Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

So sánh trào lưu nhân văn trong văn học hàn – việt thế kỷ XVIII XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339 KB, 11 trang )

Nghiên cứu khoa học
So sánh trào l-u nhân văn
Trong văn học hàn việt thế kỷ xviii-xix
Nguyễn hữu sơn*

Túm tt: Bi vit xỏc nh nhng tng ng v khỏc bit ca quỏ trỡnh nh hỡnh v
phỏt trin tro lu nhõn vn trong vn hc Hn Vit th k XVIII XIX. Chng dn qua
mt s hin tng th loi, cm hng sỏng tỏc, h thng ch , tỏc gia, tỏc phm v nhõn
vt tiờu biu. Phõn tớch nn tng xu th ly tõm chớnh thng, khng nh ý thc con ngi cỏ
nhõn, ch tỡnh yờu v vai trũ ngi ph n. Nhn mnh ý ngha gii Hỏn húa, gii
th th loi vn hc ch Hỏn v i sỏnh qua mt s tỏc gia, tỏc phm tiờu biu Hn
Quc (th loi Sasol Sijo, ca t khuờ phũng v tp ca, Quý Su nht ký, Nhõn Hin Vng
hu truyn, Xuõn Hng truyn) v Vit Nam (ra i cỏc th loi ngõm khỳc, truyn th,
hỏt núi, tiu thuyt chng hi)...
T khúa: Tro lu nhõn vn, Vn hc trung i Hn Quc, Vn hc trung i Vit Nam,
Vn hc th k XVIII-XIX, So sỏnh
hi tỡm hiu nhng tng ng v
khỏc bit ca vn hc Vit Hn
giai on hu k trung i (th k XVIII
ht th k*XIX), chỳng tụi ó thc hin mt
phộp so sỏnh v i ti xỏc nh ba c im
chớnh. Th nht, vn hc Hn Quc cú s k
tha m nột cỏc giỏ tr nhõn vn giai on
trc trong khi vn hc Vit Nam chuyn
i, phỏt trin vt bc c v ý thc con
ngi cỏ nhõn cng nh kh nng rng m
v th loi v s lng tỏc phm. Lý do bi
phi n giai on ny thỡ ụ th Vit Nam
mi cú iu kin phỏt trin v bng tnh cỏc
giỏ tr nhõn vn, xut hin nhu cu soỏt xột
li quỏ kh v khng nh quyn sng con


ngi mt cỏch trc din v mnh m. Th
hai, quỏ trỡnh gii th th loi vn hc ch
Hỏn v hi nhp th gii hin i vo chng
cui th k XIX ó vn hnh theo nhng xu
th khỏc xa nhau. Hn Quc, theo nhn
nh ca Giỏo s Jung Min: Mt trong

K

*

PGS. TS, Vin Vn hc, Vin Hn lõm Khoa hc xó hi
Vit Nam

Nghiên cứu đông bắc á, số 7(161) 7-2014

nhng mt mang tớnh c trng ca vn hc
ch Hỏn cui th k XIX l s bt u gii
th th loi mt cỏch rừ rt. S sỏng tỏc th
phỏ cỏch m i biu l Kim Sat Kat l hin
tng mang tớnh cht tng trng nht. H
mn th loi th ch Hỏn nghiờm tỳc
sỏng tỏc nhng bi th hi hc theo li giu
ct tro phỳng, qua ú h thỏch thc vi
quyn uy ca vn n chớnh thng1. Vit
Nam, hin tng mang mu sc gii th cỏc
th loi ny din ra ch yu b phn th ca
ch Nụm, trong khi dũng th ch Hỏn c
bn vn gi nguyờn tớnh bỏc hc, nghiờm
tỳc, quan phng. Lý do cú th bi nhu cu

t thõn ca b phn vn hc ch Hỏn chớnh
thng Hn Quc ó iu kin chớn mui
v xut hin nhu cu t phn bin, t phờ
phỏn, i thay, trong khi vn hc Vit Nam
1

Jung Min, S gii th th loi vn hc ch Hỏn v nn
vn minh mi, trong sỏch Vn hc s Hn Quc t c i
n cui th k XIX, trong sỏch Vn hc s Hn Quc t
c i n cui th k XIX (Jeon Hye Kyung - Lý Xuõn
Chung biờn dch v chỳ gii), Nxb i hc Quc gia H
Ni, 2006, tr. 298-299.

47


Nghiên cứu khoa học
li cha i ht quỏn tớnh ca m hc phong
kin. Th ba, bc sang na cui th k
XIX, vn hc Hn Quc t gii th v
chuyn dn sang thi khai húa nh mt
nhu cu ni ti, phự hp qui lut thỡ vn hc
Vit Nam li phi ng u vi th lc
thc dõn Phỏp (t 1858), khin nú phi co
cm li, gng mỡnh lờn trong cuc chin u
bo v nn c lp dõn tc2 õy cng l
ba c im chớnh yu lm nờn c im
tro lu nhõn vn mi nc.
Thc t c s lch s - vn húa núi trờn
qui nh cỏc c im v i ng tỏc gi, h

thng vn t v th loi, quan nim thm m
v h thng ch lm nờn tro lu nhõn
vn hai nc Hn Vit th k XVIII-XIX.
1. V i ng tỏc gi
So vi cỏc giai on trc, i ng tỏc gi
vn hc th k XVIII-XIX cú s phỏt trin
vt bc v s lng. Trờn nn tng tinh
thn thc hc, cỏc tỏc gia nh nho u
hng s chỳ ý vi cỏc vn hin thc
ang t ra cho dõn tc mỡnh v m ng
cho tro lu nhõn vn phỏt trin. Cú th ly
ý kin nhn nh v thi i thc dng v
phong tro th t thc Hn Quc cng l
c im chung cho c Vit Nam: Th k
XVIII l th k cú ý ngha c bit khụng
ch v lch s vn hc m cũn v lch s vn
húa. Thi k t i vua Yeongjo (Anh T,
1724-1776) n i vua Jeongjo (Chớnh T,
1776-1800) c gi l thi i thc hc v
mt lch s t tng, thi i thc dng
hoc cũn gi l ch ngha thc dng v mt
vn húa3

Trờn thc t, s lng cỏc nh vn Hn
Quc ni bt giai on th k XVIII-XIX cú
Park Chi-won Phỏc Ch Nguyờn (17371805), Jeong Yak-yong inh Nhc Dung
(1762-1836), Kim Chon-taek Kim Thiờn
Trch, ngi h Hng cung Hu Khỏnh
(1735-1815), Sin Che-hyo Thõn Ti Hiu
(1812-1884), Kim Sat Kat (1807-1863)

Cỏc nh nghiờn cu Hn Quc nhn nh v
xu th gii th cỏc th loi vn hc ch Hỏn
v din mo kiu tỏc gi vn hc Hn cui
mựa quõn ch: Cho dự ó n cui th k
XIX nhng vn hc ch Hỏn vn l th loi
vn hc chớnh n cui th k XIX, th
ch Hỏn ó t rừ hỡnh thỏi phc tp v cú
mõu thun mun thoỏt ra khi hỡnh thc
nghỡn bi nh mt v n thun nh trong
quỏ kh. iu ỏng chỳ ý nht trong thi k
ny l hin tng th vn tro phỳng. Tớnh
chõn tht trong th dn dn mt i, nột tro
phỳng v hi hc ngy cng nhiu lờn,
ng thi qui tc lm th chớnh thng bt
u gii th. Th vn tro phỳng ó xut
hin trờn c s t duy mi, thoỏt khi ý nim
c, ch ngha c4
Khỏc vi s chớn sm ca i ng tỏc
gi lm nờn tro lu nhõn vn t th k XVII
v tip ni qua hai th k XVIII-XIX Hn
Quc thỡ ti Vit Nam li din ra ch yu
hai th k XVIII-XIX. Ch trong hai th k
ny, Vit Nam ó xut hin c mt th h
vn nhõn tiờu biu gn vi tro lu nhõn vn
nh V Phng (1697-?), on Th
im (1705-1748), Lờ Hu Trỏc (1720-

2

Lý Xuõn Chung biờn dch v chỳ gii), Nxb i hc Quc

gia H Ni, 2006, tr. 239.
4
Komisook - Jungmin - Jung Byung Sul, Vn hc s Hn
Quc t c i n cui th k XIX (Jeon Hye Kyung Lý Xuõn Chung biờn dch v chỳ gii), Sd, tr. 298-300.

Xin xem Nguyn Hu Sn: Tng ng v tin trỡnh
lch s vn hc trung i Vit Hn, Nghiờn cu ụng
Bc , s 1-2014, tr. 24-32.
3
Komisook - Jungmin - Jung Byung Sul, Vn hc s Hn
Quc t c i n cui th k XIX (Jeon Hye Kyung -

48

Nghiên cứu đông bắc á, số 7(161) 7-2014


Nghiªn cøu khoa häc
1791), Nguyễn Huy Tự (1743-1790),
Nguyễn Huy Lượng (1759-1808), Nguyễn
Du (1765-1820), Phạm Đình Hổ (17681839), Nguyễn Án (1770-1815), Hồ Xuân
Hương (thế kỷ XVIII-XIX), Phạm Thái
(1777-1813), Nguyễn Công Trứ (17781859), Cao Bá Quát (1808-1855), Nguyễn
Đình Chiểu (1822-1888), Nguyễn Khuyến
(1835-1909), Tú Xương (1870-1907)...
Thực tế nói trên cho thấy sự hình thành
đội ngũ tác giả làm nên trào lưu nhân văn ở
Việt Nam xuất hiện muộn hơn, nằm trọn vẹn
trong hai thế kỷ XVIII-XIX. Điều này góp
phần qui định toàn cảnh diện mạo và đặc

điểm của trào lưu nhân văn mỗi nước.
2. Về hệ thống văn tự và thể loại văn
học
Xét về ngọn nguồn, về cơ bản văn học
tiếng Hàn (Quốc ngữ) ở Hàn Quốc phát triển
sớm hơn ở Việt Nam. Đến thế kỷ XVIIIXIX, mỗi nước lại có cách ứng xử ít nhiều
khác biệt với cả hai hệ thống văn tự: tiếng
Hán ngoại nhập và ngôn ngữ dân tộc.
Ở Hàn Quốc, bộ phận văn học chữ Hán có
xu thế ly tâm với chính thống, hướng tới
phản ánh đời sống hiện thực và thể hiện rõ
nét hơn sắc thái dân tộc Hàn, nổi bật với
đóng góp của Jeong Yak-yong – Đinh
Nhược Dung, người đã nêu tuyên ngôn và
tạo lập nên “phong cách Choson”. Điều này
tạo nên hiện tượng chi phối lẫn nhau trong
mối quan hệ giữa hệ thống văn tự và xu thế
“giải thể thể loại”, giữa ngôn từ nghệ thuật
và khả năng chuyển tải nội dung đời sống
hiện thực. Các nhà nghiên cứu văn học Hàn
Quốc cho biết: “Văn học chữ Hán cuối cùng
đến thời khai hóa đã suy tàn, nhưng nếu xem
xét báo và tạp chí của thời kỳ này khai hóa

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014

thì thấy thơ chữ Hán vẫn được sáng tác, vẫn
là thể loại chủ yếu. Vào thời kỳ này, không
những ca từ khai hóa mà cả Sijo cũng được
tiếp tục đăng tải và thơ chữ Hán cũng vẫn

được đăng tải nhiều, số lượng lên tới mấy
vạn bài. Thơ ca thời kỳ khai hóa nếu không
có thế mạnh của chữ Hán tác động thì đa số
thơ ca chữ Hàn cũng không thể sáng tác
được… Điều thú vị là sự thay đổi hình thức
về mặt thể loại thì sâu đậm chưa từng có,
nhưng ngược lại, chủ đề các tác phẩm lại rất
bảo thủ và cứng nhắc… Thể loại văn học
chữ Hán thời kỳ này đã bị giải thể, chỉ để lại
tàn dư và có tính chất hình thái trong nhiều
thể loại văn học chữ Hàn”5…
Tại Việt Nam, mặc dù chữ Nôm (ghi âm
tiếng Việt) xuất hiện từ khoảng thế kỷ XIIIXIV, phát triển khá mạnh ở thế kỷ XV-XVII
nhưng sang thế kỷ XVIII-XIX thì trỗi dậy
mạnh mẽ, làm nên thành tựu chủ yếu của
trào lưu nhân văn chủ nghĩa. Ở đây có hai
điểm cần chú ý. Thứ nhất, nguồn thơ chữ
Hán xuất sắc của Nguyễn Du, Cao Bá Quát
và nhiều tác phẩm ký, tiểu thuyết chương hồi
cũng bằng chữ Hán vẫn tiếp tục phát triển.
Thứ hai, điều này quan trọng hơn, bộ phận
thơ Nôm luật Đường với tên tuổi Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến,
Trần Tế Xương đã đạt tới trình độ nghệ thuật
điêu luyện, đồng thời xuất hiện ba dòng thể
loại thơ Nôm đặc sản (ngâm khúc, truyện
thơ và hát nói) đã góp phần quyết định làm
nên linh hồn trào lưu nhân văn cũng như lịch
sử văn học Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX.


5

Komisook - Jungmin - Jung Byung Sul, Văn học sử Hàn
Quốc từ cổ đại đến cuối thế kỷ XIX (Jeon Hye Kyung Lý Xuân Chung biên dịch và chú giải), Sđd, tr. 302-303.

49


Nghiªn cøu khoa häc
3. Quan niệm thẩm mỹ và hệ thống chủ
đề làm nên trào lưu nhân văn trong văn
học Hàn - Việt thế kỷ XVIII-XIX
Nhìn nhận một cách tổng quát, có thể thấy
có độ chênh nhất định cả về thời gian xuất
hiện cũng như độ đậm đặc các quan niệm
thẩm mỹ và hệ thống chủ đề làm nên trào
lưu nhân văn ở hai nước trong hai thế kỷ
XVIII-XIX.
Nếu như ở Việt Nam, trong nhiều thế kỷ
trước chỉ có Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ (thế kỷ XVI) vốn là tác phẩm “bên lề”
giàu chất nhân văn thì ở Hàn Quốc, ngoài tác
phẩm Kim Ngao tân thoại của Kim Si Seup Kim Thời Tập (1435-1493) được coi là
tương đương với Truyền kỳ mạn lục, lại vẫn
có nhiều tác gia, tác phẩm, trào lưu sáng tác
in đậm sắc màu nhân văn. Khi khảo sát diện
mạo văn học Hàn Quốc thế kỷ XVII, đặc
biệt dừng lại tìm hiểu hai tiểu thuyết Cửu
vân mộng và Tạ thị Nam chinh ký của Kim
Man Chung - Kim Vạn Trọng (1637-1692),

chúng tôi đã đi đến nhận xét: “Qua những
phân tích trên đây có thể thấy văn học Hàn
Quốc giai đoạn này có phần rộng mở hơn, ly
tâm nhiều hơn, khoảng tự do sáng tạo cũng
rộng rãi hơn. Trên cơ sở đó, cả về số lượng
tác phẩm cũng như hình thức thể loại cũng
phong phú hơn, đặc biệt với việc xuất hiện
loại chữ Han-gul ghi âm tiếng Hàn và dòng
tiểu thuyết chữ Hàn. Có được điều đó là bởi
đô thị ở Hàn Quốc phát triển mạnh mẽ hơn,
các vấn đề liên quan đến lưu hành tiểu
thuyết và đời sống văn học nói chung cũng
mang tính thương mại (sao chép, diễn đọc,
cho thuê sách và xuất bản) cũng diễn ra sớm

50

và với nhịp độ gấp rút hơn”6… Điều này thể
hiện rõ ở sự chín sớm, xuất hiện sớm (so với
Việt Nam) của tiểu thuyết chữ Hàn
(Hangul), loại tiểu thuyết khuê phòng, tiểu
thuyết dòng họ, tiểu thuyết anh hùng và nhân
vật nữ anh hùng. Với sự khởi động và chín
sớm từ thế kỷ XVII, trào lưu nhân văn Hàn
Quốc tiếp tục tràn qua và đạt nhiều thành tựu
trong hai thế kỷ XVIII-XIX.
Bước sang thế kỷ XVIII, văn học Hàn
Quốc xoay chiều hướng nhiều hơn về cái
thực và định hình dòng thơ tả thực, đặc biệt
với sự khẳng định “phong cách Choson” (gia

tăng tiếng nói chủ thể, chất tự sự, nội dung
hiện thực, đời sống dân chúng, ý thức về
nguồn văn học dân gian, ca dao). Lời tuyên
ngôn của Jeong Yak-yong – Đinh Nhược
Dung: “Tôi là người Choson nên tôi vui vẻ
làm thơ của Choson”, từ đó tạo nên dòng
chảy chủ lưu cho văn học Hàn Quốc hướng
về những vấn đề thiết cốt của quốc gia, dân
tộc. Trên thực tế, ở đây tiếp tục diễn ra hiện
tượng “lưỡng đầu chế” có ý nghĩa thời đại:
một mặt, bộ phận văn chương “chân thư”
(cung đình, chính thống, quan phương) vẫn
đề cao đạo lý và chuẩn mực xưa cũ (vua
Jeongjo - Chính Tổ (1776- 1800) đã hạn chế
tinh thần khai sáng, gia tăng kiểm duyệt,
cưỡng chế văn nhân quay về lối cổ văn thuần
túy); mặt khác, bộ phận văn chương “ngạn
thư” (tầng lớp văn nhân thị dân và bình dân
theo ngọn cờ Park Chi- won – Phác Chỉ
Nguyên, Jeong Yak-yong – Đinh Nhược

6

Xin xem Nguyễn Hữu Sơn, “Tương đồng về tiến trình
lịch sử văn học trung đại Việt – Hàn”, Nghiên cứu Đông
Bắc Á, số 1-2014, tr.29.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014



Nghiên cứu khoa học
Dung) phỏt trin mnh m, tr thnh xu th
khụng th o ngc.
Trờn nn tng tinh thn t thc, hng v
thc ti, tro lu nhõn vn trong vn hc
Hn Quc th k XVIII-XIX th hin sõu
sc ý thc v quyn sng con ngi, nhn
mnh ch nhõn tỡnh th thỏi, tp trung
khai thỏc ch tỡnh yờu, quan h tớnh dc
v th gii tỡnh cm phong phỳ ca con
ngi. Theo sỏt xu th thi ca v ngun
Choson, dũng vn xuụi tiu phm, tn vn,
truyn ký ca phỏi vn nhõn Bc hc (gm
Park Chi-won Phỏc Ch Nguyờn vi tỏc
phm Nhit H nht ký v cỏc tỏc gi Yi Tc
Mu, Park Chờ Ha, Yu Tc Kong, Yi Yoong
Hyu, Yi ễk) tip tc hp lc lm nờn sc
mnh tro lu nhõn vn ng thi.
Nhỡn t mt phớa khỏc, s lờn ngụi ca
th loi Sasol Sijo (vn cú ci ngun t
Hyang-ca ri c nõng cao vi th Sijụ) ó
m rng ngun cm hng v thay i cn
bn quan nim thm m, thu hỳt vo ú ch
tỡnh yờu mang tớnh dc mónh lit. Cú th
thy õm hng ting núi k bờn l ny cú
phn tng ng vi li th H Xuõn
Hng ca Vit Nam. Tớnh cht bờn l ny
bt u ngay t vn tỏc gi v xut x cỏc
bi th. Ch bit ngi thu thp vn bn
Sasol Sijo li chớnh l anh lớnh l - chng

ngh s hỏt rong Kim Chon Taek Kim
Thiờn Trch. Cỏc nh nghiờn cu Hn Quc
ỏnh giỏ cao ý ngha gii phúng bn nng v
t do cỏ nhõn, thc tnh quyn sng con
ngi, cao m hc ting ci th loi
Sasol Sijo qua su tp Thanh Khõu vnh
ngụn (1728): Xem tỏc phm thỡ thy mi
vn phỏ cỏch t miờu t trc tip tỡnh yờu
nam n n mt phn cuc sng t do ụ
th, i sng khú khn vt v ca ngi dõn

Nghiên cứu đông bắc á, số 7(161) 7-2014

tng lp di Nguyờn lý mang tớnh m
hc ca Sasol Sijo l n ci. Ngay c s t
cỏo iu bt hp lý v mõu thn v thõn
phn xó hi, s chõm bim tng lp thng
tr, s phn ỏnh cuc sng vt c ca dõn
nghốo cng ó c bn to nờn n ci trong
tỏc phm Quan im ny trong lnh vc
m hc ca Sijụ cú th hiu l hỡnh tng a
dng ca nhõn tỡnh th thỏi chim v trớ ch
yu... Hỡnh tng nhõn vt v tỡnh cm m
Sasol Sijo th hin hon ton thoỏt ra khi
cỏi khung ca quan nim Lý hc, miờu t
theo cuc sng hin thc v dc vng mang
tớnh bn nng ca con ngi. T tru tng
cao xa h xung thc t c th, ú l mnh
trung tõm ca m hc Sasol Sijo7 Xột
v bn cht, cm hng thm m õy cú xu

th ly tõm chớnh thng, khng nh ý thc
con ngi cỏ nhõn, ch tỡnh yờu v vai trũ
ngi ph n. Xin c mt bi Sasol Sijo:
ễi! tỡnh yờu! tỡnh yờu!
Nh gin dõy leo qun quớt.
Nh tm li bao trựm bin c
Nh gin da lờ da hu
Mi dm di vn ra
Li mi dm na
Qun quớt vo nhau
Vn ra mói mói
ễi! Tỡnh yờu ca chng
Cng vn di khụng dt
Cỏc nh nghiờn cu Hn Quc bỡnh lun:
Xem bi ca ny thỡ thy, tỡnh yờu m Sasol
Sijo th hin c hỡnh tng húa bng
nhng cỏi li hoc gin cõy leo. Núi cỏch
khỏc l, õy, tỡnh yờu cú sc sng bn b

7

Komisook - Jungmin - Jung Byung Sul: Vn hc s Hn
Quc t c i n cui th k XIX (Jeon Hye Kyung Lý Xuõn Chung biờn dch v chỳ gii). Sd, tr.247-251.

51


Nghiªn cøu khoa häc
và sức vươn lên mạnh mẽ, hơn nữa, còn chia
sẻ niềm vui tình ái mang tính thể xác. Đó là

tình yêu có sức mạnh vô bờ bến”8.
Xét từ góc độ tiếp nhận, chính các tác giả
Văn học sử Hàn Quốc (Từ cổ đại đến cuối
thế kỷ XIX) cũng phản tỉnh và bày tỏ chính
kiến về lối nghiên cứu tả khuynh, “bắt vít”,
thiên về đánh giá chủ quan, khiên cưỡng,
nâng quan điểm, hiện đại hóa vấn đề và bộc
lộ rõ cách nhìn phi lịch sử: “Nếu như nói văn
học là tấm gương phản chiếu hiện thực thì
Sasol Sijo chính là chiếc gương kỳ diệu. Ta
thường có quan niệm rằng Sasol Sijo có nội
dung chủ yếu phê phán một cách thẳng thắn
đối với mâu thuẫn mang tính phong kiến.
Nhưng trên thực tế, khó có thể tìm thấy
những bài Sasol Sijo phê phán một cách trực
tiếp như quan niệm trên. Ngược lại, sự miêu
tả các hình tượng nhân vật nêu trên một cách
cụ thể với âm thanh đa dạng có thể coi là
cương lĩnh cơ bản của Sasol Sijo”9… Có thể
coi đây cũng là bài học chung cho giới
nghiên cứu cổ văn ở hai nước và thế giới nói
chung.
Trong xu thế “giải Hán hóa” và “giải thể
thể loại văn học chữ Hán”, văn học Hàn
Quốc thế kỷ XVIII-XIX có xu thế ly tâm
chính thống, mở rộng diện đề tài và phạm vi
phản ánh hiện thực như hệ thống chuyện kín
trong cung cấm, chuyện hoàng hậu bị giam
trong cung điện (tiểu thuyết tư liệu chữ Hán
Quý Sửu nhật ký của tác giả khuyết danh),

8

Komisook - Jungmin - Jung Byung Sul: Văn học sử Hàn
Quốc từ cổ đại đến cuối thế kỷ XIX (Jeon Hye Kyung Lý Xuân Chung biên dịch và chú giải). Sđd, tr.253.
9
Komisook - Jungmin - Jung Byung Sul, Văn học sử Hàn
Quốc từ cổ đại đến cuối thế kỷ XIX (Jeon Hye Kyung Lý Xuân Chung biên dịch và chú giải), Sđd, tr.251.

52

chuyện nhà vua lấy thiếp làm rối loạn nước
(tiểu thuyết lịch sử Nhân Hiển Vương hậu
truyện), chuyện nhà vua giam giữ con trai
vào rương đựng gạo cho đến chết (hồi ký
Nhàn trung lục của Hoàng thái hậu họ
Hồng)… Mở rộng hơn nữa là kiểu chuyện
được hát trên sàn diễn với đề tài mối tình kỹ
nữ, cặp đôi “Tài tử giai nhân” với thể văn
nhạc kịch – tiểu thuyết Pan-sô-ry (Xuân
Hương ca (truyện), Thẩm Thanh ca (truyện),
Hưng Phu ca (truyện),…). Các tác phẩm này
đều in đậm sắc thái bi ai, những tấn bi kịch
đời thường, phản ánh chủ đề quan hệ tình
yêu và gia đình, trong đó có sự giao thoa,
hỗn dung các thể loại và thể văn khác nhau.
Gắn với hệ thống chủ đề và quan niệm
thẩm mỹ, văn học Hàn Quốc thể hiện rõ ưu
thế ở loại hình trữ tình, hệ thống ca từ, tạp ca
và ca dao đại chúng. Nổi bật ở đây là xu thế
mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực, những

cảnh ngộ khác nhau và thế giới tâm hồn con
người. Loại ca từ khuê phòng đặc biệt phù
hợp với sự diễn tả những niềm vui và nỗi
buồn người phụ nữ, những cuộc đời bất
hạnh, những đắng cay phải chịu đựng trong
cuộc sống thường ngày. Những tác phẩm
như Lão thiếu nữ ca (kể về bi kịch người
phụ nữ quá lứa lỡ thì và ước mơ một ngày
hạnh phúc), trường ca Bà mẹ có con trai bị
bỏng (kể về bi kịch gia đình suy sụp, mẹ con
chịu nhiều nỗi khổ, dài tới 1600 câu thơ)…
đã xác định thực tế “khuynh hướng tiểu
thuyết hóa trong ca từ ở cuối thời Choson”.
Rõ ràng việc quan tâm đến số phận người
phụ nữ trên nhiều phương diện khác nhau là
một chỉ số quan trọng trong việc xem xét,
đánh giá diện mạo trào lưu nhân văn ở Hàn
Quốc thế kỷ XVIII-XIX cũng như mọi thời
đại.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014


Nghiên cứu khoa học
i sỏnh vi nn vn hc Vit Nam th
k XVIII-XIX, cú th thy, õy l giai on
phỏt trin trong bi cnh lch s y bin
ng, va cú ni chin va hng ti thng
nht t nc, va xut hin phong tro
nụng dõn khi ngha va cú chng ngoi

xõm, va cú nhng trang vn t ti nh
cao va m rng giao lu, tip nhn nh
hng t bờn ngoi. i ng tỏc gi ch yu
l nh nho nhng ó cú s phõn húa mnh
m, bao gm cỏc tng lp vua quan v nho
s, bỏc hc v bỡnh dõn. Sỏng tỏc bng ch
Nụm t thnh tu vt tri so vi ch Hỏn.
Cỏc th loi vn hc in m bn sc dõn tc
phỏt trin lờn mt tm cao mi, a n
nhng giỏ tr thm m giu tớnh nhõn vn.
Hin thc xó hi c phn ỏnh y , sõu
sc v ton din hn, m rng hn cỏc sc
thỏi tỡnh cm. í thc con ngi cỏ nhõn
c khai thỏc t nhiu gúc v th hin
trong nhiu nhõn vt in hỡnh sinh ng.
Tớnh chc nng, giỏo hun v nhng quy
phm hỡnh thc ngy cng gim nh trong
khi cht vn chng v kiu vn hc hỡnh
tng ngy cng c phỏt huy.
V tin trỡnh phỏt trin th loi cn c
bit chỳ ý n s ra i ca ngõm khỳc,
truyn th v hỏt núi. Tt c c th hin
bng ch Nụm. Th loi ngõm khỳc xut
hin sm vi hai tỏc phm tiờu biu l Chinh
ph ngõm khỳc ca ng Trn Cụn (Th k
XVIII) ri c on Th im din Nụm
v Cung oỏn ngõm khỳc ca Nguyn Gia
Thiu. C hai tỏc phm u tp trung khng
nh nhng giỏ tr nhõn vn, in m sc thỏi
bi kch tr tỡnh, phn ỏnh s phn ngi ph

n b b ri ni cung cm v ni cụ n khi
chng ra trn... Vi t cỏch l con ngi, h
cú mi cung bc tõm trng vui bun.

Nghiên cứu đông bắc á, số 7(161) 7-2014

Quan trng hn, ngi cung n trong Cung
oỏn ngõm khỳc dỏm bc l rừ nhu cu tỡnh
cm v c vng quan h thõn xỏc vi nh
vua:
Cỏi ờm hụm y ờm gỡ,
Búng dng lng búng mi trp trựng.
Hoc nh ngi chinh ph khao khỏt nh
chng trong Chinh ph ngõm, khụng ha
hn gp g mt cừi tri no khỏc, m
mong c chung sng, tn hng hnh
phỳc ngay gia cuc i trn th ny:
nh muụn kip ch tỡnh ó vy,
Theo kip ny hn thy kip sau.
Vic th hin cỏc sc thỏi thm m t
hiu qu c bit rừ nột h thng truyn
th Nụm vi hng chc tỏc phm, c loi
truyn bỏc hc v bỡnh dõn. Trong s ú, t
ti nh cao ngh thut chớnh l kit tỏc
Truyn Kiu ca Nguyn Du. Th mnh ca
truyn th l kh nng bao quỏt phm vi
hin thc rng ln, xõy dng c nhiu
nhõn vt in hỡnh. Nhiu khớa cnh ni
dung v ngh thut thuc phm trự cỏi p
ó c th hin sõu sc trong cỏc tỏc phm

vn hc thi k ny. Nu nh vn hc th k
XV n ht th k XVII cn bn hng n
xỏc lp cỏc phm trự thm m qui phm
(ngay c khi cú s phờ phỏn cng ch yu
nhm phờ phỏn khng nh ch khụng
nhm ph nhn, ph nh) thỡ vn hc th k
XVIII-XIX li hng n ly tõm chớnh
thng, gii phúng con ngi cỏ nhõn, khng
nh tro lu nhõn vn, thc hin gii Hỏn
húa, chng cụng thc, khuụn phộp, l ngha
Nho giỏo. iu ny th hin rừ h thng
ch tỡnh yờu, mụ tớp ti t giai nhõn v
vic cao quyn sng con ngi. Núi riờng
trong ch tỡnh yờu, v p hỡnh th ngi
ph n c coi trng v c miờu t trc

53


Nghiªn cøu khoa häc
diện như nàng Thúy Kiều trong Truyện
Kiều:
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Rày rày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Quan niệm về cái đẹp thuộc về phẩm chất
con người cũng có những thay đổi đáng kể
so với đạo đức Nho giáo truyền thống. Thúy
Kiều bán mình lấy tiền chuộc cha, sau 15
năm lưu lạc, hai lần phải vào lầu xanh, hai
lần trú ngụ nơi cửa chùa, rút cuộc vẫn được

người yêu là Kim Trọng đánh giá cao:
Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay.
Thế giới nhân vật trong Truyện Kiều
không chỉ có hai màu sáng tối tương phản
mà đã trở nên đa dạng, sinh động hơn, có cả
nhân vật chính diện, phản diện và nhiều
nhân vật trung gian khác nữa. Thậm chí
ngay nhân vật chính diện Thúy Kiều, trong
tình thế nhất định, cũng có những mặt hạn
chế như cả tin, tham tiền, ăn cắp chuông
vàng khánh bạc nhà Hoạn Thư… Tất cả
những điều này làm nên một bảng màu phạm
trù thẩm mỹ những nét tươi mới, khác biệt
so với giai đoạn văn học trước đây.
Phần lớn các truyện thơ Việt Nam đều
vay mượn cốt truyện từ Trung Quốc nhưng
được sáng tạo lại theo phương thức giản
lược nội dung tự sự và gia tăng yếu tố trữ
tình. Nhờ lời thơ bằng ngôn ngữ tiếng Việt
và vận dụng thành thục các thành ngữ, tục
ngữ, lối cảm, lối nghĩ quen thuộc và chủ yếu
được thể hiện bằng lối thơ lục bát giàu âm
điệu, dễ hiểu, dễ thuộc nên Truyện Kiều có
sức ảnh hưởng sâu rộng trong đông đảo công
chúng10. Có thể coi đây là cái đẹp của sự kết

hợp giữa văn chương bác học hàn lâm với
văn hóa – văn học dân gian mà bằng chứng
là thành tựu thi ca lấn át văn xuôi, tư duy

nghệ thuật trữ tình lấn át tư duy tự sự, còn
lại chính kịch hầu như chưa phát triển (chỉ
có ca kịch, tuồng, chèo)…
Ngoài nguồn thơ chữ Hán xuất sắc của
Nguyễn Du, Cao Bá Quát, bộ phận thơ Nôm
luật Đường với tên tuổi Hồ Xuân Hương
(thế kỷ XVIII-XIX) đã đạt tới trình độ nghệ
thuật điêu luyện và đến nay đã được dịch ra
nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có thể hình
dung thơ Nôm Hồ Xuân Hương như một
hình thức “lễ hội giả trang”, tạo nên hệ qui
chiếu thẩm mỹ khác biệt, đối nghịch với hệ
thống mỹ học phong kiến chuẩn mực. Thơ
Hồ Xuân Hương hầu hết đều có ẩn ý hai
nghĩa, liên quan đến bộ phận kín, gợi tình,
gợi chuyện quan hệ nam nữ. Đồng thời với
tiếng nói ngôn từ mạnh bạo ở bề nổi - những
lực ly tâm tràn đầy mạnh mẽ - là một phong
cách nghệ thuật độc đáo, trong đó bao hàm
các thao tác nhân cách hóa vũ trụ (coi mặt
trăng, hang đá, đèo núi cũng rung động,
cũng có khát vọng yêu đương, có tình cảm
như con người) và tự nhiên hóa con người
(hình tượng hóa con người như là cái quạt,
quả mít, bánh trôi)...; mặt khác bộc lộ sâu
sắc mỹ học về cái thô tục, lối nói ỡm ờ “đố
tục giảng thanh” vốn phổ biến trong tư duy
dân gian mà từ gần nửa thế kỷ trước nhà
Việt học N. I. Nhiculin đã dẫn giải: “Rõ ràng
ở đây cần phải áp dụng một thuật ngữ do M.

M. Bakhtin đưa ra: “tiếng cười lưỡng trị” trong đó có sự chửi mắng và khen ngợi, sự
phủ định và khẳng định, sự chết đi và sinh
thành đều hòa nhập vào nhau như hai mặt

10

Xin xem Nguyễn Hữu Sơn: “So sánh Truyện Kiều” với
“Kim Vân Kiều truyện từ sự chuyển đổi loại hình và thể
loại”. Nghiên cứu Văn học, số 11-2005, tr.27-43. Tuyển in

54

trong Nghiên cứu “Truyện Kiều” những năm đầu thế kỷ
XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2009, tr.1107-1122.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014


Nghiªn cøu khoa häc
của một quá trình “tái sinh” thông qua sự
cười nhạo và hạ thấp, thông qua sự “văng
vào bộ phận dưới của cơ thể”11… Đặc tính
“lưỡng trị” trên đây chính là sự biểu hiện
những đặc điểm của nhân vật trữ tình trong
thế đối lập và trong tính thống nhất. Điều
này thể hiện sâu sắc trong mối quan hệ giữa
các phạm trù cái bi và cái hài, cái thanh cao
và cái thô tục; giữa khả năng vận dụng các
thể tài văn chương bác học và tư duy thơ ca
dân gian; giữa ý thức về hạnh phúc tình đời

và thái độ phê phán sâu cay những thói đạo
đức giả; giữa ý thức về con người cá nhân và
thực trạng những số phận bất hạnh. Trong
mối quan hệ đó, chính phương diện thứ nhất
mới là mạch ngầm, tiềm ẩn, là xu thế thống
nhất và cơ sở ngọn nguồn quy định mọi
dòng mạch trữ tình và thế giới thẩm mỹ thơ
Hồ Xuân Hương12…
Về văn xuôi tự sự chữ Hán có sự phát
triển vượt bậc cả về số lượng và định hình rõ
nét phong cách thể loại. Ở đây hoàn toàn có
thể đi sâu nghiên cứu đặc điểm các thể loại
và hệ thống chủ đề, quan niệm thẩm mỹ và
tâm thế sáng tạo, từ đó qui về cộng đồng các
loại hình “tự sự lịch sử”, “văn xuôi tôn
giáo”, “văn xuôi nghi lễ” hay “văn xuôi nghệ
thuật”13. Trong số 7 bộ tiểu thuyết chương
hồi đặc biệt có Hoàng Lê nhất thống chí (皇
黎 一 統 志 Truyện chí về công cuộc thống
11

N.I. Niculin, “Về thơ Hồ Xuân Hương”, in trong Những
vấn đề lý luận văn học phương Đông, Nxb Khoa học,
Matxcơva, 1969, tr. 294-302 (Tiếng Nga).
12
Xin xem Nguyễn Hữu Sơn, “Tâm lý sáng tạo trong thơ
Nôm Hồ Xuân Hương”. Tạp chí Văn học, số 2-1991, tr.
29-35. In lại trong Văn học trung đại Việt Nam – quan
niệm con người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2005, tr. 322-335.

13
Xin xem B. L. Riftin, “Mấy vấn đề nghiên cứu những
nền văn học trung cổ của phương Đông theo phương pháp
loại hình” (Lê Sơn dịch), Tạp chí Văn học, số 2-1974,
tr.107-123.

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014

nhất nhà Hoàng Lê) của nhóm tác gia văn
phái họ Ngô (Thế kỷ XVIII-XIX) đã tái hiện
được không khí một thời kỳ lịch sử đầy biến
động và phác họa được những nhân vật có cá
tính rõ nét. Quan sát cả về mặt định tính và
định lượng, cả nội dung và hình thức thẩm
mỹ, nhà Trung Quốc học B. L. Riftin đã đi
tới kết luận hữu lý: “Trong tác phẩm này có
cả những cảnh rất sinh động chứa đựng
những cảm xúc mạnh mẽ, những cảnh như
thế không chỉ điển hình cho văn xuôi lịch sử
mà cho cả văn xuôi trần thuật… Nhưng
nhiệm vụ chung về mặt thẩm mỹ của các tác
giả - nhiệm vụ không chỉ để lại cho đời sau
bản ghi chép một cách đơn thuần những sự
kiện trong thứ tự thời gian của chúng mà
phải miêu tả những sự kiện ấy bằng cách xây
dựng những nhân vật hiện thực, miêu tả
hành động, lời nói của họ, đôi khi cả những
suy nghĩ của họ - và cả bản thân hình thức
nghệ thuật của sự miêu tả rút từ truyền thống
của văn trần thuật vùng Viễn Đông cho

chúng ta cơ sở để khẳng định rằng Hoàng Lê
nhất thống chí không phải là một bản ghi
chép có tính chất biên niên và một tác phẩm
ký sự, mà là một cuốn tiểu thuyết do các tác
giả họ Ngô viết về những sự kiện mà họ
chính là những người được chứng kiến và
tham gia vào đó”14... Bên cạnh đó, bộ phận
truyện ký có cả truyện truyền kỳ và những
ghi chép tiêu biểu như Truyền kỳ tân phả (傳
奇 新 譜 Cuốn phả mới về truyền kỳ) của
Đoàn Thị Điểm, Thượng kinh ký sự (上 京
記 事 Ký sự lên kinh) của Lê Hữu Trác,
Công dư tiệp ký (公 餘 捷 記 Ghi nhanh lúc
14

B. L. Riftin, “Hoàng Lê nhất thống chí và truyền thống
của tiểu thuyết Viễn Đông” (Chu Nga dịch), Tạp chí Văn
học, số 2-1984, tr.41…

55


Nghiªn cøu khoa häc
rỗi việc công) của Vũ Phương Đề, Vũ trung
tùy bút (雨 中 隨 筆 Tùy bút trong mưa) của
Phạm Đình Hổ, Tang thương ngẫu lục (桑
滄 偶 錄 Ghi chép ngẫu hứng về về những
đổi thay dâu bể) của Phạm Đình Hổ và
Nguyễn Án... đi sâu phản ánh muôn mặt
cuộc sống đời thường, đồng thời lại có thêm

giá trị khảo cứu xã hội và phong tục đương
thời. Tương ứng với cảm hứng nhân văn
trong thi ca, các tác phẩm văn xuôi tự sự
cũng ngày càng thể hiện cái nhìn đa chiều,
phản ánh sâu sắc hơn tính cách và thế giới
tinh thần đa dạng của nhân vật.
Đến chặng đường cuối, trong điều kiện
đất nước bị thực dân Pháp xâm lược (1858),
văn học mau chóng chuyển hướng sang
những vấn đề trung tâm thiết cốt, đề cao ý
chí căm thù giặc và những tấm gương hy
sinh vì đại nghĩa. Có thể nói, nội dung yêu
nước đã trở thành chủ đề chính yếu trong đời
sống văn học, vừa tác động xoay chuyển vừa
qui định những đặc điểm thẩm mỹ cơ bản
của cả giai đoạn. Đồng thời với quá trình
xâm nhập của văn hóa - văn học phương Tây
(chủ yếu là Pháp), văn học Việt Nam cũng tự
thân vận động, mở đường, dần dần cải biến
từ việc sử dụng chữ Hán và Nôm tới Quốc
ngữ Latin hóa, từ giới hạn ảnh hưởng khu
vực phương Đông tới phạm vi thế giới, từ
dân tộc và truyền thống tới quốc tế và canh
tân, hiện đại hóa. Đội ngũ tác giả giai đoạn
này phần lớn là các sĩ phu yêu nước, những
người tham gia phong trào Cần vương chống
Pháp và bước đầu hình thành lớp nhà văn
kiểu mới, viết chữ Quốc ngữ và làm quen
dần với văn minh phương Tây.
Do yêu cầu trực chiến nên văn học giai

đoạn nửa cuối thế kỷ XIX thường hướng đến
những đề tài thời sự, liên quan trực diện đến

56

vận mệnh quốc gia, dân tộc. Các nhà trí thức
tiến bộ, sớm có ý thức canh tân như Nguyễn
Trường Tộ (1830-1871) đã viết nhiều bản
điều trần với lời văn chính luận sắc sảo, tha
thiết khẩn cầu một sự chấn hưng, đổi mới
nhưng đã không được triều đình nghe theo.
Khi đất nước bị xâm lược, những tác phẩm
nổi bật như Chạy Tây, Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu và thơ bút
chiến của nhiều tác giả đương thời đã làm
nên dòng mạch chủ đạo của bộ phận văn học
yêu nước… Thể hiện như một quán tính,
truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn
Đình Chiểu đóng vai trò chung kết cho thể
loại truyện thơ dưới thời trung đại. Gắn với
thời cuộc, các tác phẩm trở lại chủ đề "trung,
hiếu, tiết, nghĩa", phân loại nhân vật thành
thiện - ác, chính - tà, góp phần quan trọng
trong việc khẳng định nền văn học truyền
thống Nam Bộ... Bên cạnh đó, tại vùng đất
phương Nam cũng đã xuất hiện những tác
phẩm văn xuôi chữ Quốc ngữ đầu tiên, giữ
vị trí khơi nguồn, kiến tạo nền văn học của
một thời đại mới.
Văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ

XVIII-XIX đã mang màu sắc đô thị khá rõ
nét. Mẫu hình tác giả nhà nho hành đạo và
tài tử có đất phát triển. Các tác phẩm tập
trung thể hiện những nhân vật có cá tính
khác biệt nhau, hướng đến giải phóng con
người cá nhân và người phụ nữ nói riêng, đề
cao hạnh phúc giữa cõi đời trần thế và phê
phán mạnh mẽ những thế lực chà đạp quyền
sống con người. Tất cả hợp lực tạo nên trào
lưu nhân văn và xuất hiện nhiều tác phẩm
đạt đỉnh cao nghệ thuật so với toàn bộ nền
văn học trung đại. Trong đoạn vĩ thanh của
giai đoạn cũng như của cả nền văn học trung
đại, hai tác giả Nguyễn Khuyến và Trần Tế

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014


Nghiªn cøu khoa häc
Xương đóng một vai trò thật đặc biệt. Sáng
tác của Nguyễn Khuyến bằng cả chữ Hán và
Nôm nhưng nội dung thơ đã lan toả từ làng
cảnh thôn quê sang Hội Tây, Lấy Tây và đến
thơ Nôm Trần Tế Xương đã bước vào thế
giới đô hội thị thành với một cái tôi tự trào
thực sự phường phố, một lời cảm thán ngậm
ngùi chia đôi thời đại qua bài thơ vịnh cảnh
Sông Lấp: Sông xưa rày đã nên đồng/ Chỗ
làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai/ Vẳng
nghe tiếng ếch bên tai/ Giật mình còn tưởng

tiếng ai gọi đò… Như vậy, nền văn học
trung đại cơ bản đã khép lại trong bối cảnh
xã hội phong kiến nửa thực dân và những
nhân tố mới đã manh nha nảy mầm, đợi thời
phát triển.
*
* *
Trên tất cả các phương diện đội ngũ tác
giả, hệ thống văn tự và thể loại, quan niệm
thẩm mỹ và hệ thống chủ đề làm nên trào
lưu nhân văn trong văn học Hàn - Việt thế
kỷ XVIII-XIX đã thể hiện rõ những nét đại
đồng và tiểu dị. Cơ sở căn rễ văn hóa - lịch
sử hai nước đã tạo lập những chiều hướng
chung, qui luật chung cho ý thức về nguồn
dân tộc, tinh thần “giải Hán hóa” và phát
triển các giá trị nhân văn. Có thể khẳng định
chỉ số giá trị nhân văn đã làm nên phẩm chất
văn học hai nước giai đoạn thế kỷ XVIIIXIX: ý thức giải phóng con người cá nhân,
xu thế khẳng định cuộc sống trần thế, sự lên
ngôi của hình tượng người phụ nữ, đề cao vẻ
đẹp của hệ thống chủ đề tài tử giai nhân và
theo đó là sự hình thành những quan niệm
mới, thể loại văn học mới và sự rộng mở
những hình thức nghệ thuật mới. Dựa trên
nền tảng kinh nghiệm truyền thống và năng
lực tạo lập các giá trị nhân văn thế kỷ XVIII-

Nghiªn cøu ®«ng b¾c ¸, sè 7(161) 7-2014


XIX, nền văn học hai nước Hàn – Việt đủ
sức mạnh trong quá trình hội nhập Đông –
Tây, vững bước tiến vào quá trình hiện đại
hóa kể từ những năm đầu thế kỷ XX và còn
tiếp nối đến ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Komisook - Jungmin - Jung Byung Sul,
Văn học sử Hàn Quốc từ cổ đại đến cuối thế kỷ
XIX (Jeon Hye Kyung - Lý Xuân Chung biên
dịch và chú giải), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2006.
2. Nguyễn Hữu Sơn, “Tương đồng tiến trình
lịch sử văn học trung đại Việt – Hàn”. Nghiên
cứu Đông Bắc Á, số 1-2014, tr. 24-32.
3. Nguyễn Hữu Sơn, “So sánh “Truyện Kiều”
với “Kim Vân Kiều truyện” từ sự chuyển đổi
loại hình và thể loại”, Nghiên cứu Văn học, số
11-2005, tr. 27-43. Tuyển in trong Nghiên cứu
“Truyện Kiều” những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2009, tr. 1107-1122.
4. N.I. Niculin, “Về thơ Hồ Xuân Hương”, in
trong Những vấn đề lý luận văn học phương
Đông, Nxb Khoa học, Matxcơva, 1969, tr. 294302 (Tiếng Nga).
5. Nguyễn Hữu Sơn, “Tâm lý sáng tạo trong
thơ Nôm Hồ Xuân Hương”, Tạp chí Văn học, số
2-1991, tr.29-35. In lại trong Văn học trung đại
Việt Nam – quan niệm con người và tiến trình
phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005,
tr. 322-335.
6. B. L. Riftin, “Mấy vấn đề nghiên cứu

những nền văn học trung cổ của phương Đông
theo phương pháp loại hình” (Lê Sơn dịch), Tạp
chí Văn học, số 2-1974, tr.107-123.
7. B. L. Riftin, “Hoàng Lê nhất thống chí và
truyền thống của tiểu thuyết Viễn Đông” (Chu
Nga dịch), Tạp chí Văn học, số 2-1984.

57



×