Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần khóa Minh Khai_Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.96 KB, 15 trang )

I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA TRƯỚC NGÀY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
RA ĐỜI
l- Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với truyền thống
đoàn kết và bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh.
Từ đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây, trong đó có đế quốc Pháp, đã nhòm ngó,
xâm lược nước ta, mở đâu bằng việc khai thông buôn bán và truyền giáo.
Nǎm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng
bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyên đã ký Hiệp ước
Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của
đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt
Nam có nhiều thay đổi.
Về chính tri thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên. Mọi quyền hành đêu nằm trong tay
người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Chúng thi hành chính sách chia
để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương
thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới. Đánh
giá về chính sách này, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã viết: "Chủ nghĩa thực dân Pháp không
hề thay đổi cái châm ngôn "chia để trị" của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước có
chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung
một truyền thống, chung một tiếng nói, đã bị chia nǎm sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự
chia cắt ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng
người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy
họ chống lại nhau, người ta lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại, lập nên một
"Liên bang" gọi là Liên bang Đông Dương"...
Về kinh tế tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở mang một số
ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để cung cấp nguyên
liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp.
Chính sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi
vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt.
Bên cạnh sự bóc lột nhân công và cướp đoạt tài nguyên, đất đai, bọn thực dân Pháp còn duy
trì chế độ phong kiến để giúp chúng bóc lột địa tô, lợi tức và các hình thức thuế khoá rất


nặng nề.
Các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông
dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu thuần giữa dân tộc ta với
bọn đế quốc Pháp thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh
quá trình cách mạng của nhân dân ta.
Đánh giá về hiện tượng xã hội nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Sự tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống
của công cuộc giải phóng nữa thôi"
1
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất
phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới.
2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời
Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế kỷ trước đã từng giữ vai trò tiến bộ nhất định
trong lịch sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân giai cấp này
cũng bị phân hóa. Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy trì quyền lợi
của bản thân, một bộ phận không ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xướng và lãnh đạo các
phong trào Vǎn thân, Cần vương chống đế quốc Pháp xâm lược, khôi phục triều đình phong
kiến. Một số trở thành những lãnh tụ của phong trào quần chúng nông dân, vừa đấu tranh
chống đế quốc Pháp, vừa chống lại triều đình bán nước.
Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
(1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ phận.
Một số ít ôm chân đế quốc, tham gia vào các cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp,
trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận khác tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản
Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh
hướng chính trị cải lương. Do vậy, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh thần yêu
nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ không có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ
chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định.
Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong kiến và thực dân
đào tạo. Nhưng do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập, tự do, dân chủ,

nên cũng bị phân hoá. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ được khí tiết dù ở
hoàn cảnh nào cũng không nguôi lòng cứu nước. Khi có điều kiện, những trí thức yêu nước
thường đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi pháo của các cuộc đấu tranh
chống thực dân, phong kiến.
Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc và phong kiến.
Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên thế
(1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông dân là một lực lượng đông đảo, yêu nước,
nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng và không thể đóng vai trò
lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp
xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đôn trại và thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược và
binh định nước ta. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân
còn ít, chỉ 10 vạn người và trình độ còn thấp. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai
(1924-1929), số lượng công nhân chuyên nghiệp đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân.
Nếu tính số người làm thuê trong các hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vô sản,
nửa vô sản sống ở thành thị và nông thôn, thì đội quân vô sản ở Việt Nam trước nǎm 1930
có đến hàng triệu người.
Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân và các tầng lớp
lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong
kiến và tư sản, phần lớn xuất thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách quan thuận lợi cho hai giai
2
cấp cơ bản này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong quá trình đấu tranh
cách mạng.
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không có cơ sở xã hội cho chủ nghĩa công đoàn và chủ
nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong, do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam)
tuy còn trẻ, số lượng ít, trình độ vǎn hoá, kỹ thuật còn thấp, nhưng ở nước ta đó là giai cấp
đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, sống tập trung, có ý thức kỷ luật, có nǎng lực
cách mạng triệt để và có tinh thần quốc tế vô sản.
Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi mà giai cấp công nhân

Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bônsêvích đã giành được chính quyền, Quốc tế
cộng sản đã thành lập, lại được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc giác ngộ, giai cấp công nhân Việt
Nam đã từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự
giác. Tháng 11 nǎm 1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (Nam Bộ) đã bãi công. Từ nǎm 1920
đến nǎm 1925, có đến 25 cuộc bãi công trong cả nước. Nổi bật nhất là cuộc bãi công của
công nhân Ba Son nổ ra từ ngày 4 tháng 8 đến ngày 28 tháng 11 nǎm 1925 để "kìm chân"
chiếc tàu J.Misơlê của đế quốc Pháp chuẩn bị đưa quân sang đàn áp cách mạng Trung Quốc.
Cuộc đấu tranh này có tổ chức, chỉ đạo và biểu hiện tinh thần quốc tế cao cả. Tuy vậy, chỉ
đến những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội chủ trương
"vô sản hoá" mới tạo điều kiện cho phong trào công nhân chóng trưởng thành, phát triển lên
trình độ tự giác.
3- Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xuất hiện
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ này đã
chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế quốc Pháp
xâm lược. Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng lợi vì không có một đường lối cứu
nước đúng đắn.
Trước kia, chế độ phong kiến khi đang ở giai đoạn hưng thịnh, giai cấp phong kiến đã từng
lãnh đạo dân tộc đánh thắng bọn phong kiến phương bắc lớn mạnh xâm lược. Nhưng khi chế
độ phong kiến đã suy tàn và phải đối phó với một kẻ thù mới, một đế quốc thuộc loại cường
quốc thế giới, thì giai cấp phong kiến bất lực và trở thành phản động.
Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ chức cách mạng
có khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong trào này đánh dấu sự chấm
dứt thời kỳ dấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ tư tưởng phong kiến. Thất bại
của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh đạo của cụ Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó
không phải là con đường giành thắng lợi.
Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở nước ta bộc lộ
sâu sắc.
Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến, nhiều
người yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến nhưng con đường mới để mưu sự
nghiệp giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của Nhật Bản (1860), con đường Cách

mạng tư sản Pháp (1789), con đường Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911)...
Vào đâu thế kỷ này, nước Nhật từ sau cuộc vãn động Duy Tân đã trở thành nước đế quốc
chủ nghĩa, đã đánh bại Nga Hoàng trong cuôc chiến tranh Nga - Nhật (1905). Cách mạng
3
1905 ở Nga nổ ra nhưng không thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (nǎm 1911) đã
đánh đổ triều đình Mãn Thanh, lập ra nước Trung Hoa dân quốc. Những sự kiện trên đây đã
ảnh hưởng đến phong trào yêu nước Việt Nam.
ý thức hệ tư sản phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu tiến bộ tiếp thu tràn
lưu tư tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con đường tư bản chủ nghĩa. Họ
muốn noi theo con đường phát triển của Nhật Bản, dựa vào Nhật để đánh Pháp. Tiêu biểu
cho khuynh hướng này là hội Duy Tân do cụ Phan Bội Châu sáng lập, với mục đích cổ động
phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp theo tôn chỉ "mở mang dân trí, chấn hưng dân khí,
vun trồng nhân tài". Số khác như các cụ: Lương Vǎn Can, Nguyễn Quyền... mở trường
Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ động tinh thần yêu nước, bài xích chính sách cai
trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế diễu lũ phong kiến, cường hào v.v.. Là
một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng chủ trương của cụ Phan Chu Trinh khác hẳn với cụ
Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu cho xu hướng cải cách dân chủ tư sản (1789),
phản đối việc vũ trang bạo động chống Pháp. Cụ nói: "Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất
vọng ngoại, ngoại vọng tất vong". Đó là lời tuyên bố của cụ Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật
về (15-8-1906). Sau này trong thư "thất trảm" gửi vua Khải Định khi y sang Pháp (1922), cụ
Phan Chu Trinh viết: "Mau mau quay đâu lại mà thoái vị đi, đem chính quyền trả lại cho
quốc dân để quốc dân được trực tiếp với chính phủ Pháp mà làm việc đặng mưu lợi ích sau
này". Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, chống đi phu, nộp thuế ở Trung Kỳ là
kết quả của khuynh hướng tư tưởng tư sản.
Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trước Một số tổ chức yêu
nước ra đời như hội Duy Tân (1904), trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), hội Đông á
đồng minh (1908), Việt Nam quang phục Hội (1912-1924) v.v.. Song, vì đường lối chính trị
của các tổ chức này không rõ ràng, nhất là không dựa vào quần chúng lao động, mà dựa vào
uy tín cá nhân, nên không tạo ra được sự thống nhất trong những người đề xướng phong
trào. Vì vậy, khi những người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong trào cũng tan rã theo.

Cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917) đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử
nhân loại. Quốc tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn
thế giới được thành lập. ở Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản Trung Quốc
ra đời (1921). ở Pháp, Đảng cộng sản Pháp được thành lập (1920), sự kiện lịch sử này không
chỉ là thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp, mà còn là thắng lợi của
các dân tộc thuộc địa Pháp.
Đồng thời, với những chuyển biến trên thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này cũng bắt đâu
có những chuyển biến mới.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt tổ chức những người Việt Nam yêu nước ở Pháp đưa
bản "yêu sách 8 điểm" đến Hội nghị các nước đế quốc thắng trận ở thành phố Vécxây (6-
1919); đồng chí Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản tại Đại hội
lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp ở thành Tua và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp
(1920).
Đồng chí Nguyễn ái Quốc được bầu vào đoàn chủ tịch Hội nông dân Quốc tế (l0-1923), và
dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (1924). Tiếng bom Phạm Hồng Thái mưu sát toàn
quyền Méclanh (6-1924) ở Quảng Châu (Trung Quốc) v.v.. Tất cả như sự báo hiệu bước
chuyển biến mới về chất của phong trào cách mạng Việt Nam.
Tháng 4 nǎm 1921, trên Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn ái
4
Quốc viết: "Người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ
một cách ghê gớm, khi thời cơ đến".
Đúng như nhận xét của đồng chí Nguyễn ái Quốc, từ những nǎm 1920 trở đi, phong trào
cách mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng cách mạng
theo xu hướng tư tưởng tư sản, đã xuất hiện những tổ chức yêu nước tiếp thu tư tưởng tiến
bộ mới. Đặc biệt là chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ngày càng có
tác động mạnh mẽ vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân.
ở Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc chưa bao giờ giương được ngọn cờ giải phóng dân tộc.
Đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu (1919) về cǎn bản là một tập đoàn địa chủ "tư sản hoá".
Nǎm 1926, họ đưa ra thuyết "Pháp Việt đề huề" thì mặt nạ làm tay sai cho đế quốc Pháp lộ
rõ. "Thuyết trực trị" của Nguyễn Vǎn Vĩnh, "Thuyết bảo hoàng lập hiến" của Phạm Quỳnh

đã bộc lộ chân tướng ôm chân đế quốc Pháp. Xu hướng quốc gia cải lương của nhóm Huỳnh
Thúc Kháng cũng ít tiếng vang.
Phong trào đấu tranh trong những nǎm 1923-1927, đòi tự do, dân chủ theo kiểu cách mạng
tư sản, nhưng động lực của nó là những người tiểu tư sản chứ không phải do đảng của giai
cấp tư sản lãnh đạo. Biểu hiện của phong trào này là nhiều hội, đảng yêu nước của thanh
niên trí thức kế tiếp nhau ra đời: Tân Việt thanh niên đoàn - tức Tâm tâm xã (1923-1925),
hội Phục Việt (1925), Đảng thanh niên của Trần Huy Liệu (1926), Thanh niên cao vọng
đảng của Nguyễn An Ninh (1926-1929), Tân Việt cách mạng đảng (1926-1930), Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội (1925-1929), Việt Nam quốc dân đảng (1925-1930)
v.v... Những tổ chức yêu nước cách mạng nói trên đã có tác dụng nhất định trong việc truyền
bá tư tưởng mới, giáo dục lòng yêu nước và tập hợp số quần chúng thanh niên trí thức, tiểu
tư sản. Nhưng, họ chưa vạch ra được một đường lối cách mạng phù hợp với yêu cầu của dân
tộc. Tâm tâm xã nêu cao quyết tâm "khôi phục quyền làm người của người Việt Nam",
nhưng "chưa bàn đến chính thể". Tân Việt cách mạng đang nhận rõ mục đích giải phóng dân
tộc, nhưng chưa thấy vị trí lịch sử của giai cấp công nhân, Việt Nam quốc dân đảng chủ
trương chống đế quốc, chống phong kiến, nhưng lại sao chép rập khuôn chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Dật Tiên (Trung Quốc).
Nhìn chung, các hội và đảng yêu nước nói trên có tinh thần chống đế quốc, nhưng chưa nhận
thức được xu thế phát triển khách quan của thời đại sau Cách mạng tháng Mười Nga, nên
không thấy được giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải
phóng xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản,
chưa thấy độc lập dân tộc phải gắn liền với chế độ mới để đi đến xoá bỏ mọi sự bất công và
áp bức bóc lột. Những người trong các tổ chức này cũng không thấy hết bản chất của chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, không nhận thức được vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân, vai trò của quần chúng nhân dân, trước hết là nông dân trong cách mạng. Bởi những
hạn chế đó, những người yêu nước trong các tổ chức này chưa thể xác định được một đường
lối cách mạng đúng đắn.
Riêng Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội do đồng chí Nguyễn ái Quốc sáng lập,
là một tổ chức cách mạng, phần lớn gồm những người trí thức, tiểu tư sản, sớm tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin, sớm có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa. Đảng Tân Việt, sau những

nǎm 1926-1927 đã chịu ảnh hưởng về đường lối của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội.
5
Cuộc đấu tranh về ý thức hệ và về đường lối cứu nước giữa Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí Hội và các tổ chức yêu nước nói trên đã diễn ra từ những ngày đầu đồng chí
Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập đảng
vô sản kiểu mới ở Việt Nam, từng bước khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước.
II- ĐỒNG CHÍ NGUYỄN ÁI QUỐC TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
CHUẨN BỊ THÀNH LẬP ĐẢNG
l- Đồng chí Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu
nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ, thì đồng chí Nguyễn ái Quốc đã
ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới.
Gần mười nǎm bôn ba khắp các châu lục (1911-1920), Người đến những nước thuộc địa và
những nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một
chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của
giai cấp công nhân với nhân dân lao đồng ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa...
Dưới ánh sáng Cách mạng tháng Mười, Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin
và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng công sản Pháp..., chủ nghĩa Mác - Lênin,
chân lý cách mạng của thời đại đã sớm được khẳng định trong nhận thức tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 12 nǎm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, đồng chí
Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và chủ trương thành lập
Đảng cộng sản Pháp. Giải thích việc làm đầy ý nghĩa đó, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Đệ
tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ
nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy, tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ
tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi
muốn."
Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị
của đồng chí Nguyễn ái Quốc.

Từ đó Người xác định con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam là: giải phóng
giai cấp vô sản mới thực sự giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể
là sự nghiệp cua chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới .
Từ khi trở thành người cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vô sản ở các
nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Cuối nǎm 1921, tại Đại hội lân thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí Nguyễn ái Quốc
đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "chủ nghĩa cộng sản và thuộc địa", và kiến nghị
thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng. Nǎm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của
Đảng cộng sản Pháp được thành lập Đồng chí Nguyễn ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban
nghiên cứu về Đông Dương. Với cương vị này, đồng chí đã tích cực tuyên truyền, giáo dục
và giới thiệu cho Đảng cộng sản Pháp nhiều chiến sĩ cách mạng của các nước thuộc địa ở
6

×