Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

xác định thời kỳ hôn nhân trong luật hôn nhân và gia đình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.03 KB, 47 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
-----

-----

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2012-2015

Đề tài:

XÁC ĐỊNH THỜI KỲ HÔN NHÂN
TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

NGUYỄN THỊ MỸ LINH
Bộ môn: Luật Tư pháp

VÕ THỊ KIM HOA
MSSV: S120022
Lớp: Luật bằng 2- Đồng Tháp

Cần Thơ, 11/ 2014


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN


----

----

…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
----

----

…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………


GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

MỤC LỤC
----

----

Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do nghiên cứu .......................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................................... 1
3. Phạm vi nghiên cứu....................................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................. 2
5. Kết cấu đề tài................................................................................................................. 2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỜI KỲ HÔN NHÂN TRONG LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM ........................................................................ 4
1.1. Một số khái niệm chung về hôn nhân ........................................................................ 4
1.1.1. Khái niệm hôn nhân ............................................................................................ 4
1.1.2. Khái niệm kết hôn ............................................................................................... 5
1.1.3. Khái niệm chấm dứt quan hệ hôn nhân .............................................................. 6
1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân ..................................................................................... 7
1.3. Sơ lược lịch sử phát triển của quy định về xác định thời kỳ hôn nhân .................. 8
1.3.1. Luật cổ và tục lệ ................................................................................................... 8
1.3.2. Luật cận đại trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ...................................... 10

1.3.3. Luật hiện đại sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 ........................................ 10
1.3.3.1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 ........................................................ 10
1.3.3.2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ........................................................ 11
1.3.3.3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ........................................................ 12
1.3.3.4. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ........................................................ 12
1.4. Ý nghĩa của việc xác định thời kỳ hôn nhân .......................................................... 12
1.4.1. Xác định thời gian phát sinh, chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ chồng ..... 13
1.4.2. Xác định thời gian phát sinh, chấm dứt quan hệ tài sản giữa vợ chồng .......... 13
1.4.3. Xác định cha mẹ cho con .................................................................................. 14
CHƯƠNG 2: CÁC CĂN CỨ XÁC ĐỊNH THỜI KỲ HÔN NHÂN TRONG LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM ...................................................................... 16
2.1. Xác định thời kỳ hôn nhân trong trường hợp có đăng ký kết hôn ........................ 16
2.1.1. Xác định thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân................................................... 16
2.1.2. Xác định thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân ............................................... 17
2.1.2.1. Xác định thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân do ly hôn ............................. 17
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
2.1.2.2. Xác định thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân do vợ, chồng chết hoặc bị tòa
án tuyên bố là đã chết .............................................................................................. 18
2.2. Xác định thời kỳ hôn nhân trong các trường hợp chung sống với nhau như vợ
chồng mà không có đăng ký kết hôn được đồng hóa là hôn nhân hợp pháp ............... 20
2.2.1. Quy định của pháp luật về chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
được đồng hóa là hôn nhân hợp pháp ......................................................................... 20
2.2.2. Thời điểm bắt đầu và kết thúc thời kỳ hôn nhân trong các trường hợp chung
sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được đồng hóa là hôn nhân hợp
pháp ............................................................................................................................ 21

2.2.2.1. Xác định thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân ............................................... 21
2.2.2.2. Xác định thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân............................................. 23
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ XÁC
ĐỊNH THỜI KỲ HÔN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN ............ 26
3.1. Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về xác định thời kỳ hôn nhân ......... 26
3.1.1. Xác định thời kỳ hôn nhân trong trường hợp chuyển hóa quan hệ pháp luật từ
hôn nhân trái pháp luật sang hôn nhân hợp pháp ...................................................... 27
3.1.1.1. Xác định thời kỳ hôn nhân khi có sự chuyển hóa từ hôn nhân vi phạm độ tuổi
kết hôn sang hôn nhân hợp pháp .............................................................................. 27
3.1.1.2. Xác định thời kỳ hôn nhân khi có sự chuyển hóa từ hôn nhân vi phạm chế độ
một vợ một chồng sang hôn nhân hợp pháp .............................................................. 30
3.1.2. Xác định thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân trong trường hợp chung sống như
vợ chồng không có đăng ký kết hôn ............................................................................ 32
3.1.3. Xác định thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân trong trường hợp vợ hoặc chồng
bị tuyên bố là đã chết ................................................................................................... 34
3.2. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về xác định thời kỳ
hôn nhân .......................................................................................................................... 35
3.2.1. Các giải pháp về mặt lập pháp ........................................................................... 36
3.2.2. Các giải pháp về công tác hướng dẫn và thi hành pháp luật............................. 37
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 39
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do nghiên cứu
Gia đình hình thành, tồn tại và phát triển qua các giai đoạn, nó mang những chức năng
tự nhiên và xã hội riêng biệt mà các thiết chế xã hội khác không có. Các chức năng của gia
đình hình thành gắn liền với sự phát triển của loài người và được chính con người xã hội
hóa chúng. Và khởi nguồn để hình thành nên một gia đình là việc xác lập quan hệ hôn nhân
giữa hai người nam và người nữ. Hôn nhân là một hiện tượng xã hội, là sự liên kết giữa một
người đàn ông và một người đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và
chung sống với nhau suốt đời. Sự liên kết đó phải dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, sự
liên kết bền vững trên cở sở tình yêu thương, quý trọng lẫn nhau và nó tồn tại trong suốt
thời kỳ hôn nhân. Do đó, thời kỳ hôn nhân đã trở thành một chế định được quy định trong
hệ thống pháp luật về Hôn nhân và gia đình Việt Nam. Bên cạnh đó, khi quan hệ hôn nhân
tồn tại thì các quan hệ về nhân thân và tài sản giữa vợ chồng được hình thành theo trên cơ
sở đó phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau.
Tuy nhiên làm thế nào để xác định chính xác thời điểm phát sinh và chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ đó theo đúng tinh thần của pháp luật là một vấn đề thật sự đáng quan
tâm. Từ quan hệ hôn nhân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, và sau đó là
giữa cha mẹ và con cái. Việc quy định thời kỳ hôn nhân là căn cứ quan trọng xác định
quyền và nghĩa vụ nhân thân như nghĩa vụ chung thủy, yêu thương giúp đỡ nhau của vợ
chồng. Đây chính là quyền và nghĩa vụ quan trọng và chính yếu nhất của mục đích hôn
nhân. Thời điểm bắt đầu của thời kỳ hôn nhân cũng chính là thời điểm hình thành khối tài
sản chung từ con số không. Bên cạnh đó xác định thời kỳ hôn nhân còn làm cơ sở để xác
định quan hệ cha mẹ và con trong giá thú, quyền được đại diện cho nhau, quyền thừa kế của
vợ chồng và những quyền và nghĩa vụ khác nữa.
Do đó việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về xác định thời kỳ hôn nhân nhằm
làm cho mọi người hiểu rõ và góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong việc chấp hành
những quy định của pháp luật. Đặc biệt nghiên cứu các quy định của pháp luật về cách xác
định thời kỳ hôn nhân còn nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án nhân dân đối
với các tranh chấp hôn nhân và gia đình nói chung và tranh chấp liên quan đến việc xác định
các quyền và nghĩa vụ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nói riêng là vô cùng cần thiết.
Từ những lý do cơ bản nêu trên, người viết đã lựa chọn đề tài “Xác định thời kỳ hôn

nhân trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt
nghiệp cử nhân luật của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Người viết chọn đề tài “Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam” nhằm có điều kiện tìm hiểu sâu hơn các quy định của pháp luật để có thể áp
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

1

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
dụng chính xác theo đúng tinh thần của pháp luật. Từ đó tìm ra những giải pháp để có thể
góp phần hoàn thiện luật pháp tốt hơn.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên luận văn cần phải giải quyết những nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hôn nhân và thời kỳ hôn nhân: quan niệm về
hôn nhân, những yếu tố tác động đến việc xác định thời kỳ hôn nhân và cách xác định thời
kỳ hôn nhân trong các trường hợp: có đăng ký kết hôn, chung sống như vợ chồng mà không
có đăng ký kết hôn nhưng được đồng hóa là hôn nhân hợp pháp.
- Đánh giá thực trạng công tác xác định thời kỳ hôn nhân trong việc giải quyết các vấn
đề về tài sản và con cái của vợ chồng trong các vụ án hôn nhân và gia đình, các quy định
của pháp luật cũng như việc áp dụng các quy định của pháp luật trong việc giải quyết các
vấn đề.
- Đưa ra phương hướng nhằm hoàn thiện pháp luật Hôn nhân và gia đình về cách xác
định thời kỳ hôn nhân.
3. Phạm vi nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này người viết tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, những căn cứ
xác định thời kỳ hôn nhân và thực trạng công tác xác định thời kỳ hôn nhân giữa công dân

Việt Nam với nhau trên lãnh thổ Việt Nam. Từ đó tìm ra những điểm bất cập, chưa hợp lý;
trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất của bản thân, đồng thời rút ra những kinh nghiệm cho
bản thân nhằm phục vụ tốt hơn cho việc công tác sau này.
Thời gian thực hiện: đề tài này được nghiên cứu thực hiện trong thời gian từ tháng 6
năm 2014 đến tháng 11 năm 2014
4. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài luận văn tốt nghiệp này, người viết đã sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương pháp nghiên cứu và phân tích
luật viết, đồng thời kết hợp với các phương pháp như quy nạp, diễn dịch, phương pháp
nghiên cứu trên tài liệu, sách vở bình luận khoa học về hôn nhân và gia đình, phương pháp
sưu tầm, tổng hợp thông tin qua các bài viết trên các tạp chí của Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân và các công trình nghiên cứu chuyên ngành khác.
5. Kết cấu đề tài
Đề tài nghiên cứu bao gồm các phần: mục lục, phần mở đầu, nội dung, kết luận và
danh mục các tài liệu tham khảo.
Nội dung đề tài được chia làm ba phần:
Chương 1: Khái quát chung về thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam.
Trong phần này người viết sẽ trình bày một cách chung nhất về hôn nhân và thời kỳ
hôn nhân từ những khái niệm: một số khái niệm chung về hôn nhân, khái niệm thời kỳ hôn
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

2

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
nhân, từ đó thể hiện rõ ý nghĩa của việc xác định thời kỳ hôn nhân giữa vợ chồng theo Luật
Hôn nhân và gia đình. Bên cạnh đó người viết cũng trình bày một cách sơ lược về lịch sử

phát triển của quy định về xác định thời kỳ hôn nhân. Ở phần lịch sử phát triển người viết
chia ra các giai đoạn: từ luật cổ và tục lệ Việt Nam đến luật cận đại trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945, đến luật hiện đại sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Chương 2: Các căn cứ xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam.
Trong phần này, người viết sẽ trình bày những căn cứ xác định thời điểm bắt đầu và
thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân theo pháp luật hôn nhân và gia đình. Người viết sẽ dựa
trên căn cứ có đăng ký kết hôn và không có đăng ký kết hôn để xác định thời kỳ hôn nhân
trong những trường hợp cụ thể.
Chương 3: Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về xác định thời kỳ hôn
nhân và giải pháp góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật.
Ở phần này, người viết sẽ trình bày thực trạng công tác áp dụng quy định của pháp luật
về xác định thời kỳ hôn nhân, những điểm còn hạn chế và đưa ra những giải pháp nhằm góp
phần hoàn thiện những quy định của pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài mặc dù được sự hướng dẫn nhiệt tình của giảng viên
hướng dẫn và sự cố gắng của bản thân nhưng không thể không có những thiếu sót, hạn chế
nhất định và kiến thức của bản thân còn hạn chế. Vì vậy, rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến, nhận xét của quý thầy cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

3

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỜI KỲ HÔN NHÂN

TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Vào thời điểm hiện nay, con người vẫn coi hôn nhân là sự kiện trọng đại, thiêng liêng
và gia đình là phương thức sinh sống quan trọng nhất của hầu như tất cả mọi người. Hôn
nhân chính là cơ sở để hình thành quan hệ giữa vợ chồng trước pháp luật, và trên cơ sở đó
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng phát sinh và tồn tại suốt thời kỳ hôn nhân. Sau đây là một
vài vấn đề lý luận về thời kỳ hôn nhân trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
1.1. Một số khái niệm chung về hôn nhân
1.1.1. Khái niệm hôn nhân
Hôn nhân và gia đình là một hiện tượng liên quan chặt chẽ tới toàn bộ hệ thống xã hội
và là một trong những biểu hiện sắc thái văn hóa của con người. Hôn nhân dẫn đến sự tạo
lập hạt nhân gia đình mới, hoặc làm thay đổi quy mô hình thái cấu trúc cũ của gia đình. Hơn
nữa hôn nhân còn ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên, liên tục đến đời sống của mỗi cá
nhân trong xã hội. Tùy thuộc vào điều kiện xã hội và những yếu tố văn hóa mà hôn nhân
diễn ra theo nhiều hình thái khác nhau, vừa phản ánh quy luật chung nhất sự phát triển của
xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử, vừa mang những đặc thù văn hóa dân tộc. Vì
vậy, vấn đề hôn nhân và gia đình luôn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
thuộc lĩnh vực xã hội - nhân văn.1
Thực tế cho thấy quan hệ hôn nhân là một quan hệ xã hội, là một hiện tượng mang tính
giai cấp, ở xã hội nào thì có hình thái hôn nhân xã hội đó và chế độ hôn nhân nhất định. Ở
chế độ phong kiến thì có hôn nhân phong kiến, ở chế độ xã hội chủ nghĩa có hôn nhân xã
hội chủ nghĩa. Hôn nhân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là sự liên kết tự nguyện, bình đẳng,
sự liên kết bền vững trên cở sở tình yêu thương, quý trọng lẫn nhau. Các hình thái hôn nhân
và gia đình này phản ánh bản chất xã hội mà hình thái hôn nhân và gia đình đó đang tồn tại,
một xã hội không bình đẳng sẽ có cuộc sống hôn nhân bất bình đẳng, ngược lại một xã hội
bình đẳng sẽ tạo ra một cuộc sống hôn nhân bình đẳng. Trong khoa học pháp lý nói chung
và khoa học luật Hôn nhân và gia đình nói riêng, việc đưa ra khái niệm đầy đủ về hôn nhân
có ý nghĩa rất quan trọng.
Theo nghĩa thông thường thì hôn nhân là việc trai lấy vợ, gái lấy chồng, trai gái lấy
nhau làm vợ chồng. Trong pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành, khái niệm
hôn nhân đã được các nhà làm luật đã quan tâm hơn. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

hiện hành quy định tại Khoản 6 Điều 8: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ chồng sau khi đã kết
1

Đặng Thị Kim Oanh, Đặc tính của Hôn nhân dưới góc nhìn nhân học, Tạp chí phát triển khoa học và công nghệ, Đại
học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tập 9, 03/2006, trang 220

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

4

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
hôn”. Hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình 2000 là sự kết hợp giữa người nam và
người nữ tuân theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn, thủ tục đăng ký kết hôn,
cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Theo sự giải thích của Tiến sĩ luật học Nguyễn Ngọc
Điện thì:“Hôn nhân là sự kết hợp giữa hai người, một nam và một nữ để chung sống, để
dành cho nhau sự giúp đỡ và hỗ trợ cần thiết”.2
Như vậy, hôn nhân theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là sự liên kết giữa một
người đàn ông và một người đàn bà trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng và tự nguyện theo
quy định của pháp luật nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc,
dân chủ và hòa thuận.3
1.1.2. Khái niệm kết hôn
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan
trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.4 Gia đình là hệ quả tất
yếu của hôn nhân, là bước phát triển tiếp theo của hôn nhân, gia đình chỉ được phát triển tốt
đẹp nếu hôn nhân được hình thành hợp pháp và cuộc sống hôn nhân đạt được mục đích của
nó. Hôn nhân là sự liên kết suốt đời của vợ chồng. Hôn nhân dựa trên cơ sở tình yêu nam và

nữ, giữa vợ và chồng chính là điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự liên kết đó được hạnh
phúc và lâu dài. Vì vậy để có được nền tảng vững vàng cho hôn nhân thì hôn nhân phải
được pháp luật công nhận dưới hình thức pháp lý đó chính là đăng ký kết hôn.
Kết hôn là một trong các quyền của cá nhân và được ghi nhận tại Điều 39 Bộ luật Dân
sự năm 2005: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và
gia đình có quyền tự do kết hôn”. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1986 đã quy định về chế định kết hôn nhưng không giải thích cụ thể về
thuật ngữ “kết hôn”. Khắc phục điều này, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đưa ra
định nghĩa kết hôn cụ thể tại Khoản 2 Điều 8: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ
vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Theo quy
định tại Khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “Kết hôn là việc nam và
nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của luật này về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hôn”.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì nam nữ kết hôn được coi là hợp pháp và
được pháp luật bảo hộ khi đảm bảo các yếu tố sau:

2

Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Tập I – Gia đình, nhà xuất bản Trẻ, Tp.

Hồ Chí Minh, 2004, trang 24
3
Nguyễn Văn Cừ, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội, 1994, trang
14
4
Lời nói đầu, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

5


SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
- Phải thể hiện ý chí mong muốn được kết hôn, ý chí mong muốn đó được thể hiện
bằng lời khai của họ trong tờ khai đăng ký kết hôn cũng như trước cơ quan đăng ký kết hôn
theo quy định của pháp luật.
- Việc kết hôn phải được Nhà nước thừa nhận. Hôn nhân chỉ được Nhà nước thừa
nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân, cụ thể là kết hôn phải tuân thủ các quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Vậy kết hôn là việc nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và trình tự thủ tục đăng ký kết hôn. Chỉ khi nam, nữ đáp ứng đủ điều kiện
kết hôn theo quy định của pháp luật thì họ mới trở thành vợ chồng và bắt đầu thời kỳ hôn
nhân. Quan hệ hôn nhân mà vi phạm các quy định điều kiện về nội dung và hình thức của
việc kết hôn thì không được coi là một quan hệ hôn nhân và không thể làm phát sinh các
quan hệ pháp lý giữa vợ và chồng.
1.1.3. Khái niệm chấm dứt hôn nhân
Quá trình chung sống của các cặp vợ chồng là quá trình gắn kết giữa hai con người có
những hoàn cảnh, môi trường giáo dục, tâm lý và tính cách khác nhau. Nếu không có sự nỗ
lực hòa nhập từ hai phía để giữ gìn sự ổn định, vun đắp hạnh phúc chung thì thường sẽ
không tránh khỏi những va chạm, mâu thuẫn xung đột và hậu quả xấu nhất là dẫn đến hôn
nhân bị chấm dứt.
Các trường hợp chấm dứt hôn nhân theo quy định được xếp thành hai nhóm:
- Vợ và chồng ly hôn.
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân ngay trong lúc cả vợ và chồng đều còn
sống. Đây là biện pháp cuối cùng mà luật cho phép thực hiện trong trường hợp cuộc sống
vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà không thể
khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác. Ly hôn là mặt trái của quan hệ hôn nhân, là việc
bất đắc dĩ không thể thiếu được khi quan hệ vợ chồng đã thực sự đỗ vỡ và không thể nào

hàn gắn được. Nguyên nhân của sự tan rã có rất nhiều: bất đồng ý kiến kéo dài, quan niệm
sống khác nhau, ngoại tình, một trong hai người mất tích,…Theo quy định của pháp luật thì
“Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu
của vợ hoặc chồng hoặc của cả hai vợ chồng”.5 Tuy nhiên nếu dựa trên câu chữ của luật thì
có thể hiểu nhầm là chỉ cần công nhận bằng quyết định hoặc bản án thì vấn đề ly hôn có
hiệu lực. Nếu không phải là người hiểu biết pháp luật thì nhìn vào Điều luật thì sẽ không
biết được thời điểm có hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án. Để câu chữ của luật rõ
ràng, áp dụng thống nhất khi giải quyết mâu thuẫn thì Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã
quy định cụ thể hơn câu chữ của luật. Theo Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình
2014 thì “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án”. Vì vậy thời kỳ hôn nhân chỉ thực sự kết thúc khi có quyết định hoặc
5

Khoản 8 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

6

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật. Và chỉ có Tòa án mới là cơ quan duy nhất có trách
nhiệm ra phát quyết chấm dứt thời kỳ hôn nhân của vợ chồng. Phán quyết của Tòa án thể
hiện dưới hình thức: bản án hoặc quyết định.
- Vợ hoặc chồng chết hoặc bị tuyên bố là đã chết (gọi chung là chết)
Nếu hôn nhân là sự kiện bình thường, là thời điểm đầu tiên của hôn nhân thì trường
hợp vợ hay chồng chết là thời điểm cuối cùng tất yếu của hôn nhân.6 Đối với trường hợp
tuyên bố chết, theo quy định tại Khoản 1 Điều 82 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì “Khi quyết

định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn
nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối với
người chết”. Ngày chấm dứt thời kỳ hôn nhân chính là ngày chết hoặc ngày tuyên bố chết
có hiệu lực pháp luật. Trường hợp không xác định được ngày chết thì ngày chết là ngày bản
án hoặc quyết định liên quan có hiệu lực pháp luật.7 Tuy nhiên nếu một người bị tuyên bố là
đã chết thì quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng đương nhiên được chấm dứt, người vợ hoặc
chồng có quyền kết hôn với người khác, thì lần kết hôn sau là kết hôn hợp pháp. Nhưng nếu
một người bị tuyên bố là đã chết mà trở về, nếu người vợ hoặc chồng chưa kết hôn với
người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục.
1.2. Khái niệm thời kỳ hôn nhân
Quan hệ pháp luật hay quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng được phát sinh do sự kiện kết
hôn và hành vi pháp lý đi đăng ký kết hôn. Nội dung quan hệ pháp luật giữa vợ chồng bao
gồm các quan hệ nhân thân và tài sản, chính là nội dung các quyền và nghĩa vụ, mà quyền
và nghĩa vụ về nhân thân là nội dung chủ yếu trong quan hệ vợ chồng, các quyền này được
phát sinh trong thời kỳ hôn nhân.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Thời kỳ là khoảng thời gian được phân chia ra theo một sự
việc hay một sự kiện nào đó”.
Theo Khoản 7 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:“Thời kỳ hôn nhân là
khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt
hôn nhân”. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được ghi nhận tại Khoản 13 Điều 3:
“Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký
kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định câu
chữ của luật rõ ràng hơn, tuy xét về bản chất là không có sự hiểu không thống nhất cách xác
định thời kỳ hôn nhân “được” tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.
Nhà làm luật mong muốn làm rõ câu chữ của luật, áp dụng theo đúng tinh thần của pháp
luật.
Kết hôn được xem là bước khởi đầu cho đời sống vợ chồng, khoảng thời gian từ ngày
đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân được gọi là thời kỳ hôn nhân. Như vậy đăng
6
7


Nguyễn Văn Cừ, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội, 1994, tr. 165
Xem thêm quy định tại Khoản 2, Điều 81 Bộ luật Dân sự năm 2005

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

7

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
ký kết hôn là nghi thức duy nhất làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Muốn trở thành vợ chồng,
nam nữ phải xin đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn có thẩm quyền. Chỉ khi nào cơ
quan đăng ký đăng ký việc kết hôn cho họ, ghi vào sổ và trao giấy chứng nhận kết hôn thì
giữa họ mới phát sinh quan hệ vợ chồng. Trong thời kỳ này các quan hệ về nhân thân và các
quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng phát sinh và được pháp luật bảo vệ tại Điều 4 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 và Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm
2013 tại Khoản 2 Điều 36: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của
người mẹ và trẻ em”.
Tuy nhiên, từ các quy định của Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội ngày 09
tháng 6 năm 2000 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Nghị quyết
35/2000/QH10) có thể suy ra hai trường hợp đặc biệt mà thời kỳ hôn nhân được tính theo
cách khác, đó là trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 mà
không đăng ký kết hôn và trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trong khoảng thời
gian từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà đăng ký kết hôn trong khoảng từ ngày
01/01/2001 đến ngày 01/01/2003 (thời kỳ hôn nhân được tính từ ngày quan hệ vợ chồng
thực tế được xác lập đến ngày chấm dứt hôn nhân).
Như vậy việc đưa ra khái niệm rõ ràng về thời kỳ hôn nhân là căn cứ quan trọng trong
việc xác định các quan hệ pháp luật hôn nhân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con và là cơ

sở để xác định thời điểm phát sinh cũng như chấm dứt các quan hệ đó, góp phần làm cho
công tác áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về hôn nhân được thống nhất và
hoàn thiện hơn.
1.3. Sơ lược lịch sử phát triển của quy định về xác định thời kỳ hôn nhân
1.3.1. Luật cổ và tục lệ
Quan hệ hôn nhân và gia đình qua các truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, Tiên Dung
- Chữ Đồng Tử,… cho thấy, hôn nhân được cử hành qua hôn lễ, con gái được cưới về nhà
chồng và cũng có việc thách cưới, người con gái cũng có vai trò chủ động trong hôn nhân
và vẫn được tôn trọng trong gia đình.8 Nhưng chưa quy định cụ thể và rõ ràng về thời kỳ tồn
tại quan hệ hôn nhân là khoảng thời gian nào.
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, các quan hệ hôn nhân và gia đình ảnh hưởng nặng
nề tư tưởng Nho giáo. Nho giáo trở thành tử tưởng thống trị trong xã hội. Một trong những
mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong xã hội là quan hệ phu phụ hay quan hệ vợ chồng.
Quan hệ này phát sinh và tồn tại trong suốt thời kỳ hôn nhân, nhưng lại chưa được quy định
cụ thể trong Bộ Hình Thư của vua Lý Thái Tông năm 1042 (Luật thành văn đầu tiên của
nước ta), trong Bộ Hình Thư chỉ có quy định các trường hợp cấm kết hôn.
Cho đến thời kỳ Lê sơ, Bộ luật Hồng Đức tên gọi thông dụng của Bộ Quốc triều hình
luật được khởi thảo dưới thời vua Lê Thái Tổ, tiếp tục được bổ sung dưới các triều Lê Thái
8

Đại học Cần Thơ, Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, trang 27

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

8

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

Tông, Lê Nhân Tông và được hoàn chỉnh dưới thời vua Lê Thánh Tông. Là một bộ luật tổng
hợp bao gồm nhiều quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: lĩnh vực luật
hình sự, luật tố tụng, luật dân sự, luật hành chính và có hẵn một chương quy định về hôn
nhân và gia đình chính là Chương Hộ hôn gồm 58 điều, điều chỉnh các vấn đề: hộ tịch, hộ
khẩu, hôn nhân gia đình và các tội phạm trong lĩnh vực này. Pháp luật nhà Lê đã quy định
những quyền và nghĩa vụ cơ bản của vợ chồng như: nghĩa vụ đồng cư, nghĩa vụ phù trợ,
nghĩa vụ trung thành và nghĩa vụ tòng phu. Hình thức thể hiện các chế độ hôn nhân của Bộ
Quốc triều hình luật cũng rất tiến bộ. Các hình thức và thủ tục kết hôn cũng như chấm dứt
hôn nhân được quy định rõ ràng. Tuy không định nghĩa hay quy định cụ thể về thời kỳ hôn
nhân nhưng có thể hình dung được thời kỳ hôn nhân qua các quy định liên quan. Điều 314
Luật Hồng Đức quy định: “Việc đăng ký kết hôn chỉ được coi là hợp pháp khi được sự đồng
ý của hai bên cha mẹ, có việc trao đổi sính lễ trước sự có mặt của họ hàng hai bên”.. Và
hôn nhân chỉ có giá trị pháp lý từ sau lễ đính hôn (hiệu lực của đính hôn nảy sinh từ khi nhà
trai đặt đồ sính lễ và nhà gái nhận) được quy định tại Điều 315 Luật Hồng Đức:“Gã con gái
đã nhận đồ sính lễ mà lại thôi không gã nữa thị phải phạt 80 trượng…Còn người con gái
phải gã cho người hỏi trước”. Như vậy, đính hôn là hình thức tiên quyết của kết hôn. Chỉ
khi thành hôn thì cuộc hôn nhân mới có giá trị thực tế, mà không cần phải lập văn tự hôn
thú, có lẽ nhà làm luật dành quy định này cho phong tục tập quán điều chỉnh.
Và hôn nhân chấm dứt khi xảy ra một trong hai trường hợp: do một bên vợ hoặc
chồng chết trước, do ly hôn.
- Hôn nhân chấm dứt do vợ hoặc chồng chết trước. Bộ luật Hồng Đức không có một
điều nào quy định trực tiếp nhưng có hai điều khoản gián tiếp quy định về trường hợp này.
Theo tinh thần được quy định tại Điều 2 và Điều 230, nếu người vợ chết trước thì quan hệ
hôn nhân chấm dứt ngay. Ngược lại, nếu người chồng chết trước, quan hệ hôn nhân chưa
chấm dứt ngay mà vẫn tồn tại trong thời gian vợ để tang chồng, hôn nhân chỉ chấm dứt ngay
sau khi mãn tang chồng. Do đó, thời kỳ hôn nhân có thể hiểu được tính từ ngày sau lễ đính
hôn đến ngày vợ chết hoặc ngày vợ mãn tang chồng nếu chồng chết.
- Hôn nhân chấm dứt do ly hôn. Bộ luật Hồng Đức quy định có ba nhóm ly hôn: buộc
phải ly hôn vì hôn nhân quy phạm các quy định cấm kết hôn, ly hôn do lỗi của người vợ và
ly hôn do lỗi của người chồng được quy định tại các điều 308, 310, 317, 318, 323, 324 và

điều 334. Thủ tục ly hôn cũng rất đơn giản là 2 bên vợ chồng viết giấy, viết giấy giáp lai và
cùng ký, sau đó mỗi bên giữ một tờ. Việc ly hôn được sự đồng ý của hai bên vợ chồng và
được chứng nhận bằng văn bản, không cần sự cho phép của nhà chức trách.
Vậy căn cứ xác định thời kỳ hôn nhân trong giai đoạn này là thời điểm hôn nhân có
giá trị pháp lý chính là thời điểm sau lễ đính hôn và hôn nhân chấm dứt do ly hôn, một trong
hai người chết. Nếu chồng chết thì thời kỳ hôn nhân kết thúc khi vợ mãn tang chồng, ngược
lại nếu vợ chết thì thời kỳ hôn nhân chấm dứt ngay khi người vợ chết.
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

9

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Đến Bộ Hoàng Việt Luật Lệ một thành tựu điển hình trong hoạt động lập pháp của
triều Nguyễn, có tính khái quát cao và phân ngành rõ ràng hơn so với Quốc triều hình luật.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một bộ luật thống nhất từ Đàng trong đến Đàng ngoài
được ban hành, bao gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Bộ luật này đã tiếp tục kế thừa và
phát triển những quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về hôn nhân nói riêng đã
quy định về thủ tục ly hôn. Về thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân được quy định giống như
Bộ luật Hồng Đức. Việc chấm dứt thời kỳ hôn nhân cũng được quy định tương tự, tuy nhiên
có quy định cụ thể thủ tục ly hôn đều phải trình lên quan ty, không được tự tiện; hai bên có
thể làm “Tư ước” hoặc “Văn thư” thì mới được chấp nhận. Do đó việc chấm dứt thời kỳ hôn
nhân do ly hôn phải được sự chấp nhận của cơ quan chức trách, thì mới có giá trị pháp luật.
1.3.2. Luật cận đại trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945 Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong
kiến, nên chế độ hôn nhân gia đình là công cụ pháp lý của nhà nước thực dân phong kiến
được ban hành dựa trên những phong tục tập quán lạc hậu của xã hội phong kiến nhằm mục
đích củng cố và bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến.

Pháp luật về hôn nhân và gia đình trong thời kỳ này có đặt ra các vấn đề phát sinh
trong thời kỳ hôn nhân và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt thời kỳ hôn nhân nhưng vẫn
chưa đưa ra được khái niệm cụ thể về thời kỳ hôn nhân. Vì vậy để có căn cứ xác định thời
kỳ hôn nhân thì phải thông qua các điều luật quy định gián tiếp có liên quan đến thời điểm
bắt đầu và kết thúc của thời kỳ này. Chẳng hạn như về thủ tục kết hôn được quy định tại
Điều 77, Điều 78 Bộ Dân luật Bắc kỳ: việc kết hôn phải do hai bên nam nữ bằng lòng và
phải được khai với chính quyền (hộ lại) thì mới có giá trị. Về tiêu hôn và ly hôn thì tại các
Điều 82, 86, 87, 116,117, 118, 119, 120 của Bộ Dân luật Bắc kỳ và chỉ có Tòa án mới có
quyền quyết định.
1.3.3. Luật hiện đại sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
1.3.3.1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
mới được thành lập chưa kịp xây dựng và ban hành văn bản pháp luật về hôn nhân và gia
đình thì phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp lần thứ 2 kéo dài
9 năm. Nhà nước chưa có điều kiện để xây dựng pháp luật mới về hôn nhân và gia đình, vì
vậy pháp luật của chế độ củ ở ba miền tạm thời được áp dụng. Đến năm 1946 Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời ghi nhận quyền bình đẳng của nam
nữ tại Điều 9: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” chính là cơ sở pháp
lý đầu tiên để xác lập các quan hệ về hôn nhân trong chế độ mới.
Hòa bình được lặp lại năm 1954, Miền bắc được giải phóng và tiến hành công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đây là giai đoạn đẩy mạnh vận động xây dựng chế độ hôn nhân
và gia đình mới, tập trung vào việc bài trừ, xóa bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân và
GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

10

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

gia đình phong kiến. Đến năm 1959 Luật Hôn nhân và gia đình còn gọi là đạo luật số 13 về
hôn nhân và gia đình được Quốc Hội khóa I, kỳ họp thứ 11 chính thức thông qua ngày
29/12/1959 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 13/01/1960, luật này gồm 6 chương, 35 điều.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một văn bản pháp luật chỉ quy định riêng về gia
đình. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 được xây dựng và thực hiện với hai nhiệm vụ cơ
bản: xóa bỏ tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu và xây dựng chế độ
hôn nhân và gia đình mới của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 không có một điều khoản nào định nghĩa trực
tiếp về thời kỳ hôn nhân. Nhưng trên tinh thần của luật thì có thể hiểu được thời kỳ hôn
nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ hôn nhân. Thông qua các điều luật quy định về việc
kết hôn và ly hôn. “Việc kết hôn phải được Ủy ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên
người con trai hoặc bên người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết
hôn khác đều không có giá trị pháp luật”.9 Ly hôn do hai bên thuận tình ly hôn hay do một
bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn đều phải được sự công nhận của tòa án. Đối với trường
hợp hoặc vợ hoặc chồng chết thì đương nhiên thời kỳ hôn nhân sẽ chấm dứt. Vì khi hôn
nhân còn tồn tại thì vợ chồng là một, khi hôn nhân chấm đứt do có người chết thì vợ chồng
chỉ còn một người; nếu hôn nhân chấm dứt do ly hôn thì đúng là có hai người nhưng không
phải là vợ chồng. Vậy có thể hiểu thời điểm bắt đầu của thời kỳ hôn nhân chính là thời điểm
việc đăng ký kết hôn được ghi vào sổ kết hôn tại cơ quan hành chính có thẩm quyền, thời
điểm kết thúc thời kỳ hôn nhân là thời điểm một trong hai bên vợ hoặc chồng chết hoặc là
thời điểm Tòa án công nhận việc ly hôn.
1.3.3.2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
Với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 30 tháng 4 năm
1975 thống nhất hai miền Nam – Bắc, trước công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ đất
nước nói chung và việc xây dựng Nhà nước và pháp luật nói riêng được Đảng và Nhà nước
ta hết sức quan tâm. Đánh dấu sự đổi mới chính là Quốc hội cho ra đời bản Hiến pháp 1980,
đây là bản hiến pháp đầu tiên thống nhất hai miền. Và Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986
được Quốc Hội khóa VII, kỳ họp thứ 12 thông qua ngày 29 tháng 12 năm 1986 trên cơ sở
kế thừa và phát triển những quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, tiếp tục xây
dựng và củng cố gia đình xã hội chủ nghĩa. Luật gồm 10 chương, 57 điều được xây dựng và

thực hiện với nguyên tắc hôn nhân và gia đình tự nguyện và tiến bộ; một vợ một chồng, vợ
chồng bình đẳng; bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con; bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Về thời kỳ
hôn nhân Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng ghi nhận tương tự Luật Hôn nhân và
gia đình năm 1959. Tức là thời kỳ hôn nhân bắt đầu được tính kể thời điểm việc đăng ký kết
hôn được ghi vào sổ kết hôn và kết thúc do một trong hai bên vợ chồng chết hoặc được Tòa
án công nhận việc ly hôn của vợ chồng.
9

Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

11

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
1.3.3.3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Ngày 09/6/2000 Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Hôn nhân và gia đình mới thay thế
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 gồm 13 chương
và 110 điều và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2001. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
được ban hành trên cơ sở kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và sửa đổi, bổ sung
một số quy định mới nhằm hoàn thiện pháp luật về hôn nhân và gia đình, đáp ứng được đòi
hỏi của thực tiễn.
Thời kỳ hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là “khoảng thời gian tồn
tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt quan hệ hôn
nhân”.10 Vậy thời kỳ hôn nhân theo luật hiện hành được tính từ ngày vợ chồng hoàn thành
thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền và kết thúc khi quan hệ hôn nhân chấm
dứt do ly hôn hoặc vợ hoặc chồng hoặc chết sinh học hoặc chết pháp lý.

Bên cạnh đó theo quy định tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 có quy định thêm hai
trường hợp xác định thời kỳ hôn nhân trong trường hợp không có đăng ký kết hôn được
đồng hóa là hôn nhân hợp pháp. Đó là thời kỳ hôn nhân được xác định kể từ thời điểm bắt
đầu xác lập quan hệ chung sống như vợ chồng trên thực tế đến ngày chấm dứt quan hệ hôn
nhân.
1.3.3.4. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời và được áp dụng gần 14 năm, do đó có
những quy định không phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội đòi hỏi cần phải có
những quy định mới sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực trạng xã hội. Chính vì vậy, Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã được thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014 tại kỳ họp
thứ 7 Quốc hội khóa XIII và chính thức có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 2015.
Thời kỳ hôn nhân theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 được quy định tại Khoản
13 Điều 3 “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ
ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Việc quy định thời kỳ hôn nhân theo
Luật mới 2014 không có gì khác so với Luật hiện hành.
1.4. Ý nghĩa thực tiễn của việc xác định thời kỳ hôn nhân
Hôn nhân là sợi dây pháp lý liên kết giữa người nam và người nữ, kể từ đây họ là vợ là
chồng của nhau và giữa họ phát sinh những quan hệ pháp lý được luật Hôn nhân và gia đình
bảo vệ. Họ sẽ có những quyền, nghĩa vụ mà chỉ khi họ là vợ và chồng của nhau mới có như
quyền đại diện cho nhau, quyền của chủ sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng, quyền
được hưởng cấp dưỡng, các quyền khác và phải thực hiện nghĩa vụ như nghĩa vụ cấp dưỡng,
nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái. Hôn nhân sẽ làm phát sinh hậu quả pháp lý về mặt nhân thân
và tài sản giữa vợ và chồng, vì vậy việc xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc của thời kỳ
hôn nhân là cần thiết.
10

Khoản 7 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh


12

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Việc xác định thời kỳ hôn nhân chính là căn cứ quan trọng trong việc xác định khoảng
thời gian phát sinh, tồn tại hay chấm dứt các quan hệ pháp luật sau:
1.4.1. Xác định thời gian phát sinh, chấm dứt quan hệ nhân nhân giữa vợ chồng
Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng là mối quan hệ thiêng liêng mà về bản chất là
không vụ lợi, sẵn sàng chia sẻ và hy sinh và là nền tảng để xây dựng một gia đình hạnh
phúc.11 Các mối quan hệ nhân thân này gồm:
- Nghĩa vụ yêu thương và chung thủy với nhau: cơ sở xác lập quan hệ vợ chồng là
tình yêu giữa nam và nữ và được quy định tại Điều 18 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Khi nam nữ yêu thương nhau, hiểu nhau thì họ quyết định xác lập quan hệ hôn nhân để trở
thành vợ chồng của nhau, tình cảm yêu thương đó được duy trì trong suốt thời kỳ hôn nhân
và là cơ sở duy trì quan hệ hôn nhân bền vững.
- Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ về mọi mặt: lựa chọn nơi cư trú; tôn trọng danh dự,
nhân phẩm, uy tín của vợ chồng; tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng
được quy định từ Điều 19 đến Điều 22 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Các nhóm quyền và nghĩa vụ này phát sinh dựa vào sự kiện kết hôn (trừ trường hợp
chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn nhưng thỏa điều kiện để được đồng
hóa là hôn nhân hợp pháp), và kết thúc dựa vào thời điểm chấm dứt hôn nhân.
1.4.2. Xác định thời gian phát sinh, chấm dứt quan hệ tài sản giữa vợ chồng
Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung
Theo quy đinh tại Khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: “Tài sản
chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà
vợ chồng thoả thuận là tài sản chung”.

Còn theo quy định tại Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Tài sản
chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động
sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và những thu nhập hợp pháp
khác trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”.
Đây là nhóm tài sản chủ yếu của vợ chồng, gắn liền với việc phát sinh quan hệ nhân
thân giữa vợ, chồng và cùng tồn tại với sự tồn tại của quan hệ hôn nhân. Khối tài sản chung
của vợ chồng được sinh ra từ thời kỳ hôn nhân. Chính từ ngày kết hôn khối tài sản chung
bắt đầu tích tụ từ con số không. Có thể nhận thấy rằng sự hình thành và phát triển của khối
tài sản chung gắn liền với hôn nhân, nếu không có hôn nhân thì không có tài sản chung, hôn

11

Nguyễn Thanh Tâm, Ly hôn – nghiên cứu các trường hợp Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội – trung tâm khoa
học xã hội và nhân văn quốc gia, Hà Nội, 2002, trang 98

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

13

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
nhân càng dài thì khối tài sản chung càng có điều kiện tốt về thời gian để phát triển lớn
mạnh.12
Quyền thừa kế của vợ chồng
Vợ chồng có quyền thừa kế di sản của nhau khi một bên chết. Việc thừa kế có thể theo
di chúc, theo pháp luật và thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Vợ chồng là hàng thừa kế thứ nhất của nhau theo pháp luật, cùng với cha, mẹ và con

của người chết. Để được thừa kế di sản của nhau tại thời điểm vợ hoặc chồng chết, hai
người vẫn được pháp luật thừa nhận là vợ chồng của nhau, tức là thời kỳ hôn nhân còn tồn
tại giữa hai người.
Đại diện cho nhau giữa vợ chồng
Trong thời kỳ hôn nhân vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ đại diện cho nhau trong
một số trường hợp vợ chồng không thể bài tỏ được ý chí của mình. Việc đại diện cho nhau
có thể là: vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch
mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của vợ chồng như: bán tài sản chung của
vợ chồng; là người giám hộ khi một bên vợ, chồng bị mất năng lực hành vi dân sự, bên vợ
hoặc chồng còn lại có đủ điều kiện để làm người giám hộ.
1.4.3. Xác định cha mẹ cho con
Xác định cha mẹ cho con được tiến hành theo hai trường hợp: xác định cha mẹ cho
con khi giữa cha mẹ tồn tại mối quan hệ hôn nhân hợp pháp và xác định cha mẹ cho con khi
giữa cha mẹ không tồn tại mối quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Khi giữa cha mẹ tồn tại hôn nhân hôn pháp thì việc xác định con chung hay con trong
giá thú của vợ chồng được tiến hành theo phương pháp suy đoán pháp lý. Việc xác định cha
mẹ cho con được quy định tại Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Con sinh ra
trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ
chồng”. Như vậy căn cứ xác định con chung là dựa vào thời kỳ hôn nhân của cha mẹ.
Việc xác định con chung của vợ chồng trên cơ sở suy đoán có thể xuất hiện hai trường
hợp:
Thứ nhất, Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân: Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân
thuộc một trong hai trường hợp sau:
- Con do người vợ có thai và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân: trong trường hợp này
đứa trẻ đương nhiên là con chung của vợ chồng, trừ trường hợp người chồng có chứng cứ
khác chứng minh rằng đứa trẻ đó không phải là con của mình.
- Con do người vợ có thai trước thời kỳ hôn nhân và sinh ra trong thời kỳ hôn nhân:
đứa trẻ này vẫn được xác định là con chung của vợ chồng vì nó thỏa mãn được quy định tại
Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân, trừ
12


Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Tập II – Các quan hệ tài sản giữa vợ
chồng, Nhà xuất bản Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 2004, trang 41

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

14

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
trường hợp người chồng không thừa nhận đứa trẻ đó là con của mình, tuy nhiên người
chồng cũng phải có chứng cứ chứng minh.
Thứ hai, Con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân và sinh ra sau khi hôn nhân
chấm dứt. Trường hợp này đứa trẻ được mang thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng được sinh
ra khi người chồng của mẹ đứa trẻ đã chết hoặc đã ly hôn với người mẹ của đứa trẻ. Người
chồng đã chết hoặc ly hôn này được suy đoán là cha của đứa trẻ.
Theo khoản 2 Điều 21 của Nghị định 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03 tháng
10 năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Nghị định
70/2001/NĐ-CP) có quy đinh cụ thể: “Con sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày người
chồng chết hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu
lực pháp luật, thì được xác định là con chung của hai người”.
Bên cạnh đó việc xác định chính xác thời kỳ hôn nhân còn là căn cứ để xác định các
hành vi vi phạm chế độ hôn nhân và gia đình như: vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một
chồng và bạo hành gia đình. Thứ nhất, nếu giữa nam và nữ thời kỳ hôn nhân còn tồn tại thì
về mặt pháp luật họ vẫn là vợ chồng của nhau. Vì vậy nếu họ kết hôn hoặc chung sống như
vợ chồng với người khác: người chưa có vợ có chồng hoặc người đã có vợ có chồng thì họ
đã vi phạm nghĩa vụ chung thủy của vợ chồng chính là vi phạm chế độ hôn nhân một vợ
một chồng. Thứ hai, nếu hai người vẫn còn tồn tại quan hệ vợ chồng thì mọi hành vi ngược

đãi, hành hạ, xúc phạm lẫn nhau thì sẽ vi phạm tội ngược đãi hành hạ vợ, chồng. Những
hành vi này sẽ bị xử lý hành chính, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến xử lý hình sự.
Vì vậy việc xác định thời kỳ hôn nhân rất có ý nghĩa về mọi mặt trong đời sống xã hội.

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

15

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

CHƯƠNG 2
CÁC CĂN CỨ XÁC ĐỊNH THỜI KỲ HÔN NHÂN
TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Thông qua cơ sở lý luận Chương 1 đã cho thấy việc xác định thời kỳ hôn nhân có ý
nghĩa rất quan trọng. Chính vì vậy cần tìm hiểu chính xác những quy định của pháp luật để
hiểu và áp dụng đúng theo tinh thần của pháp luật. Tại Chương này, trên cơ sở luật thực
định, luận văn đi sâu phân tích các quy định của pháp luật về các căn cứ xác định thời kỳ
hôn nhân. Người viết trình bày hai căn cứ để xác định thời kỳ hôn nhân: có đăng ký kết hôn
và không có đăng ký kết hôn nhưng được đồng hóa là hôn nhân hợp pháp.
2.1. Xác định thời kỳ hôn nhân trong trường hợp có đăng ký kết hôn
Theo quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình hiện hành thì thời kỳ hôn nhân bắt
đầu được tính từ khi kết hôn tức là ngày Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn – nơi cư trú
của vợ hoặc chồng ghi vào Sổ đăng ký kết hôn và cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho hai vợ
chồng và chấm dứt phụ thuộc vào sự kiện làm cơ sở để chấm dứt quan hệ hôn nhân: một
bên vợ hoặc chồng chết hoặc bị tuyên bố là đã chết hoặc ly hôn (từ khi phán quyết của Tòa
án có hiệu lực pháp luật).
2.1.1. Xác định thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân

Để xác định chính xác thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân trong trường hợp vợ chồng
có đăng ký kết hôn thì cần xác định thời điểm ghi vào Sổ đăng ký kết hôn hay sổ hộ tịch và
giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Hộ tịch theo quy định tại Khoản 1
Điều 1 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính Phủ về đăng ký và quản
lý hộ tịch (Nghị định158/2005/NĐ-CP) là: “những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân
thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”. Cũng theo Nghị định thì thủ tục đăng ký
kết hôn là một trong các thủ tục đăng ký hộ tịch của cá nhân và Giấy chứng nhận kết hôn
cũng là một trong các loại giấy tờ hộ tịch của cá nhân. “Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân theo quy định của pháp luật về hộ tịch là căn cứ pháp
lý xác nhận sự kiện hộ tịch của cá nhân đó”.13
Theo quy định về đăng ký kết hôn tại Khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình
hiện hành thì việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền – Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của một trong hai bên thực hiện theo một nghi thức do pháp
luật quy định. Mọi nghi thức kết hôn khác như tổ chức lễ cưới tại gia đình, kết hôn theo
phong tục tập quán, tiến hành theo nghi lễ tôn giáo tại nhà thờ mà không có Giấy chứng
nhận kết hôn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp thì không được công nhận là hợp

13

Khoản 1 Điều 5 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính Phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

16

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
pháp có giá trị pháp lý, hai bên không phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa vợ chồng

với nhau. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo nghi
thức quy định tại Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành và Điều 9 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014. Nghi thức đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật: “Khi tổ chức
đăng ký kết hôn phải có mặt của hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn
yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện
cơ quan đăng ký kết hôn trao giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên”.
Như vậy đăng ký kết hôn là một thủ tục, một nghi thức do pháp luật quy định như là
một điều kiện về mặt hình thức nhằm công nhận việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai bên
nam nữ là hợp pháp. Muốn trở thành vợ chồng, nam nữ phải xin đăng ký kết hôn tại cơ quan
đăng ký kết hôn. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn có giá trị kể từ ngày tổ chức lễ đăng ký
kết hôn theo nghi thức nói trên. Vì vậy, hiệu lực của hôn thú hay nói chính xác là thời điểm
bắt đầu thời kỳ hôn nhân được xác định là ngày vào Sổ đăng ký kết hôn.
2.1.2. Xác định thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân
Theo quy định tại Khoản 7 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành:“Thời kỳ hôn
nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân”. Ngày chấm dứt hôn nhân được xác định trong các trường hợp sau:
- Khi vợ hoặc chồng còn sống, thì hôn nhân chấm dứt bằng ly hôn, tính từ thời điểm
phán quyết về ly hôn của Tòa án có thẩm quyền có hiệu lực.
- Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ
hoặc chồng là đã chết (khi quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật).
2.1.2.1. Xác định thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân do ly hôn
Nếu kết hôn là hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hôn là
hiện tượng bất bình thường, là mặt trái của hôn nhân, nhưng là mặt không thể thiếu được
khi quan hệ hôn nhân thực tế đã đỗ vỡ, quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn mất hết ý nghĩa. Ly
hôn được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành là: “Là sự chấm dứt quan hệ
hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc của
cả hai vợ chồng”.14 Theo quy định tại Khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 là: “việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án”. Hậu quả của việc ly hôn sẽ kéo theo sự chấm dứt hoàn toàn của quan hệ nhân
thân và quan hệ tài sản. Thời điểm có hiệu lực của việc ly hôn là thời điểm có hiệu lực của

bản án, quyết định cho ly hôn của Tòa án.
Như vậy, thời kỳ hôn nhân chỉ chấm dứt khi có bản án, quyết định đã có hiệu lực của
Tòa án. Tòa án ra bản án ly hôn hoặc quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn phải thông
qua thủ tục theo quy định của pháp luậtvề tố tụng. Kể từ thời điểm thụ lý cho đến trước thời
điểm bản án ly hôn hoặc quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn của đương sự của tòa án
14

Khoản 8 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

17

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
có hiệu lực pháp luật thì về mặt pháp lý thì các bên vẫn có quan hệ vợ chồng, thời kỳ hôn
nhân chưa chấm dứt. Về thời điểm có hiệu lực của bản án ly hôn, quyết định công nhận sự
thuận tình của đương sự thì Bộ luật Tố tụng dân sự quy định như sau:
- Đối với bản án ly hôn thì theo quy định tại Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004: “…Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết
định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định
phúc thẩm có hiệu lực pháp luật”.
Như vậy theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì sau 30 ngày kể từ ngày tuyên án
nếu không có kháng cáo, kháng nghị cùng cấp; 45 ngày kháng nghị cấp trên thì bản án có
hiệu lực pháp luật cũng chính là thời điểm quan hệ hôn nhân giữa hai người chính thức
không còn tồn tại trước pháp luật. Nếu bản án bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm thì bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.15 Có thể nói nếu bản

án bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời kỳ hôn nhân giữa nam và nữ
chưa được chấm dứt, lúc này hai bên vẫn còn ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý với
nhau. Và chỉ chấm dứt quan hệ hôn nhân kể từ ngày tuyên án bản án phúc thẩm của Tòa án.
- Đối với quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự được quy định tại Điều
188 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004:
“1. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay
sau khi ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
2. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là bị nhầm lẫn, lừa dối, đe
dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.”
Tóm lại, khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, quyền và nghĩa vụ
nhân thân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt hoàn toàn. Về mặt pháp luật họ không còn là vợ
chồng với nhau, các ràng buộc về quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên chính thức chấm
dứt hoàn toàn. Các bên vợ, chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác.
2.1.2.2. Xác định thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân do vợ hoặc chồng chết hoặc bị
tòa án tuyên bố là đã chết
Nếu kết hôn là sự kiện pháp lý liên kết những cá nhân độc lập với nhau trở thành một
nhằm mục đích chung sống với nhau suốt đời, xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, thì
cái chết là một sự biến làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng. Khi một trong hai
bên vợ hoặc chồng chết hoặc bị tuyên bố là đã chết thì quan hệ hôn nhân đương nhiên chấm
dứt. Ngoại lệ, theo Điều 83 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định: “khi Tòa án hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết theo quy định tại
15

Khoản 1 Điều 245, Khoản 1 Điều 252 và Khoản 6 Điều 279 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm
2011)

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

18


SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Điều 83 của Bộ luật Dân sự năm 2005 mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với
người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục”. Trong trường hợp này phải
có sự đồng thuận giữa hai bên.
Việc một bên chết trước bằng cái chết sinh học thì thời điểm chết được ghi trong giấy
đăng ký khai tử. Theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Mục 3 Nghị định
158/NĐ-CP thì: đăng ký khai tử là việc cơ quan nhà nước công nhận về mặt pháp lý sự kiện
chết và thời điểm chết của một cá nhân có ý nghĩa quan trọng làm chấm dứt, thay đổi các
quan hệ pháp luật của cá nhân đó. Giấy chứng tử đòi hỏi ghi nhận chính xác về thời điểm
chết của một cá nhân với những thông tin như sau: “Đã chết vào lúc…giờ... phút,
ngày….tháng…. năm…”. Tương tự như vậy, trong Sổ đăng ký khai tử cũng có mục yêu cầu
ghi rõ: giờ, phút, ngày, tháng, năm chết của người được đăng ký khai tử. Từ đó có thể thấy
việc xác định và ghi chính xác thời điểm cá nhân chết rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến
những quan hệ như thừa kế, quan hệ hôn nhân của người đã chết với người còn sống.
Việc Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì cái chết pháp lý này cũng có giá trị
ngang bằng với cái chết sinh học. Khi đó các quan hệ về hôn nhân và gia đình, quan hệ nhân
thân của người bị tuyên bố là đã chết được giải quyết như đối với người chết. Cho nên khi
Bản án hoặc Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì
quan hệ hôn nhân giữa bên còn sống với bên đã chết hoàn toàn chấm dứt. Thủ tục và các
quy định về tuyên bố một người là đã chết tuân theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005
và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Thời điểm cá nhân đã chết theo quy định được xác
định tùy vào từng trường hợp, Tòa án sẽ xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã
chết.16 Theo quy định tại Khoản 1 Điều 81 Bộ luật Dân sự quy định các trường hợp người
có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã
chết và Khoản 2 quy định tùy từng trường hợp Tòa án xác định ngày chết của người bị
tuyên bố là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 81 Bộ luật Dân sự.

Tuy nhiên do điều luật không nêu rõ ngày xác định một người đã chết và hiện vẫn chưa có
văn bản hướng dẫn Điều 81 của Bộ luật dân sự nên dẫn đến có nhiều cách hiểu và áp dụng
khác nhau.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 dành hẵn phần quy định riêng về hôn nhân chấm
dứt do vợ, chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết gồm 3 Điều từ Điều 65 đến Điều
67. Cụ thể theo quy định tại Điều 65:
“Hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết.
Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân
chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án”.

16

Được quy định cụ thể tại Điều 81 Bộ luật Dân sự năm 2005

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh

19

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


Xác định thời kỳ hôn nhân trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
Theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì xác định rõ ngày chấm dứt
hôn nhân trong trường hợp bị tuyên bố là đã chết là ngày chết của người bị tuyên bố là đã
chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.
Như vậy, thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân trong trường hợp một bên vợ hoặc
chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết: phụ thuộc vào sự kiện làm cơ sở để chấm dứt
quan hệ hôn nhân.
- Trường hợp một trong hai bên vợ hoặc chồng chết: Thời điểm chấm dứt hôn nhân
được xác định kể từ ngày chết của một bên vợ hoặc chồng được ghi nhận trong Giấy chứng

tử mà cơ quan hộ tịch cấp.
- Trường hợp một trong hai bên vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết, thì thời
điểm chấm dứt hôn nhân là ngày được ghi nhận trong quyết định của Tòa án tuyên bố người
đó là đã chết và có hiệu lực khi quyết định của Tóa án tuyên bố người đó là đã chết có hiệu
lực pháp luật.
2.2. Xác định thời kỳ hôn nhân trong các trường hợp chung sống với nhau như vợ
chồng mà không có đăng ký kết hôn được đồng hóa là hôn nhân hợp pháp
2.2.1. Quy định của pháp luật về chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
được đồng hóa là hôn nhân hợp pháp
Chung sống như vợ chồng là hành vi của hai bên nam nữ, tuy không phải là vợ chồng
nhưng đã chung sống với nhau và coi nhau là vợ chồng. Họ liên kết với nhau trên cơ sở tự
nguyện và không đăng ký kết hôn. Dưới góc độ pháp lý nếu kết hôn là việc xác lập quan hệ
vợ chồng có đăng ký kết hôn, thì quan hệ chung sống như vợ chồng là quan hệ vợ chồng
không có đăng ký kết hôn. Quan hệ này có thể được xác lập không phù hợp hoặc hoàn toàn
phù hợp với các điều kiện kết hôn.
Theo quy định tại Điểm d Mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 thì nam nữ chung sống
với nhau như vợ chồng được coi là hợp pháp nếu họ thỏa các điều kiện để kết hôn theo quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
- Việc chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp nhận;
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;
- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia
đình.
Như vậy việc nam nữ chung sống như vợ chồng là quan hệ được xác lập giữa hai
người, một nam và một nữ, có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật, chung sống
như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

GVHD: Nguyễn Thị Mỹ Linh


20

SVTH: Võ Thị Kim Hoa


×