TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
-------------------------
NGÔ THỊ NHIÊN
NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONGTÁC PHẨM NGƯỜI ĐI VẮNG
CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. PHÙNG GIA THẾ
Hà Nội, 2015
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn, giúp đỡ,
động viên của các thầy, cô giáo và các bạn sinh viên. Sự nhiệt tình đó giúp tôi
hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Nghệ thuật trần thuật trong tác
phẩm Người đi vắng của Nguyễn Bình Phƣơng”.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và gửi lời cảm ơn chân thành tới các
thầy, cô giáo, đặc biệt là TS. Phùng Gia Thế - ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn, đã
tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2015.
Tác giả khóa luận
Ngô Thị Nhiên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
-
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn của thầy
giáo - Tiến sĩ Phùng Gia Thế.
-
Khóa luận không sao chép từ các tài liệu sẵn có.
-
Kết quả nghiên cứu không trùng với kết quả nghiên cứu của bất cứ
tác giả nào khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2015.
Tác giả khóa luận
Ngô Thị Nhiên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 4
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ......................................................... 5
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................... 5
7. Đóng góp của khóa luận .................................................................... 5
8. Bố cục của khóa luận ......................................................................... 5
NỘI DUNG ............................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ TRẦN THUẬT VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG ............. 7
1.1 Một số vấn đề chung về trần thuật .................................................. 7
1.1.1 Thuật ngữ ................................................................................... 7
1.1.2 Vai trò của trần thuật đối với loại tác phẩm tự sự .................... 9
1.1.3 Những yếu tố cơ bản của trần thuật ........................................ 10
1.2 Hành trình sáng tác của Nguyễn Bình Phƣơng............................. 21
CHƢƠNG 2. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TÁC PHẨM
NGƯỜI ĐI VẮNG CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG ................................... 24
2.1 Điểm nhìn gắn với ngôi kể............................................................. 25
2.2 Sự dịch chuyển điểm nhìn ............................................................. 31
2.2.1 Sự dịch chuyển điểm nhìn giữa tác giả với nhân vật............... 32
2.2.2 Sự dịch chuyển điểm nhìn không gian, thời gian .................... 33
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG THỨC VÀ KĨ THUẬT TRẦN THUẬT
TRONG NGƯỜI ĐI VẮNG CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG .................... 35
3.1 Ngôn ngữ trần thuật ....................................................................... 35
3.1.1 Ngôn ngữ người kể chuyện ...................................................... 35
3.1.2 Ngôn ngữ nhân vật................................................................... 41
3.2 Giọng điệu trần thuật ..................................................................... 46
3.3 Một số thủ pháp trần thuật ............................................................. 47
3.3.1 Thủ pháp trần thuật phi tuyến tính .......................................... 47
3.3.2 Thủ pháp lắp ghép cốt truyện - lối trần thuật đa trị................ 48
3.3.3 Thủ pháp tạo hình ảnh và mô típ trần thuật mang ý nghĩa biểu
tượng ......................................................................................................... 51
KẾT LUẬN ............................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân
hay một tập thể sáng tạo ra nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con
ngƣời, thể hiện tâm tƣ, tình cảm, thái độ…của chủ thể trƣớc thực tại bằng
hình tƣợng nghệ thuật.
Tác phẩm văn học đƣợc xem là “đứa con tinh thần” của nhà văn. Mỗi
yếu tố trong tác phẩm ấy đều đƣợc xem là thành quả của sự cố gắng nỗ lực của
nhà văn, chúng chứa đựng tài năng và tâm huyết của tác giả. Trong đó, nghệ
thuật trần thuật đƣợc xem là yếu tố quan trọng hàng đầu, là “sợi chỉ đỏ” dẫn
đƣờng để độc giả đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, giúp ngƣời đọc nắm bắt
đƣợc quan niệm nghệ thuật và tƣ tƣởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm.
Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật chính là đi tìm kiếm “chiếc chìa khóa” để
mở ra cánh cửa đi vào tác phẩm, cũng nhƣ thấy đƣợc thế giới nghệ thuật của
nhà văn.
Các sáng tác đƣơng đại vốn hàm chứa nhiều tìm tòi đổi mới cả nội dung
và hình thức. Bởi vậy, việc tìm hiểu các tác phẩm này thông qua nghiên cứu
nghệ thuật trần thuật đƣợc xem là một con đƣờng, một hƣớng tiếp cận mới, có
khả năng đem đến những kiến giải có ý nghĩa khoa học.
1.2 Nguyễn Bình Phƣơng là cây bút tiêu biểu cho văn chƣơng Việt Nam
đƣơng đại. Từng tự nhận mình là “khách trần gian”, Nguyễn Bình Phƣơng
quan niệm: “sống là cố gắng yêu thương, cố gắng không làm hại ai và cố
gắng có ích một chút”. Đối với độc giả yêu cái mới, cái lạ trong văn học, sự
sáng tạo cách tân trong nghệ thuật, thì tác phẩm của Nguyễn Bình Phƣơng
luôn là một món quà đƣợc mọi ngƣời đón nhận.
Theo nhà phê bình Phạm Xuân Thạch, nếu cần lựa chọn một hiện tƣợng
tiêu biểu nhất của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại, ƣu tiên số một chắc chắn
1
sẽ là Nguyễn Bình Phƣơng. Một số tiểu thuyết đã làm nên tên tuổi của ông
nhƣ: Vào cõi (Nxb Thanh Niên 1991), Những đứa trẻ chết già (Nxb Văn học
1994), Người đi vắng (Nxb Văn học 1999), Trí nhớ suy tàn (Nxb Thanh niên
2000), Thoạt kỳ thủy (Nxb Hội Nhà Văn 2004)… Tuy nhiên phần lớn tác
phẩm của ông luôn bị coi là khó đọc và kén độc giả.
Tiểu thuyết Người đi vắng ra đời năm 1999, đƣợc xem là tác phẩm tiêu
biểu cho phong cách Nguyễn Bình Phƣơng, và cũng là tác phẩm tiêu biểu cho
dòng tiểu thuyết cách tân ở Việt Nam đƣơng đại. Có thể xem Người đi vắnglà
một bản hợp âm với vô vàn đối thoại, độc thoại mà ngƣời đọc không phân
biệt đƣợc ai là kẻ phát ngôn. Đó cũng là những giọng nói cất lên từ cõi tâm
linh hay tiếng rao “khàn khàn ủ ê” của ông thiến lợn vang lên trong suốt tác
phẩm những không ai biết mặt. Đó là một thế giới vừa ồn ào, vừa vắng vẻ, vô
hình nhƣng hữu hình, thật nhƣng ảo, âm dƣơng lẫn lộn.
Xuất phát từ những lí do trên, ngƣời viết chọn đề tài: “Nghệ thuật trần
thuật trong tác phẩm Người đi vắng của Nguyễn Bình Phƣơng” làm đối
tƣợng nghiên cứu. Thực hiện đề tài này, ngƣời viết hi vọng sẽ có những đóng
góp nhất định trong việc phân tích, đánh giá tác phẩm, cũng nhƣ khẳng định
giá trị trong sáng tác của Nguyễn Bình Phƣơng.
2. Lịch sử vấn đề
Tác phẩm của Nguyễn Bình Phƣơng là thành tựu đáng kể đối với nền
tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại. Có thể khẳng định Nguyễn Bình Phƣơng
chính là khuôn mặt tiêu biểu hàng đầu trong nền văn học đƣơng đại Việt
Nam. Ông trở thành một hiện tƣợng mới mẻ, phức tạp và cũng là một hiện
tƣợng khiến ngƣời nghiên cứu gặp nhiều khó khăn trong khi tìm hiểu.
Mọc lên sừng sững giữa cánh đồng văn chƣơng đƣơng đại, Nguyễn Bình
Phƣơng trở thành đối tƣợng nghiên cứu của nhiều cây bút phê bình. Hầu hết
2
các tác phẩm của ông đều trở thành nguồn chất liệu quý giá của nhiều nhà
nghiên cứu văn học.
Trong các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, về lịch sử vấn
đề này, ngƣời viết xin trích dẫn một số tài liệu tiêu biểu:
Nhận xét về Người đi vắng, Thụy Khuê trong Sóng từ trường II viết:
“Tiểu thuyết Người đi vắng, tác phẩm thứ nhì của Nguyễn Bình Phương sau
cuốn Những đứa trẻ chết già, đem lại cho người đọc một kì ngạc, kì ngộ pha
lẫn kì vọng, bởi, sau Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, có lẽ đây là tác giả
thứ ba trỗi dậy trong vòng 15 năm nay, như một giá trị khai phá đích thực.
Với Người đi vắng, linh địa tìm kiếm đã rõ hơn: Bình Phương khai triển
và phát triển vùng hiện thực linh ảo âm dương của Những người đi vắng. Đó
là một thế giới bao quát, gồm thiên nhiên, vật giới, hiện tượng và con người,
bộ mặt toàn thể vũ trụ hiện diện trong khi “người đi vắng”. “Đi vắng”, ở đây
có thể là đi xa, thoát kiếp, mà cũng có thể là vẫn sống đấy mà như đã chết:
tình trạng hôn mê (coma)” [6; 2].
Tác giả Phùng Gia Thế trong bài viết “Cảm nhận tiểu thuyết Nguyễn
Bình Phương” nhận định: “Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ám ảnh bởi sự
khủng hoảng niềm tin của con người, của nhà văn vào con người và cuộc đời,
sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, xã hội và gia đình, sự ngắc ngoải ngưng
đọng của đời sống, sự đánh mất bản ngã, phương hướng, sự băng hoại đạo
đức, sự đau đớn bơ vơ, tình trạng bất an của con người”.
Bên cạnh đó, tác phẩm của Nguyễn Bình Phƣơng còn là đề tài nghiên
cứu của giới trẻ, của nhiều nhà nghiên cứu. Trên thực tế, đã có rất nhiều
những bài nghiên cứu, báo cáo khoa học, luận văn tốt nghiệp… lấy tác phẩm
của ông làm chất liệu phân tích.
Tuy còn nhiều ý kiến khen, chê trái chiều, song chính những bài báo,
những công trình nghiên cứu về Nguyễn Bình Phƣơng đã khẳng định đƣợc
3
chỗ đứng của ông trong đời sống văn học đƣơng đại. Dù tiếp cận tác phẩm
của ông từ góc độ nào, ta cũng không thể phủ nhận đƣợc sự tìm tòi sáng tạo,
quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc của Nguyễn Bình Phƣơng trong quá
trình cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại.
Dù đã có sự nghiên cứu, những ghi nhận, nhƣng đến nay vẫn chƣa có
một công trình nào nghiên cứu một cách bài bản, chi tiết tỉ mỉ về “Nghệ
thuật trần thuật trong tác phẩm Người đi vắng của Nguyễn Bình
Phƣơng”. Chính bởi vậy, khi thực hiện đề tài này, ngƣời viết muốn đi sâu
nghiên cứu một cách bài bản có hệ thống về vấn đề “Nghệ thuật trần thuật
trong tác phẩm Người đi vắng của Nguyễn Bình Phƣơng”. Trên cơ sở tiếp
thu những thành quả của những công trình nghiên cứu đi trƣớc, tác giả khóa
luận mong muốn ở một mức độ nhất định sẽ lí giải cụ thể, hệ thống vấn đề
“Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm Người đi vắng của Nguyễn Bình
Phƣơng”, thông qua đó sẽ góp thêm tiếng nói trong việc cảm thụ và phân tích
giá trị tác phẩm.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận hƣớng tới đi sâu khám phá cách thức trần thuật trong tác
phẩm Người đi vắng của Nguyễn Bình Phƣơng. Từ đó khẳng định thành công
của nhà văn trong lối viết, trong cách thức tổ chức trần thuật, cách dẫn
truyện… thông qua đó xác định vị trí của tác giả trong nền văn học Việt Nam
đƣơng đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của khóa luận là phân tích, lí giải, đánh giá nghệ thuật trần
thuật trong tác phẩm Người đi vắng của Nguyễn Bình Phƣơng. Qua đó thấy
đƣợc nét đặc sắc và những cách tân đổi mới trong nghệ thuật trần thuật của
tác giả đối với nền tiểu thuyết đƣơng đại Việt Nam.
4
5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: “Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm
Người đi vắng của Nguyễn Bình Phƣơng”
- Phạm vi nghiên cứu: tác phẩm Người đi vắng của Nguyễn Bình
Phƣơng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng một số phƣơng pháp chủ yếu:
-
Phƣơng pháp loại hình
-
Phƣơng pháp thống kê
-
Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
-
Phƣơng pháp hệ thống
-
Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
7. Đóng góp của khóa luận
- Về mặt lí luận: Khóa luận sẽ làm rõ các vấn đề về nghệ thuật trần thuật
trong tác phẩm Người đi vắng của Nguyễn Bình Phƣơng, đồng thời khẳng
định đƣợc giá trị của tác phẩm từ góc nhìn nghệ thuật trần thuật.
- Về mặt thực tiễn: Với đề tài này, ngƣời viết mong muốn tìm hiểu, lí
giải, đƣa ra một hƣớng tiếp cận mới về tác phẩm từ góc nhìn tổ chức trần
thuật. Đồng thời, qua đó phát hiện, khẳng định tài năng, thành quả sáng tạo
nghệ thuật và sự cách tân nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại của
Nguyễn Bình Phƣơng, khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học mới.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung của
khóa luận đƣợc triển khai thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý thuyết về trần thuật và hành trình sáng tác
của Nguyễn Bình Phƣơng.
5
Chƣơng 2: Điểm nhìn trần thuật trong Người đi vắng của Nguyễn Bình
Phƣơng.
Chƣơng 3: Phƣơng thức và kĩ thuật trần thuật trong Người đi vắng của
Nguyễn Bình Phƣơng.
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ TRẦN THUẬT
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG
1.1 Một số vấn đề chung về trần thuật
1.1.1 Thuật ngữ
“Trần thuật” là một thuật ngữ thuộc chuyên ngành Lí luận văn học.
Trần thuật vừa là phƣơng thức vừa là đặc trƣng quan trọng không thể thiếu
đối với loại tác phẩm tự sự, đặc biệt là tiểu thuyết. Ngay từ đầu thế kỉ XX,
trần thuật học đã trở thành một ngành mũi nhọn thu hút đƣợc sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, do chƣa có sự thống nhất trong quan điểm
của các nhà nghiên cứu, dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
trần thuật. Trong phạm vi của khóa luận, tôi chỉ xin trích dẫn một số định
nghĩa tiêu biểu và đƣợc nhiều ngƣời quan tâm hơn cả về vấn đề này.
Xét về thuật ngữ, “trần thuật” (narration) còn có tên gọi khác là kể
chuyện, tự sự. Khi bàn về kể chuyện, J. Lintvelt cho rằng: “Kể là một hành vi
trần thuật, và theo nghĩa rộng là một tình thế hư cấu bao gồm cả người trần
thuật (narrateur) và người nghe kể (narrataire)”.
J. H. Miller, nhà giải cấu trúc ngƣời Mĩ có nói: “Tự sự là cách để ta đưa
các sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng ta có được ý nghĩa. Tự
sự là cách tạo nghĩa cho sự kiện, biến cố”.
Ở Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu cũng cho rằng trần thuật là một
hoạt động sáng tạo của nhà văn trong việc tái hiện hiện thực trong tác phẩm,
nhất là tác phẩm tự sự.
7
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, trần thuật “là phương diện cơ bản của
phương thức tự sự, là giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân
vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật nhất
định” [3; 134].
Cũng bàn về khái niệm trần thuật, tác giả Lại Nguyên Ân trong 150 thuật
ngữ văn học cho rằng: “Trần thuật bao gồm cả việc kể và miêu tả các hành
động và các biến cố trong thời gian, mô tả chân dung hoàn cảnh của hành
động, tả ngoại hình, tả nội thất… bàn luận, lời nói bán trực tiếp của nhân vật.
Do vậy, trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo các tác phẩm tự sự hay
của người kể chuyện, tức là toàn bộ văn bản tác phẩm tự sự, ngoại trừ lời nói
trực tiếp của các nhân vật” [2; 321].
Trong bài Về việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn
học ở Việt Nam tác giả Lại Nguyên Ân có viết: “Trần thuật (narration) chỉ
phương thức nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc văn học tự sự
(…) Thực chất của hoạt động trần thuật là kể, là thuật, là cái được kể, được
thuật, trong tác phẩm văn học là chuyện”.
Giáo trình Lí luận văn học do Trần Đình Sử (chủ biên) đã đƣa ra cách
hiểu về khái niệm trần thuật tƣơng đối thống nhất với cách hiểu trên: “Trần
thuật là kể, thuyết minh, giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong
truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật miêu tả sự kiện nhân vật theo
một thứ tự nhất định” [16; 121].
Nhƣ vậy, trần thuật (hay tự sự, kể chuyện) là một vấn đề đƣợc nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nƣớc quan tâm. Qua nghiên cứu, tìm hiểu những
quan niệm trên, tựu trung có thể thấy: Trần thuật trƣớc hết là phƣơng thức
nghệ thuật đặc trƣng trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự, thực chất của
hoạt động trần thuật là việc kể lại, thuật lại những sự kiện, con ngƣời, hoàn
cảnh… theo một thứ tự nhất định, dƣới một cái nhìn nào đó.
8
Trần thuật vừa là phƣơng thức chủ yếu cấu tạo nên tác phẩm tự sự vừa là
yếu tố kết đọng tài nghệ của mỗi cây bút. Ở các nghệ sĩ tài năng, trần thuật trở
thành yếu tố nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sức hấp dẫn của
văn bản nghệ thuật ở cả chiều sâu lẫn mặt cụ thể, cảm tính. Nghiên cứu phƣơng
diện quan trọng này giúp chúng ta có cơ sở để định giá tác phẩm, khẳng định tài
năng và những đóng góp của nhà văn vào tiến trình văn chƣơng.
1.1.2 Vai trò của trần thuật đối với loại tác phẩm tự sự
Trần thuật là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhất để tạo thành văn bản văn
học. Trần thuật không đồng nhất với tự sự, vì thế trần thuật không chỉ xuất
hiện trong tác phẩm tự sự mà còn xuất hiện trong tác phẩm trữ tình. Trần
thuật có thể tìm thấy trong các bài thơ Kinh Thi, trong ca dao. Các nhà thơ
trung đại Việt Nam gọi các bài thơ trữ tình là “thuật hoài”, “tự tình”. Ví dụ
nhƣ câu thơ:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa…”
(Bà Huyện Thanh Quan - Qua Đèo Ngang)
Tuy nhiên, trần thuật lại có vai trò đặc biệt quan trọng đối với thể loại tự
sự - một thể loại văn học có khả năng phản ánh hiện thực sâu sắc, phong phú
và đa dạng hơn cả, nó là yếu tố không thể thiếu trong một tác phẩm tự sự.
Theo tác giả Trần Đăng Suyền: “Trần thuật là một phương thức cơ bản
của tự sự, một yếu tố quan trọng tạo nên hình thức của một tác phẩm văn
học”. Vai trò đậm nhạt của trần thuật còn phụ thuộc vào đặc điểm của thể
loại, những khuynh hƣớng phát triển thể loại ấy. Nhƣng xét về cơ bản, trần
thuật là yếu tố tạo nên diện mạo của một tác phẩm tự sự ở cả hai phƣơng diện
nội dung và hình thức. Nó không chỉ là yếu tố liên kết, dẫn dắt câu chuyện mà
còn là bản thân câu chuyện. Đặc biệt là đối với xu hƣớng cách tân của nghệ
thuật tự sự đƣơng đại - cốt truyện không còn đóng vai trò nòng cốt, nhân vật
9
bị xóa mờ đƣờng viền cụ thể thì yếu tố trần thuật là chìa khóa mở ra những
cánh cửa của tác phẩm. Chính vì thế, trần thuật trở thành yếu tố quan trọng
bậc nhất đối với các tác phẩm tự sự đƣơng đại.
1.1.3 Những yếu tố cơ bản của trần thuật
1.1.3.1 Người trần thuật, ngôi trần thuật và vai trần thuật
“Người trần thuật” hay “người kể chuyện” là vấn đề quan trọng, then
chốt của tác phẩm tự sự. Ngƣời trần thuật là yếu tố thuộc thế giới miêu tả. Đó
là một ngƣời do nhà văn tạo ra để thay mình thực hiện hành vi trần thuật.
Khác với ngƣời kể chuyện trực tiếp lộ diện nhƣ trong diễn xƣớng dân gian, có
thể sử dụng các yếu tố phi ngôn từ nhƣ điệu bộ, ánh mắt…, ngƣời kể chuyện
trong tác phẩm văn học ẩn mình trong dòng chữ.
Nhà nghiên cứu T.Z. Todozov khẳng định: “Người kể chuyện là yếu tố
tích cực trong việc tạo ra thế giới tưởng tượng… không thể có trần thuật mà
thiếu người kể chuyện”.
Còn M. Bakhtin đã đƣa ra quan điểm của mình trên cơ sở lý thuyết giao
tiếp, ông đƣa ra vấn đề ngƣời kể chuyện đƣợc đặt trong quan hệ với ngƣời
đọc giả định, với vấn đề “điểm nhìn”, các loại hình, cấp độ và tình huống trần
thuật.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “người kể chuyện” chỉ xuất hiện khi
nào câu chuyện đƣợc kể với một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là
hình tƣợng của chính tác giả, có thể là một nhân vật do tác giả tạo ra. Một tác
phẩm có thể có một hay nhiều ngƣời kể chuyện. Hình tƣợng ngƣời kể đem lại
cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lí, nghề
nghiệp hay lập trƣờng xã hội, cho cái nhìn tác giả làm cho sự trình bày, tái tạo
con ngƣời và đời sống con ngƣời trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều bối
cảnh. Đồng thời, với việc lựa chọn ngƣời trần thuật, tác giả đã gửi gắm một
10
dụng ý nghệ thuật nhất định nhằm dẫn dắt một cách thuyết phục nhất để
ngƣời đọc tin vào câu chuyện mà mình kể.
Tác giả Nguyễn Thái Hòa lại cho rằng: “Cần có sự phân biệt giữa người kể
chuyện hàm ẩn với tác giả và con người tác giả ngoài đời” [5; 135]. Ở đây, tác
giả quan niệm: “người kể chuyện hàm ẩn” là ngƣời kể chuyện toàn năng, là
ngƣời biết hết mọi chuyện. Do đó, “người kể chuyện hàm ẩn” một mặt sống với
nhân vật, mặt khác lại có mối quan hệ hàm ẩn với ngƣời đọc ngoài đời.
Thực chất, “người kể chuyện hàm ẩn” là tên gọi khác của “người kể
chuyện ẩn tàng” nhƣ G.S Trần Đình Sử từng gọi tên. Từ quan niệm trên cho
thấy “người kể chuyện” là yếu tố không thể thiếu trong thế giới nghệ thuật
của nhà văn. Bằng hình thức “người kể chuyện” nhà văn đã kể lại những gì
mình biết và tự do liên tƣởng, tƣởng tƣợng để cốt truyện hấp dẫn và đƣợc bạn
đọc đón nhận. “Người kể chuyện” chính là hình tƣợng ƣớc lệ về “người trần
thuật”. “Người trần thuật” là nhân vật có thật hoặc không có thật, nhà văn đã
bằng hành vi ngôn ngữ để tạo nên văn bản tự sự.
Nhƣ vậy, có thể khẳng định, người trần thuật là yếu tố quan trọng không
thể thiếu trong nghệ thuật trần thuật của tác phẩm tự sự. Nó giữ vai trò quan
trọng trong việc thể hiện dụng ý nghệ thuật và quyết định đến sự thành hay
bại của nghệ thuật trần thuật.
Khái niệm “người trần thuật” luôn gắn liền với khái niệm “ngôi trần
thuật” và “vai trần thuật”. Chúng gắn bó và tồn tại không tách rời nhau. Một
tác phẩm văn học có thể đƣợc kể theo ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai hoặc ngôi
thứ ba.
Trong trƣờng hợp nhân vật đóng vai trò ngƣời kể chuyện thì tác phẩm
đƣợc kể theo ngôi thứ nhất xƣng “tôi” - đây chính là hình thức ngôi kể lộ
diện.
11
Hình thức ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” là một nhân vật trong câu chuyện
chứng kiến các sự việc đứng ra kể. Hình thức kể chuyện theo ngôi thứ nhất
chỉ cho phép nhân vật kể những gì mà khả năng của một ngƣời cụ thể có thể
biết đƣợc. Vì vậy hình thức này có ƣu điểm là tạo ra đƣợc sự khách quan
trong lời kể, do đó có thế gây đƣợc những niềm tin chân thực nơi bạn đọc, kể
chuyện theo ngôi thứ nhất là hình thức nghệ thuật xuất hiện muộn, mãi đến
đầu thế kỉ XX mới có ở Châu Âu và thịnh hành cho đến ngày nay.
Hình thức kể chuyện theo ngôi thứ ba là hình thức kể chuyện truyền
thống. Ngƣời kể giấu mặt, coi nhƣ đứng ở một vị trí nào đó trong không gian,
thời gian bao quát hết mọi diễn biến câu chuyện đã xảy ra trọn vẹn và kể lại
cho chúng ta toàn bộ câu chuyện. Ngôi thứ ba cho phép ngƣời kể có thể kể ra
tất cả những gì họ biết, lời trần thuật ở đây mang tính khách quan hóa và
trung tính. Đây là hình thức kể đƣợc coi là “thượng đế toàn thông”.
Có một hình thức trung gian giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba là hình
thức kể theo ngôi thứ hai - ngƣời kể chuyện xƣng “anh”. Nó tạo ra đƣợc một
không gian gián cách: một cái tôi khác, một cái tôi đƣợc kể ra, chứ không
phải là tự kể nhƣ ngôi thứ nhất, mặc dù khi đọc, ngƣời đọc nhanh chóng
“phiên dịch” cái “anh” ấy ra cái “tôi”
“Vai trần thuật” là một khái niệm gắn bó chặt chẽ với khái niệm “người
kể chuyện” và “ngôi kể”.
Vai trần thuật chính là sự hóa thân của ngƣời kể và ngôi kể. Ngƣời kể
chuyện chính là một vai mang nội dung. Vai trần thuật thể hiện điểm nhìn
nghệ thuật của nhà văn.
Nhiều tác giả nam kể chuyện bằng vai nữ, và ngƣợc lại không ít nhà văn
nữ lại kể chuyện bằng vai nam. Điều này có thể khi thể hiện ý thức về giới
tính trong sáng tác, có khi chỉ là tìm một giọng có âm hƣởng mạnh mẽ trong
lòng ngƣời.
12
Trong văn bản tự sự, không nhất thiết chỉ có một ngƣời trần thuật. Các
văn bản phức tạp có thể có hai ngƣời trần thuật trở lên, tạo thành một kết cấu
có tầng bậc hay ghép nối.
Ngôi và vai có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo thành giọng điệu của
văn bản, bởi giọng điệu bao giờ cũng là giọng của một ai đó đƣợc thể hiện
bằng những phƣơng tiện ngôn từ nhất định.
1.1.3.2 Điểm nhìn trần thuật
Từ đầu thế kỉ XX, vấn đề điểm nhìn đƣợc nghiên cứu tập trung, đặc biệt
là từ những năm 40 trở đi, vấn đề điểm nhìn trở thành một tiêu điểm trong
nghiên cứu văn học. Đặc biệt, đối với sự cách tân nghệ thuật đƣơng đại thì
vấn đề điểm nhìn càng trở nên quan trọng, đƣợc nhiều ngƣời quan tâm chú ý
đến.
Vấn đề điểm nhìn không còn là vấn đề mới mẻ, nhƣng cho đến ngày nay
vẫn tồn tại những quan điểm phức tạp.
Ngƣời ta đƣa ra những quan niệm khác nhau về “điểm nhìn trong tự
sự học”:
Điểm nhìn nghệ thuật (the point of view) là vấn đề cơ bản, then chốt của
kết cấu. Điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem xét, miêu tả, bình giá sự vật,
hiện tƣợng trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, tƣơng quan giữa nhà văn và
chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của ngƣời trần thuật với những gì anh ta
kể là điều đặc biệt quan trọng.
Điểm nhìn là một khái niệm đã đƣợc đề cập khá sớm, đặc biệt ở Anh và
Mĩ. Theo M.H. Abrahams (Từ điển thuật ngữ văn học), điểm nhìn chỉ ra
“những cách thức mà một câu chuyện được kể đến - một hay nhiều phương
thức được thiết lập bởi tác giả bằng ý nghĩa mà độc giả được giới thiệu với
những cá tính, đối thoại, những hành động, sự sắp đặt và những sự kiện mà
trần thuật cấu thành trong một tác phẩm hư cấu”.
13
Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần thuật trong
tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa
các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay, nói cách khác, điểm nhìn của người
trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [9; 65].
Bakhtin khi bàn về tiểu thuyết Doxtoiepxki đã xem điểm nhìn nhƣ là
“cái lập trường mà xuất phát từ đó câu chuyện được kể, hình tượng được
miêu tả hay sự việc được thông báo” (Thi pháp tiểu thuyết).
Còn Trần Đình Sử trong cuốn “Giáo trình dẫn luận thi pháp học” (Nxb
Giáo dục -1998) cho rằng: “Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn
trình bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả.
Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm
thụ của chủ thể đối với thế giới” [15; 135 ].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Khoảng cách, góc độ của lời kể đối
với cốt truyện tạo thành cái nhìn”.
Tựu chung lại, có thể hiểu điểm nhìn là phƣơng thức phát ngôn, trình
bày, miêu tả phù hợp với cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả. Nó là
vị trí dùng để quan sát, cảm nhận, đánh giá.
Khi nghiên cứu điểm nhìn nghệ thuật, ngƣời ta chia điểm nhìn thành các
loại nhƣ sau:
Theo cuốn Lý luận văn học (GS Phƣơng Lựu chủ biên) điểm nhìn trần
thuật đƣợc phân chia trên 2 bình diện:
Xét về bình diện trƣờng nhìn trần thuật đƣợc chia thành 2 loại: trƣờng
nhìn tác giả và trƣờng nhìn nhân vật.
Trƣờng nhìn tác giả: Ngƣời trần thuật đứng ngoài câu chuyện để quan
sát đối tƣợng. Kiểu trần thuật này mang tính khách quan tối đa cho lời trần
thuật.
14
Trƣờng nhìn nhân vật: Ngƣời trần thuật nhìn sự vật, hiện tƣợng theo
quan điểm của một nhân vật trong tác phẩm. Trần thuật theo điểm nhìn nhân
vật mang đậm sắc thái tâm lý, chất trữ tình hoặc châm biếm do sự chi phối
trực tiếp bởi địa vị, hiểu biết, lập trƣờng của nhân vật.
Xét về bình diện tâm lý, có thể phân biệt thành điểm nhìn bên trong và
điểm nhìn bên ngoài:
Điểm nhìn bên trong: Ngƣời trần thuật nhìn thấy đối tƣợng qua lăng kính
của một tâm trạng cụ thể, dễ dàng tái hiện diễn biến trong tâm hồn nhân vật.
Điểm nhìn bên ngoài: Chủ thể trần thuật giữ cái nhìn khách quan từ vị trí
bên ngoài có khoảng cách nhất định với đối tƣợng trần thuật.
Theo Pospelov, điểm nhìn trần thuật đƣợc chia làm 2 loại: Trần thuật
khách quan và Trần thuật chủ quan.
Theo GS Trần Đình Sử, điểm nhìn trần thuật đƣợc chia thành 5 loại:
Điểm nhìn của ngƣời trần thuật, tác giả hay của nhân vật trần thuật và
của nhân vật.
Điểm nhìn không gian, thời gian.
Điểm nhìn bên trong, bên ngoài.
Điểm nhìn đánh giá tƣ tƣởng, cảm xúc.
Điểm nhìn ngôn từ: bản thân mỗi hình thức ngôn từ đã mang một quan
điểm.
Dựa trên lý thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R.S.Choles và
R.Kellogg, Ths.Cao Kim Lan đề cập đến cách phân biệt điểm nhìn thành 3
loại chính, tƣơng ứng với ba kiểu ngƣời kể chuyện:
Điểm nhìn của ngƣời kể chuyện toàn tri.
Điểm nhìn của ngƣời kể chuyện ngôi thứ ba.
Điểm nhìn của ngƣời kể chuyện ngôi thứ nhất.
15
Dựa trên lí thuyết tự sự học, Thái Phan Vàng Anh đã tổng hợp tạm chia
ba kiểu nhìn (gắn với ba kiểu điểm nhìn) phổ biến ở ngƣời kể chuyện:
“Thứ nhất, nhìn “từ đằng sau” (gắn với điểm nhìn toàn tri) khi người kể
chuyện có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả.
Thứ hai, nhìn “từ bên trong” (gắn với điểm nhìn bên trong) khi người kể
chuyện là nhân vật. Người kể chuyện hạn chế điểm nhìn tự sự của mình vào
điểm nhìn của nhân vật. Người kể chuyện theo điểm nhìn bên trong thường có
hai dạng cơ bản:
Dạng thứ nhất, người kể chuyện xưng “tôi”, tự thú nhận, bộc bạch về
mình, kể về những tâm trạng, cảm giác mà mình đã nếm trải. Ví dụ: Bộ ba tự
truyện của Macxim Gorki.
Dạng thứ hai, người kể chuyện đứng ở ngôi thứ ba từ bên ngoài nhưng
lại tựa vào điểm nhìn nhân vật để kể. Do vậy mà khoảng cách giữa người kể
chuyện và nhân vật bị thu hẹp.
Thứ ba, nhìn “từ bên ngoài”(gắn với điểm nhìn bên ngoài): Người kể
chuyện theo điểm nhìn bên ngoài hoàn toàn xa lạ với thế giới mà anh ta kể,
anh ta chỉ có thể kể về những hành động, lời nói thể hiện ra bên ngoài nhân
vật chứ không có khả năng am hiểu nội tâm của họ” [1; 47].
Sự phân biệt trên đây hoàn toàn mang tính tƣơng đối vì hầu nhƣ không
có tác phẩm nào chỉ sử dụng một điểm nhìn mà các điểm nhìn đƣợc di động,
sử dụng linh hoạt, phối hợp với nhau phục vụ cho ý đồ sáng tạo của ngƣời
nghệ sĩ.
Một khía cạnh khác của điểm nhìn là điểm rơi của cái nhìn, thể hiện ở hệ
thống các chi tiết, đồ vật, phong cảnh, màu sắc, âm thanh, động tác… Phân
tích phƣơng diện này giúp khám phá cả cái nhìn của tác phẩm.
16
Tóm lại, điểm nhìn trần thuật có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo
nên sự thành công của tác phẩm. Nó thể hiện đƣợc dụng ý và tài năng trong
nghệ thuật trần thuật của tác giả.
1.1.3.3 Lược thuật
Lƣợc thuật là phần trình bày giới thiệu về nhân vật, tình huống… cung
cấp những thông tin bƣớc đầu về nhân vật, chuẩn bị cho các biến cố hoặc
thông tin dự báo trong quá trình hoạt động của nhân vật, nhƣng không đi sâu
vào chi tiết, không dừng lại miêu tả.
1.1.3.4 Dựng cảnh và miêu tả chân dung
Đây là phần tái hiện trực tiếp chân dung, hành động, biến cố, đối thoại
của các nhân vật. Miêu tả cảnh tƣợng có tác dụng tái hiện sự vật, hiện tƣợng
trong không gian, thời gian cụ thể, vớ những biểu hiện, đặc điểm cụ thể.
Thƣờng ở những đoạn miêu tả cảnh tƣợng thì thời gian ngừng trôi. Dựng cảnh
không chỉ là chuẩn bị môi trƣờng cho nhân vật hoạt động mà còn gián tiếp
miêu tả tâm lí, cung cấp thông tin về những đổi thay, tạo không khí dự báo
biến cố mới. Vì thế cảnh cũng là một bộ phận không thể thiếu của truyện.
1.1.3.5 Phân tích, bình luận
Yếu tố phân tích, bình luận không hiếm trong văn học. Nghị luận trong
thơ ngƣời ta đã biết từ xƣa. Nhƣng nghị luận trong thơ cũng nhƣ trong văn
đều phải thấm đƣợc tình cảm, cảm xúc. Trong trần thuật, nghị luận phân tích
góp phần thức đẩy nhân vật hành động.
Tuy nhiên, với sự đổi mới, cách tân của nghệ thuật trần thuật đƣơng đại,
yếu tố phân tích, bình luận lại có những điểm đổi mới khác biệt, nhiều khi
vắng mặt.
1.1.3.6. Ngôn ngữ trần thuật
Ngôn ngữ từ lâu đã là một phƣơng thức giao tiếp quan trọng không thể
thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Trong văn học, ngôn ngữ càng chiếm một vị
17
trí quan trọng bởi “tác phẩm văn học là công trình nghệ thuật ngôn từ”.
M.Gorki đã khẳng định: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ
chủ yếu của nó cùng với các sự kiện, các hình tượng của cuộc sống là chất
liệu của văn học”.
Ngôn ngữ trần thuật là phƣơng diện quan trọng thể hiện sự tham gia của
nhà văn trong tác phậm văn học. Nhà văn có vai trò quan trọng trong việc tổ
chức kết cấu, dẫn dắt mạch truyện, khơi gợi liên tƣởng cho ngƣời đọc. Nhà
văn không chỉ lựa chọn, phản ánh một mảng hiện thực nào đó mà còn thể hiện
thái độ của mình với hiện thực đó.
Ngôn ngữ trần thuật bao gồm: ngôn ngữ của ngƣời trần thuật, ngôn ngữ
của nhân vật và lời nói nƣớc đôi, trong đó ngôn ngữ ngƣời trần thuật giữ vai
trò quyết định.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ngôn ngữ trần thuật chính là “phần lời
văn độc thoại thể hiện quan điểm của tác giả hay người kể chuyện (sản phẩm
sáng tạo của tác giả) đối với cuộc sống được miêu tả” [3; 34].
Trong tác phẩm tự sự, tác giả vừa là ngƣời dẫn dắt, vừa là ngƣời có vai
trò kể chuyện. Ngôn ngữ trần thuật có vai trò vô cùng quan trọng đối với loại
tác phẩm tự sự: “Trong tiểu thuyết, trong truyện, những con người được tác
giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn bên cạnh
họ, mách cho người đọc biết rõ cần phải hiểu họ như thế nào, giải thích cho
người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn đằng sau hành
động của các nhân vật, tô đậm thêm cho tâm trạng của họ bằng đoạn miêu tả
thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung luôn điều khiển họ theo mục
đích của mình chỉ một cách tự do khéo léo” (M.Gorki).
Ngôn ngữ trần thuật không những có vai trò then chốt trong phƣơng thức
trần thuật mà còn là yếu tố cơ bản để thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt
cái nhìn, cá tính, giọng điệu tác giả.
18
Ngôn ngữ trần thuật theo Từ điển thuật ngữ văn học là “lời nói của nhân
vật trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự và kịch”.
Ngôn ngữ nhân vật là một trong những phƣơng diện quan trọng mà nhà
văn thể hiện cuộc sống và tính cách nhân vật. Trƣớc đây, trong văn học trung
đại, do ý thức cá nhân chƣa đƣợc đề cao, ngôn ngữ nhân vật chƣa đƣợc cụ thể
hóa sâu sắc và chƣa đƣợc phân biệt với ngôn ngữ của tác giả. Nhƣng về sau,
với sự trỗi dậy của ý thức cá nhân, ngôn ngữ của nhân vật đƣợc coi là đối
tƣợng của sự miêu tả và cá tính hóa trở thành một yêu cầu thẩm mĩ. Nhà văn
có thể cá tính hóa ngôn ngữ nhân vật bằng nhiều cách: nhấn mạnh cách đặt
câu, dùng từ, lời phát âm đặc biệt của nhân vật, cho nhân vật lặp lại những từ,
những câu mà nhân vật thích nói, hoặc trực tiếp miêu tả phong cách ngôn ngữ
nhân vật…
Dù tồn tại dƣới hình thức nào hoặc đƣợc thể hiện bằng cách nào thì ngôn
ngữ nhân vật cũng phải kết hợp chặt chẽ hài hòa tính cá thể hóa và khái quát
hóa. Nghĩa là một mặt, mỗi nhân vật có một ngôn ngữ, một đặc điểm riêng;
mặt khác ngôn ngữ ấy lại phản ánh đƣợc ngôn ngữ của một tầng lớp ngƣời
nhất định.
Ngoài hai ngôn ngữ trên, ngôn ngữ trần thuật còn gồm cả ngôn ngữ nước
đôi. Đó vừa là lời nói của tác giả, vừa là lời nói của nhân vật, bộc lộ cả thế
giới bên trọng và bên ngoài nhân vật.
Nhƣ vậy, ngôn ngữ trần thuật mang tính chính xác, tính cá thể hóa do
đặc trƣng của ngôn ngữ ngƣời kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật trong tác
phẩm văn học quy định. Ở tác phẩm tự sự, ngôn ngữ ngƣời trần thuật giữ một
vai trò quyết định. Khi ngôn ngữ đa thanh thì lời văn trần thuật sẽ đa giọng
điệu và điều này sẽ làm nên tính đối thoại của tác tác phẩm tự sự.
19
1.1.3.7 Giọng điệu trần thuật
Trong cuộc sống hàng ngày, giọng điệu đƣợc hiểu nhƣ lời nói, giọng nói
của mỗi cá nhân con ngƣời, phản ánh thái độ, tƣ tƣởng, tình cảm, cách đánh
giá nhất định và nó thƣờng mang tính nhất thời.
Còn trong văn học, giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ, có vai trò rất
lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn, đồng thời đƣợc tổ chức công phu
và là kết quả của một quá trình sáng tạo thực sự giúp cho nhà văn khi sáng tác
có thể liên kết các yếu tố hình thức lẫn nhau làm cho chúng còn mang một âm
hƣởng nào đó, cùng chung một khuynh hƣớng nhất định.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Giọng điệu là sự thể hiện thái độ, tình
cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với đối tượng được miêu
tả, thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu
tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay
châm biếm.. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm, thị hiếu
thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên phong cách nhà văn và tác
dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn
chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ điều tài liệu và sắp xếp
trong hệ thống nhân vật” [3; 154].
Giọng điệu không đơn giản chỉ là tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù để
ta nhận ra ngƣời nói mà là một giọng điệu mang tính nội dung, tình cảm, thái
độ, ứng xử của ngƣời nói trƣớc các hiện tƣợng đời sống. Qua giọng điệu,
ngƣời đọc có thể thấy đƣợc chiều sâu tƣ tƣởng, thái độ, vị thế, phong cách, tài
năng cũng nhƣ sở trƣờng ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ…
Cần phân biệt giọng điệu với ngữ điệu - phƣơng diện biểu hiện của lời
nói thông qua cách lên giọng, xuống giọng, nhấn mạnh, nhịp điệu…giọng
điệu là một phạm trù thẩm mĩ. Giọng điệu trong mỗi tác phẩm không chỉ gắn
liền với giọng tác giả ngoài đời, mà nó cùng một nội dung khái quát phù hợp
20