào mùa khô, VQG
Tràm Chim buộc phải giữ độ cao của mức nớc có thể trong các vùng phân bố của
Sếu tại VQG Tràm Chim, từ đây nảy sinh mâu thuẫn: thờng xuyên duy trì tình
trạng mức nớc ngập cao trong VQG Tràm Chim sẽ nhấn chìm các bãi cỏ năng là
nguồn thức ăn chủ yếu của Sếu, điều này không chỉ làm biến mất các vùng kiếm ăn
của Sếu đầu đỏ mà còn ảnh hởng đến cả vùng c trú nói chung của chúng tại VQG
Tràm Chim. Kết quả phân tích cho thấy, vào mùa ma lũ ở VQG Tràm Chim cũng
nh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, các đàn Sếu đầu đỏ đều buộc phải di chuyển
ra khỏi vùng. Giống nh một số loài chim khác, có thể nói đây là hiện tợng di c
nội tại (local migration) của Sếu đầu đỏ.
- Tỷ lệ phát triển số lợng cá thể của Sếu đầu đỏ rất chậm, theo Jeb Barzen
(1990) [3], chỉ đạt khoảng từ 7 đến 10% mỗi năm, do vậy, số lợng cá thể của từng
quần thể cũng không thể tăng nhanh đợc sau một vài năm.
- Diện tích đất ngập nớc là nơi kiếm ăn của Sếu đầu đỏ ngày càng bị thu hẹp
do các vùng đồng cỏ tại một vài nơi bị ngời dân địa phơng lấn chiếm một cách bất
hợp pháp để làm đất canh tác nông nghiệp. Tuy nhiên, điều cần phải quan tâm hơn
là hiện nay là hầu hết diện tích trên các bờ kênh và bãi cỏ đã và đang bị cây mai
dơng (Mimosa pigra) xâm chiếm với tình trạng báo động, rất khó để tìm đợc giải

pháp khắc phục một cách hiệu quả. Cụ thể là khu A2 bị cây mai dơng xâm chiếm
mức độ dày là 26 ha (2,32%), khu A3 có 5,1 ha (11,46%), khu A4 có 142,2 ha (19,43%)
và khu A5 có 91,4 ha (20,75%) [6].
- Việc sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ của ngời dân trên các vùng đất
sản xuất nông nghiệp ở vùng đệm của VQG Tràm Chim đã gây ảnh hởng bất lợi
đến quần thể Sếu trong VQG Tràm Chim, ví dụ năm 1998 đã có 8 cá thể Sếu bị chết
do bị nhiễm độc từ nguồn nớc và thức ăn trong vùng.
3.3. Đề xuất một số giải pháp liên quan
- Khôi phục lại các bãi ăn, bãi nghỉ của Sếu đầu đỏ ở các khu vực A1, A2, A4,
A5.
- Nghiên cứu điều chỉnh mực nớc trong khu A1 và A2 sao cho hợp lý để quần
xã cỏ năng có thể phát triển tốt, vì đây là nguồn thức ăn chủ yếu bảo đảm sự tồn tại
và thu hút Sếu đầu đỏ hàng năm đến với VQG Tràm Chim và vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
- Củng cố và nâng cấp hệ thống đê ở các khu A3, A4, A5 để giữ độ ẩm cho đất
vào mùa khô và ngăn chặn nớc lũ mang theo phù sa tràn vào trong mùa ma lũ
làm chết cỏ năng và phát tán hạt tạo điều kiện cho cây mai dơng phát triển sau đó.



trờng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVII, số 4a-2008


33
- Trồng thêm cây, chủ yếu là cây bản địa, nhất là cây tràm (Melaleuca
cajiputi) để che chắn và giữ cảnh quan yên tĩnh tại các bãi kiếm ăn và nghỉ ngơi của
Sếu đầu đỏ.
- Nghiêm cấm việc chăn thả gia súc, gia cầm vào VQG Tràm Chim để tránh
hiện tợng gây náo động và làm nảy sinh các đe dọa đối với loài hoang dã trong đó có
Sếu đầu đỏ nhất là ở dọc các bờ bao của khu A1, A2 và gần chốt Phú Hiệp ở khu A5.

- Nghiêm cấm việc ngời dân địa phơng sử dụng bã thuốc độc để thuốc chim
gây nguy hại đến hoạt động quản lý bảo tồn các loài chim nói chung.
- Từng bớc nghiên cứu giải pháp để bổ sung thêm thức ăn cho Sếu đầu đỏ
vào mùa khô tại một vài nơi có điều kiện nh khu A1 và A4, Gò Lao Vôi.
- Tiếp tục nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp hiện có để từng bớc tiêu
diệt, đẩy lùi cây mai dơng ra khỏi các khu đồng cỏ của VQG Tràm Chim.
- Gia tăng hoạt động tuần tra và thực thi luật của lực lợng kiểm lâm sẽ giúp
làm giảm các đe dọa và áp lực bất lợi đối với sự hiện diện của Sếu đầu đỏ ở Tràm
Chim.
IV. Kết luận
- Trong thời gian từ tháng 12/2007 đến tháng 6/2008, số lợng cá thể của Sếu
đầu đỏ (Grus antigone sharpii Blanford, 1929) đạt cao nhất vào tháng 4 là 126 cá thể
(chiếm 19,04%, trong đó có 24 con non), và giảm dần đến số không vào các tháng
cuối mùa khô đầu mùa ma (tháng 6) nh vào năm 2008 (biểu đồ 1).
- So sánh với một số năm trớc, trong hai năm gần đây số lợng Sếu bay về
Tràm Chim vào mùa khô khá ổn định, cụ thể năm 2007 có 125 cá thể và năm 2008
là 126 cá thể.
- Số lợng cá thể Sếu đầu đỏ có sự biến động qua nhiều năm do nhiều nguyên
nhân, nhng chủ yếu là do ảnh hởng của nguồn thức ăn và nơi kiếm ăn cũng nh
nghỉ ngơi của chúng vào mùa khô tại VQG Tràm Chim.
- Các nhân tố ảnh hởng chủ yếu là do chế độ thủy văn, hiện tợng xâm lấn
đồng cỏ của cây mai dơng, tác động của con ngời và thiên nhiên trong vùng.
- Trong chiến lợc lâu dài về quản lý và bảo tồn Đa dạng Sinh học với mục
tiêu hàng đầu là bảo vệ và duy trì sự phát triển của Sếu đầu đỏ ở VQG Tràm Chim,
Ban quản lý VQG Tràm Chim cần đặc biệt quan tâm đến các giải pháp làm giảm
dần các đe dọa và áp lực đối với VQG Tràm Chim.

Tài liệu tham khảo

[1] Bird Life International, Threatened birds of the World, Lynx Edocions and Bird

Life International, Barcelona, 2006.
[2] Bộ Khoa học và Công nghệ, Sách đỏ Việt Nam (Phần I. Động vật), NXB Khoa học
Tự nhiên và Công nghệ, Hà Nội, 2007, tr. 17, 185 - 186.
[3] CRES, Hội thảo quốc tế về Sếu cổ trụi và đất ngập nớc, NXB Nông nghiệp, Hà
Nội, 1990, 93 trang.



N. Cử, Đ. T. N. Uyên và biến động số lợng của Sếu đầu đỏ , TR. 27-34


34
[4] Phân viện khảo sát quy hoạch Nam Bộ, Dự án khu Bảo tồn Thiên nhiên Quốc gia
đất ngập nớc Tràm Chim - Huyện Tam Nông - Tỉnh Đồng Tháp, Chuyên đề
quản lý nớc, TP Hồ Chí Minh, 1998, 100 trang.
[5] IUCN, 2006 IUCN Red List of Threatened species, Cambridge, UK. and Grand:
IUCN, 2006.
[6] Vờn Quốc gia Tràm Chim, Báo cáo rà soát quy hoạch và các chơng trình hoạt
động của VQG Tràm Chim, 2008.
[7] Archibald, G., Sundar, K. and Barzen, J., A review of three subspecies of sarus
crane Grus antigone, Journal of Ecological Society, 2003,16: 5-15.
[8] Cox, R., and Ha Dinh Duc, Survey for Kouprey in the Yok Don nature reserve,
Dak Lak province, Vietnam, Kouprey Conservation Trust, 1990.
[9] Nguyễn Văn Hùng, Báo cáo giới thiệu VQG Tràm Chim, Tài liệu lu trữ ở VQG
Tràm Chim, 2007.
[10] Minh Lộc, Sếu đầu đỏ VQG Tràm Chim - Tam Nông - Đồng Tháp, 2007, 181
trang.


SUMMARY


The data of individual number of Sarus Crane
(Grus antigone sarpii blanford, 1929) and its changes in Tram
Chim national park, Tam Nong district,
Dong Thap province


This paper presented the study on the changes of individual number changes
of Sarus Crane (Grus antigone sarpii, 1929) in Tram Chim national park, Tam Nong
district, Dong Thap province from 12/2007 to 06/2008. The results showed that the
migratory period of Sarus Crane begins February to April. The highest number of
bird is 126 in April, 2008. The paper also analysed the changes of Sarus Crane from
2000 to 2008 and showed the causes to these changes. Some solutions to
conservation and increasing number Sarus Crane in Tram Chim national park were
recommended as well.

(a)
Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Khoa học và Công nghệ VN
(b)
Cao học 14, chuyên ngành Động vật, Trờng Đại học Vinh.


×