Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

thi hành án hành chính lý luận và thực tiển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.84 KB, 45 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Khóa 38 (2012 – 2014)
Hệ đào tạo: Chính quy

Đề tài:

THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH –
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN

Giảng viên hướng dẫn:
Châu Hoàng Thân
Bộ môn Luật Hành chính

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Văn Mân
Lớp: Luật văn bằng 2 Đồng Tháp
MSSV: S120046

CẦN THƠ - 12/2014


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Bản án, quyết định của Tòa án hành chính là kết quả của quá trình giải quyết vụ án
hành chính theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ nhằm hạn chế tối đa sai sót, đảm bảo tính
khách quan, chính xác, đúng bản chất sự việc. Kết quả của quá trình này, cần được thi
hành trên thực tế, nghiêm minh, nếu không thì hoạt động của tòa án không hiệu quả. Có


thể nói, các hoạt động tố tụng khác trong quá trình xét xử vụ án hành chính không có mục
đích tự thân; mục đích cuối cùng và cao nhất là bản án,quyết định của Tòa án hành chính
được thi hành trong thực tế, đáp ứng yêu cầu của các bên trong vụ án hành chính.
Thi hành án hành chính nghiêm minh còn chính là sự biểu hiện của pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Điều 106 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
quy định “Bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan, cá nhân; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Tuy nhiên so với các hoạt động thi hành án khác, việc thi hành án hành chính có
điểm khác đặc biệt. Việc giải quyết án hành chính thực chất là giải quyết tranh chấp về
tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính giữa các chủ thể mà
một bên là các cơ quan, cán bộ công chức nhà nước được ủy quyền thực hiện quyền lực
nhà nước và một bên là công dân. Nếu Tòa án tuyên bác đơn khởi kiện của công dân,
việc thi hành án tương đối dể dàng, ngược lại nếu Tòa án tuyên chấp nhận một phần hay
hoàn toàn yêu cầu khởi kiện hoặc buộc cơ quan nhà nước, cán bộ công chức phải có
nghĩa vụ thi hành bất lợi về tài sản thì việc thi hành án vô cùng khó khăn, phức tạp.
Do tính chất đặc thù của thi hành án hành chính là bắt buộc một trong hai bên chủ
thể tham gia phải là cơ quan hành chính nhà nước, nên khi tiến hành giải quyết và thi
hành án lại gặp nhiều khó khăn. Một thực trạng là việc thi hành án kéo dài nhiều năm mà
không thi hành được, ý thức tuân thủ pháp luật của cơ quan nhà nước và quần chúng
nhân dân còn hạn chế đặc biệt là người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Quy định
về quản lý thi hành án hành chính còn chung chung, không giao cho cơ quan cụ thể nào
khiến cho việc theo dõi, giám sát, thống kê, đánh giá không sâu sát. Các biện pháp chế tài
không được quy định rõ làm cho một số đương sự, trong đó có nhiều cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chây ỳ, không tích cực thực hiện bản án,
quyết định của tòa án hành chính, gây bức xúc cho người dân. Những nguyên nhân này
đã phần nào làm giảm niềm tin của người dân vào hiệu quả giải quyết án tại Tòa hành
chính, niềm tin vào hệ thống pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật nói chung.
Chính từ bức xúc như vậy mà người viết chọn đề tài “Thi hành án hành chính lý luận và thực tiễn” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp của mình.

GVHD: Châu Hoàng Thân


2

SVTH: Nguyễn Văn Mân


2. Mục đích nghiên cứu:
Làm sáng tỏ những vấn đề về pháp luật thi hành án hành chính. Chỉ ra những hạn chế
và nguyên nhân, từ đó tìm ra những giải pháp nhằm làm cho thi hành án đạt hiệu quả cao.
Nhiệm vụ của luận văn:
Nghiên cứu vấn đề về hoạt động thi hành án hành chính và đưa ra một số khái
niệm cơ bản và nội dung thi hành án hành chính.
Chỉ ra những bất cập cần được khắc phục của thi hành án hành chính, và đưa ra
biện pháp khắc phục.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Trong nội dung nghiên cứu, chủ yếu đưa ra những lý luận thực tiễn và những quy
định của pháp luật về thi hành án án hành chính, đồng thời người viết cũng liên hệ với
những quy định trước đó để đối chiếu rút ra những mặt hạn chế về thi hành án hành
chính. Qua đó chỉ ra những hạn chế và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện công tác thi
hành án hành chính.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài được ngiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Bên cạnh đó, người viết còn sử dụng kết hợp các phương pháp như
Phương pháp thống kê, hệ thống hóa, phân tích, so sánh số liệu từ nhiều nguồn
tham khảo để phân tích , đánh giá vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn, có kết cấu như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về thi hành án hành chính.
Chương 2: Quy định pháp luật về thi hành án hành chính.

Chương 3: Thực trạng thi hành án hành chính và một số giải pháp hoàn thiện Thi
hành án hành chính.

GVHD: Châu Hoàng Thân

3

SVTH: Nguyễn Văn Mân


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm cơ bản tố tụng hành chính và thi hành án hành chính
1.1.1. Khái niệm tố tụng hành chính
Tố tụng hành chính là một lĩnh vực của đời sống xã hội, nó bao gồm toàn bộ
những hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng, nên phát sinh rất nhiều quan hệ, giữa Tòa án với các tổ chức, cá nhân khi họ khởi
kiện các vụ án hành chính; quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án trong quá
trình giải quyết các vụ án hành chính…v.v. Do vậy, đòi hỏi pháp luật phải quy định địa vị
pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các chủ thể trong từng giai
đoạn của Tố tụng hành chính; quy định trình tự, thủ tục khởi kiện thụ lý vụ án hành
chính; trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm; trình tự thủ tục thi hành án hành chính.
Từ đó đi đến khái niệm tố tụng hành chính là toàn bộ hoạt động của Tòa án, Viện
kiểm sát, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, của cơ quan Nhà
nước và tổ chức trong việc giải quyết vụ án hành chính, cũng như trình tự do pháp luật
quy định đối với việc khởi kiện, thụ lý giải quyết vụ án hành chính và thi hành bản án,
quyết định của Tòa án về vụ án hành chính1.
1.1.2. Khái niệm vụ án hành chính
Quản lý hành chính Nhà nước là một hoạt động của Nhà nước được thực hiện

trưóc hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính Nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự
chấp hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền lực Nhà nước, nhằm
tổ chức thực hiện pháp luật đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức trên các lĩnh vực kinh tế,
văn hóa – xã hội và hành chính – chính trị, Hoạt động này được thực thi trên cơ sở pháp
luật, đảm bảo các quyền và lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Bởi vậy, trong quá
trình thực hiện quản lý hành chính Nhà nước khó có thể tránh khỏi sự xung đột hay tranh
chấp về lợi ích, quan điểm áp dụng pháp luật giữa chủ thể quản lý hành chính Nhà nước
và đối tượng quản lý hành chính Nhà nước.
Những xung đột, tranh chấp này chủ yếu xuất phát từ việc chủ thể quản lý hành
chính nhà nước đơn phương áp đặt ý chí của mình gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Khi những xung đột, tranh chấp

1

Tài liệu học tập Luật Tố Tụng Hành Chính – Thạc Sĩ Diệp Thành Nguyên – Trường Đại Học Cần Thơ – năm
2012.

GVHD: Châu Hoàng Thân

4

SVTH: Nguyễn Văn Mân


này bị đẩy lên cao, các bên phải đưa ra tòa án có thẩm quyền để giải quyết thì sẽ phát
sinh vụ án hành chính.
Tóm lại, vụ án hành chính là vụ án phát sinh tại Tòa hành chính có thẩm quyền do
cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức khởi kiện ra trước Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình2.
Đặc điểm vụ án hành chính:

Đối tượng khởi kiện là tính hợp pháp trong các quyết định hành chính hay hành vi
hành chính;
Người bị kiện trong vụ án hành chính luôn là cơ quan nhà nước hoặc người có
thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Người khởi kiện luôn cá nhân, tổ chức bị tác động
bởi quyết định hành chính hay hành vi hành chính;
Riêng đối với khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử Đại biểu Quốc hội, danh sách
cử tri bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân và khiếu kiện giải quyết khiếu nại về việc xử lý
vụ việc cạnh tranh thì phải qua thủ tục khiếu nại trước khi khởi kiện (thủ tục tiền tố tụng)3.
1.2. Khái niệm thi hành án hành chính
1.2.1. Về khái niệm thi hành án
Theo từ điển tiếng việt “thi hành” có nghĩa là “làm cho hiện thực điều đã được
chính thức quyết định”4. Như vậy, có thể định nghĩa thi hành án là việc đưa ra các bản
án, quyết định có hiệu lực của Tòa án ra thi hành. Thi hành án là quá trình diễn ra sau
quá trình xét xử của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ
sở để tiến hành các hoạt động thi hành án. Vì vậy, có thể nói không có kết quả của hoạt
động xét xử thì cũng không có hoạt động thi hành án.
Hiện nay, có nhiều ý kiến cho rằng thi hành án là một giai đoạn tố tụng độc lập, là
giai tố tụng tiếp theo giai đoạn xét xử. “Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa
trên công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi
ích của đương sự”5 hay thi hành án “thực chất là hoạt động tố tụng của Tòa án, của các
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo đảm cho bản án và quyết định của Tòa án
được thi hành một cách chính xác, kịp thời”6. Đồng thời có nhiều quan điểm cho rằng thi
hành án là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng và quan điểm xem thi hành án là
hoạt động hành chính tư pháp.
2

Tài liệu học tập Luật Tố Tụng Hành Chính – Thạc Sĩ Diệp Thành Nguyên – Trường Đại Học Cần Thơ – năm
2012.
3
Xem khoản 2,3 Điều 103 Luật Tố tụng hành chính năm 2010.

4
Trung tâm Từ điển học (1994), Từ điển tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr 903.
5
Nguyễn Công Bình (1998), “Mấy vấn đề về Thi hành án dân sự trong việc soạn thảo Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp
chí Luật học, (05), tr 43-44.
6
Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
tr 282.

GVHD: Châu Hoàng Thân

5

SVTH: Nguyễn Văn Mân


uan điểm thứ nhất, thi hành án là giai đoạn cuối c ng của quá trình tố tụng.
Theo quan điềm này, thì thi hành án là giai đoạn nằm trong quá trình giải quyết vụ
án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn xét xử là giai đoạn chuẩn bị xét xử, còn
thi hành án là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn xét xử. Căn cứ để thi hành án là bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trong quá trình thi hành án, vai trò của
Tòa án có quan hệ mật thiết với thi hành án, thể hiện ở trách nhiệm của Tòa án trong việc
“giải thích những điểm chưa r , có sai sót hoặc sai lầm về số liệu” trong bản án, quyết
định khi cơ quan thi hành án yêu cầu, hoặc thẩm quyền của Tòa án trong việc hoãn thi
hành án theo thời gian luật định, hay “xem xét, kháng nghị để xét xử theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có vi phạm thủ tục tố tụng” khi cơ quan thi
hành án kiến nghị. Hậu quả pháp lý của việc xem xét này có thể làm thay đổi kết quả thi
hành án.
uan điểm thứ hai, thi hành án là hoạt động của hành chính tư pháp.
Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc biệt, nó khác với các hoạt động tố tụng.

Trong quá trình tố tụng, mục đích chủ yếu là nhằm tìm ra bản chất của sự thật và quá
trình này sẽ xem như chấm dứt khi Tòa án tuyên án và đưa ra bản án có hiệu lực pháp
luật; Còn thi hành án chỉ tuân theo những phán quyết của Tòa án đã được thể hiện trong
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực và thi hành theo một trình tự thủ tục cụ thể,
chứ không làm nhiệm vụ tìm ra sự thật như trong quá trình tố tụng.
Từ những quan điểm trên có thể đưa ra khái niệm thi hành án, nó là hoạt động
cuối c ng của giai đoạn tố tụng do các cơ quan thi hành án tiến hành theo đ ng trình tự,
thủ tục luật định, nhằm đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế.
1.2.2. Khái niệm thi hành án hành chính
Thi hành án là một trong những hoạt dộng tư pháp của nhà nước, nhằm đảm
bảo thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác theo quy định
pháp luật
“Thi hành bản án, quyết định của Tòa án đối với vụ án hành chính là một giai
đoạn tố tụng độc lập, nó kết th c và đánh giá kết quả Tòa án giải quyết tranh chấp mà
chủ yếu một bên là công dân với một bên là chính quyền trên cơ sở quyết định hành
chính, hành vi hành chính bị khởi kiện. ản án quyết định đó được đưa ra thi hành theo
quy định của pháp luật”7. Trong giai đoạn này, bản án, quyết định của Tòa án được đưa
ra thi hành, để đảm bảo tính hiệu lực của bản án, quyết định được thực hiện trong thực tế.
Vì vậy, nếu không có việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án thì quá trình tố tụng

7

Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr193194.

GVHD: Châu Hoàng Thân

6

SVTH: Nguyễn Văn Mân



không kết thúc, thi hành án còn có ý nghĩa pháp lý quan trọng nó thể hiện tính nghiêm
minh của pháp luật mà còn thể hiện được uy tính của Tòa án, của Nhà nước.
Theo người viết, dù tiếp cận ở góc độ nào cũng cần phải thấy và có thể định nghĩa
rằng: “Thi hành án hành chính là giai đoạn xuất hiện sau khi bản án, quyết định giải
quyết vụ án hành chính của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, là tổng thể các hoạt động
nhằm mục đích là làm cho bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện nghiêm chỉnh
trong thực tế”.
Thi hành án hành chính là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử của Tòa án về giải
quyết vụ án hành chính. Bản án, quyết định của Tòa án về vụ việc giải quyết vụ án hành
chính đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án. Việc thi
hành án hành chính không chỉ phụ thuộc vào bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa
án mà còn phụ thuộc vào nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Trong giai đoạn thi
hành án hành chính, Tòa án không ra một quyết định giải quyết nội dung vụ án mà chỉ
giải thích bản án, quyết định đã tuyên trước đó.
Thi hành án hành chính do liên quan đến trách nhiệm công vụ của các cơ quan
hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan này, nên không thể có tổ
chức cưỡng chế thi hành án hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Sau khi
có bản án, quyết định của Tòa án, căn cứ vào nội dung bản án, quyết định các đương sự
sẽ tự nguyện thi hành. Trong trường hợp các bên không tự nguyện thi hành án thì lúc này
cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành tổ chức thi hành án. Đối với, cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đã ban hành quyết định hành chính hoặc
thực hiện hành vi hành chính (người bị kiện) và một số cơ quan liên quan là người tổ
chức thực hiện hoặc là người phải thi hành các bản án, quyết định hành chính của Tòa án.
1.3. Sự khác biệt giữ thi hành án hành chính v i thi hành án h nh sự dân sự
Bất kì một bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực thì phải thi hành, đồng thời
khi phán quyết Tòa án nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để
tuyên án, do đó thi hành bản án, quyết định của Tòa án không chỉ đơn thuần là để đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, mà còn thể hiện sự uy tính, trách nhiệm của
Đảng và nhà nước đối với lời nói của mình khi thể hiện qua bản án, quyết định của Tòa

án. Đó là mục đích cốt lõi của việc thi hành án. Tuy nhiên, thi hành án hành chính còn có
đặc trưng riêng.
Một là, thi hành án hành chính vừa mang tính tự nguyện vừa mang tính cưỡng chế.
Đối với thi hành án hình sự có biện pháp chế tài là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc nhất được quy định trong Bộ luật Hình sự, khi một cá nhân xâm phạm đến quyền
là lợi ích hợp pháp của công dân thì pháp luật sẽ bảo vệ họ bằng bản án, quyết định
của Tòa án nhằm tước bỏ hoặc hạn chế, quyền và lợi ích, của người phạm tội, ngăn
GVHD: Châu Hoàng Thân

7

SVTH: Nguyễn Văn Mân


cản họ không cho họ tái phạm nữa góp phần giáo dục họ trở thành người có ích cho
gia đình và cho xã hội.
Đối với Thi hình án dân sự cũng mang tính cưỡng chế, nếu bên thua kiện không
tự nguyện thi hành án thì bên thắng kiện hoàn toàn có thể yêu cầu cơ quan thi hành án
cưỡng chế thi hành. Nhưng điểm khác biệt của Thi hình án dân sự là sự thỏa thuận giữa
các bên với nhau nếu không trái với quy định pháp luật thì sự thỏa thuận đó vẫn được
pháp luật thừa nhận. Ngược lại nếu thỏa thuận không thành thì cơ quan thi hành án dân
sự tiến hành cưỡng chế ngay.
Đối với thi hành án hành chính vừa mang tính cưỡng chế, vừa mang tính tự
nguyện. Luật Tố tụng hành chính quy định về thi hành án dân sự được áp dụng đối với thi
hành án hành chính là thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án hành
chính, các bên đương sự có thể quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó
không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án
theo thỏa thuận được công nhận.
Tính cưỡng chế của thi hành án hành chính không giống như cưỡng chế thi hành
án dân sự, hình sự, cưỡng chế ở đây không nhằm răn đe, tước đoạt quyền nhân thân của

đương sự như trong thi hành án hình sự hoặc quyền tài sản và quyền nhân thân như trong
thi hành án dân sự mà nhằm đảm bảo cho các quyết định, hành vi hành chính đúng pháp
luật lẽ ra phải được thực hiện từ trước, nhưng do có khiếu kiện hành chính mà phải tạm
hoãn, hoặc được tiếp tục thực thi; hoặc nhằm bác bỏ việc thực thi quyết định hành chính,
hành vi hành chính trái pháp luật. Qua đó nhằm đảm bảo cho quyền lực nhà nước được
thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Hai là, về đối tượng: Đối tượng của thi hành án hành chính có khác biệt so với thi
hành án dân sự, thi hành án hình sự, đối tượng của thi hành án hành chính là các quyết
định liên quan đến cơ quan hành chính nhà nước như quyết định hành chính, hành vi
hành chính, quyết định buộc thôi, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ
việc cạnh tranh, danh sách cử tri bầu cử Quốc hội, và Hội đồng nhân dân. Các bản án,
quyết định của Tòa án hành chính được thi hành gồm:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
b) Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án.
d) Quyết định theo thủ tục đặc biệt của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao quy định tại Điều 240 Luật Tố tụng hành chính.
đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

GVHD: Châu Hoàng Thân

8

SVTH: Nguyễn Văn Mân


Đối với thi hành án dân sự, đối tượng của thi hành án là các quyết định dân sự
mang tính chất tài sản và nhân thân. Thi hành án dân sự là hoạt động do cơ quan thi hành
án dân sự hành theo những thủ tục trình tự nhất định, nhằm đưa các bản án, quyết định

dân sự đã có hiệu lực thi hành của Tòa án ra để thi hành. Các bản án, quyết định của Tòa
án dân sự được thi hành như:
Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm8:
1. Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà
sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không
khởi kiện tại Toà án;
e) Quyết định của Trọng tài thương mại.
2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay,
mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc,
trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
 Đối với thi hành án hình sự; đối tượng của thi hành án là hình phạt và các biện
pháp tư pháp khác. Có các hình phạt chính sau:
 Cảnh cáo.
 Phạt tiền (mức tối thiểu 1 triệu đồng).
 Cải tạo không giam giữ.
 Trục xuất (chỉ áp dụng đối với người nước ngoài).
 Tù có thời hạn (ba tháng – hai mươi năm).
 Tù chung thân.
 Tử hình.
8


Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

GVHD: Châu Hoàng Thân

9

SVTH: Nguyễn Văn Mân


Các bản án, quyết định của Tòa án hình sự thi hành như:
1. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành9
a) Bản án hoặc phần bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị
theo trình tự phúc thẩm.
b) Bản án,của Tòa án cấp phúc thẩm.
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án.
2. Bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự.
3. Quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước
ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết định thi hành; quyết định chuyển giao
người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài.
4. Bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại
xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng.
Tóm lại: Đối tượng thi hành án dân sự, hình sự mặc dù khác nhau về trình tự, thủ tục,
đối tượng, nhưng đặc điểm chung là đều thi hành toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án.
Ngược lại trong thi hành án hành chính, chỉ có các quyết định về phần tài sản trong
bản án, quyết định của Tòa án mới được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành
án dân sự.
a là, về cơ quan thi hành án:
Thi hành án hành chính có thể được tổ chức thi hành bởi nhiều cơ quan khác nhau.

Việc cơ quan nào thi hành án là tùy thuộc vào nội dung của bản án, quyết định của Tòa
án giải quyết vụ án hành chính và quy định về tổ chức, hoạt động, chức năng, nhiệm vụ
của cơ quan hành chính. Hiện tại thi hành án hành chính liên quan đến phần tài sản,
quyền tài sản thì giao cho cơ quan thi hành án dân sự thi hành.
Thi hành án dân sự thì được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, thi
hành toàn bộ tất cả các bản án liên quan tới dân sự đều thi hành theo luật thi hành án dân sự.
Thi hành án hình sự, thi hành tất cả các bản án, liên quan đến các tội phạm và hình
phạt tù được quy định trong bộ Luật hình sự, đều thi hành theo luật thi hành án hình sự.
Về chủ thể.
Đối với thi hành án hành chính: Chủ thể tham gia trong quan hệ pháp luật hành
chính là phải là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan Nhà nước. Người bị kiện luôn là cơ quan hành chính nhà nước, trong trường hợp
Tòa án chấp nhận yêu cầu người khởi kiện thì chủ thể phải chịu trách nhiệm là nhà
9

Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010.

GVHD: Châu Hoàng Thân

10

SVTH: Nguyễn Văn Mân


nước nói chung, cụ thể là cơ quan ban hành quyết định hành chính hoặc thủ trưởng
của người trong cơ quan nhà nước có hành vi hành chính trái pháp luật, mặc dù người
đã thực hiện hành vi không còn đảm nhiệm chức vụ đó nữa thì nhà nước cũng phải
chịu trách nhiệm.
Đối với thi hành án dân sự: Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự là cá
nhân, cơ quan, tổ chức, đặc trưng thi hành án dân sự là sự tự do ý chí, tự do thỏa

thuận. Chủ thể thực hiện hành vi là chủ thể trực tiếp chịu trách nhiệm trừ một số chủ
thể đặc biệt10.
Đối với thi hành án hình sự: Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hình sự là cá
nhân, cơ quan, tổ chức, đặc trưng thi hành án hình sự là biện pháp phạt tù, tạm giam,
chủ thể thực hiện hành vi cũng chính là chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện hành vi
hành vi đó.
Vì vậy, bản án, quyết định hành của Tòa án hành chính cần xác định rõ trách nhiệm
của ai và ở mức độ nào, cụ thể là trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước đối với
người khởi kiện như thế nào, trách nhiệm bồi hoàn của người trực tiếp thực hiện hành vi
như thế nào, để đảm bảo thi hành án.
Hậu quả của việc thi hành án:
Đối với thi hành án dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức được bảo vệ sau khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành. Bên vi phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của bên kia phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp
luật hoặc theo sự thỏa thuận của các đương sự.
Đối với thi hành án hình sự, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan.,
tổ chức bị xâm hại sẽ được pháp luật bảo vệ sau khi bản án quyết định, của Tòa án có
hiệu lực pháp luật, cá nhân nào trực tiếp gây ra hậu quả nghiêm trọng xâm phậm đến
sức khỏe, danh dự, tính mạng của người khác, thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi mình gây ra và chấp hành hình phạt tù theo quy định của luật Thi hành
án hình sự.
Đối với thi hành án hành chính, quyết định hành chính, hành vi hành chính trái
pháp luật được hủy bỏ hoặc được tiếp tục thực hiện nếu quyết định đó phù hợp với
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cơ quan hành chính Nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho cá
nhân, cơ quan, tổ chức nếu thiệt hại gây ra từ quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước.
10

Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không phải chịu trách nhiệm dân sự về một số hành vi;

hoặc chủ thể phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là chủ sở hữu chứ không phải người sử
dụng.

GVHD: Châu Hoàng Thân

11

SVTH: Nguyễn Văn Mân


1.4. Ý nghĩ thi hành án hành chính
Thi hành án hành chính là giai đoạn quyết định trong việc hiện thực hóa kết quả
thu được từ quá trình giải quyết vụ án hành chính trước đó. Các bên đương sự, các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải trải qua một quá trình phức tạp
nghiêm ngặt không phải chỉ để đạt được bản án, quyết định phù hợp với quy định của
pháp luật và ở góc độ nào đó mang tính hợp tình hợp lý mà mục đích cuối cùng là
những phán xét của Tòa án đối với những yêu cầu của nguyên đơn có được đáp ứng
và thực hiện trên thực tế hay không. Tuy không tham gia vào quá trình tạo ra kết quả
nhưng thi hành án hành chính là giai đoạn làm cho kết quả đó hiện lên một cách cụ thể
và rõ ràng nhất.
Quá trình giải quyết vụ án hành chính được quy định chặt chẽ với những thủ tục tố
tụng nghiêm ngặt nhằm đảm bảo cho kết quả giải quyết vụ án hành chính được quy định
chặt chẽ với những thủ tục tố tụng nghiêm ngặt nhằm đảm bảo cho kết quả giải quyết vụ
án được chính xác nhất. Bản án quyết định của Tòa án khi được thực thi nghiêm chỉnh sẽ
góp phần đảm bảo giá trị của các giai đoạn giải quyết vụ án hành chính trước đó, thể hiện
bản chất nghiêm minh khách quan của pháp luật và của hoạt động áp dụng pháp luật.
Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế
nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân và nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường
hiệu quả của bộ máy nhà nước. Thông qua thi hành án, các tổ chức, cá nhân có hành vi vi

phạm pháp luật phải chấm dứt các hành vi đó và giúp cho việc phát hiện những khiếm
khuyết của các quy định pháp luật trên cơ sở đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định
của pháp luật.
Qua thi hành án có thể kiểm tra lại quá trình xét xử trước đó để rút kinh nghiệm,
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử. Thi hành án có tác dụng quan trọng
trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật cho người dân, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, tạo niềm tin
của nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật.
1.5. Lƣợc sử quy định về thi hành án hành chính
1.5.1. Gi i đoạn trƣ c khi r đ i Pháp lệnh Th tục giải quyết vụ án hành chính
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công (1945), Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa được ra đời, hệ thống tư pháp được thiết lập trên toàn quốc. Chính quyền cách
mạng đã quan tâm đến công tác giải quyết các khiếu nại tố cáo của nhân dân, trong đó có
các khiếu kiện hành chính. Điều này thể hiện trong tinh thần của các bản Hiến pháp đầu
tiên của nước ta là Hiến pháp năm 1946, và Điều 29 của Hiến pháp 1959 đã quy định:
“Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ
GVHD: Châu Hoàng Thân

12

SVTH: Nguyễn Văn Mân


quan Nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước.
Những việc khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt
hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường”.
Tháng 11/1945, Ủy ban thanh tra đặc biệt đã được thành lập với hai chức năng cơ
bản: thứ nhất là giám sát việc thi hành pháp luật và chính sách của Nhà nước ở các cấp
hành chính; thứ hai là giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân11. Song về vấn đề thi
hành án nói chung và thi hành án hành chính nói riêng vẫn chưa được dựa trên văn bản

hoàn chỉnh.
1.5.2. Gi i đoạn Pháp lệnh Th tục giải quyết các vụ án hành chính
Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, nhu cầu của thực tiễn đòi hỏi phải
thiết lập hệ thống cơ quan tài chính hành chính độc lập để giải quyết các tranh chấp hành
chính bằng con đường tư pháp. Đáp ứng nhu cầu đó, các chuyên gia pháp lý đã tập trung
nghiên cứu và tiến hành khảo sát thực tế các mô hình tài phán hành chính trên thế giới để
đè ra mô hình phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam. Sau quá trình đó, Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 8 của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII (23/01/1995) đã quyết
định thành lập Tòa hành chính bên cạnh các Tòa chuyên trách khác. Như vậy, một thiết
chế tài phán mới – thiết chế bảo vệ hữu hiệu quyền hợp pháp của công dân trong mối
quan hệ giữa Nhà nước và công dân đã chính thức được thành lập.
Sau khi Tòa hành chính – với tư cách là một Tòa chuyên trách của Tòa án nhân
dân được thành lập, ngày 21/5/1996 Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa IX thông qua Pháp
lệnh giải quyết các vụ an hành chính, có hiệu lực thi hành 01/07/1996. Sự ra đời này, đặt
cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án hành
chính. Để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với quy định của pháp luật Khiếu nại và tố
cáo; đồng thời để giải quyết các vướng mắc trong quá trình thi hành Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính. Ngày 25/12/1998 Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa X đã
thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ an hành chính; ngày 05/4/ 2006, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XI đã thông qua
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sug một số của Pháp lệnh năm 1996 nhằm để phù hợp hơn với sự
phát triển của đất nước và đồng bộ với các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 thì thi hành án
hành chính đã được pháp điển hóa, thay vì thi hành án không có quy định cụ thể về cơ
quan quản lý thì nay Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý công tác thi hành án hành
chính trong phạm vi cả nước12. Tuy nhiên thi hành án hành chính đã quy định thành luật

11
12


Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 64 ngày 23/11/1945.
Khỏan 1, Điều 74, Pháp lệnh giải quyết thi hành án hành chính 1996.

GVHD: Châu Hoàng Thân

13

SVTH: Nguyễn Văn Mân


nhưng nó chỉ tồn tại trong một Điều khoản nhất định (Điều 74, pháp lệnh tủ tục giải
quyết thi hành án hành chính 1996).
1.5.3. Gi i đoạn Luật Tố tụng hành chính năm 2 1 đến n y
Trong pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 chưa quy định
thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính mà mới chỉ có quy
định mang tính nguyên tắc “ ản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật về
vụ án hành chính phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức và mọi người tôn trọng. Cá
nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Tòa án
về vụ án hành chính phải nghiêm chỉnh chấp hành. Cơ quan nhà nước được giao nhiệm
vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính phải nghiêm chỉnh thi
hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó”13.
Do thiếu vắng những quy định cụ thể về cơ chế đảm bảo thi hành bản án, quyết
định của Tòa án về vụ án hành chính trên thực tế, việc thi hành các bản án, quyết định
của Tòa án chưa được đảm bảo, nhiều bản án, quyết định không được thi hành hoặc thi
hành không đúng, ảnh hưởng đến lợi ích của người được thi hành, cũng như không đảm
bảo hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án trong thực tế.
Cũng chính vì tồn tại chỉ trong một điều khoản nhất định, nên những quy định cơ
bản của thi hành án như: Đối tượng thi hành án, trình tự thủ tục thi hành án, cơ quan trực
tiếp quản lý và thi hành vẫn chưa nêu ra cụ thể. Chính những hạn chế, bất cập đó đã đặt
ra nhu cầu hoàn thiện pháp luật tố tụng giải quyết các khiếu kiện hành chính. Bên cạnh

đó, hội nhập quốc tế đang ngày càng diễn ra sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội cũng đòi hỏi sự tương thích, phù hợp của pháp luật Việt Nam nói chung,
pháp luật về tố tụng hành chính nói riêng.
Ngày 24/10/2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông
qua Luật Tố tụng hành chính, để thay thế và lấp đầy những hạn chế mà Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính 1996 đã thiếu sót. Đây chính là sự thể chế hóa đường lối
được xác định trong Nghị quyết số 49 – NQ/TW của Bộ Chính trị: “Xây dựng cơ chế bảo
đảm cho mọi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan
hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Trong Luật Tố tụng hành chính hiện hành cũng chứa một nguyên tắc giống với
Hiến pháp và Pháp lệnh năm 1996 cụ thể Điều 21 “ ản án, quyết định của Tòa án về vụ
án hành chính đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được cá nhân, cơ
quan, tổ chức tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết
định của Tòa án phải nghiêm chỉnh chấp hành. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, Tòa án, cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ có liên quan đến việc thi hành bản
13

Điều 9 của Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính năm 1996.

GVHD: Châu Hoàng Thân

14

SVTH: Nguyễn Văn Mân


án, quyết định của Tòa án phải nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó”.
Nhưng khác với quy định mang tính chung chung của Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính, cụ thể từ Điều 241 đến Điều 248, nhưng Luật Tố tụng hành

chính năm 2010 đã điều chỉnh cụ thể các vấn đề cơ bản về thi hành án hành chính như:
Thủ tục thi hành án, trách nhiệm thực hiện yêu cầu thi hành án, quản lý Nhà nước về thi
hành án, xử lý vi phạm trong thi hành án, kiểm sát việc thi hành án hành chính. Quan
trọng nhất là trình tự thủ tục thi hành án hành chính, đây là cơ sở pháp lý có ý nghĩa quan
trọng để bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực thi trên thực tế
một cách có hiệu quả nhất. Với những quy định này, bản án, quyết định của Tòa về vụ án
hành chính đã có cả một cơ chế phối hợp và đồng bộ để đảm bảo cho việc thi hành.
Công tác thi hành án được thống nhất quản lý bởi Chính phủ, có sự phối hợp với
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Trong đó, Cơ quan thi hành án
dân sự, Cơ quan quản lý thi hành án dân sự có trách nhiệm đôn đốc và phối hợp với nhau
để thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việt kiểm sát sẽ kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của tất cả các chủ thể trong quá trình đó. Như vậy, công tác thi hành án hành chính sẽ
được đảm bảo thực hiện hiệu quả, góp phần bảo vệ quyền lợi của công dân và củng cố
hoạt động xét xử của Tòa án.

GVHD: Châu Hoàng Thân

15

SVTH: Nguyễn Văn Mân


CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH
Ngày 24/11/2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Tố tụng hành chính, có
hiệu lực kể từ ngày 01/07/2011. Theo đó, các quy định về thi hành án hành chính được
quy định cụ thể trong điều 8 điều (từ Điều 241 đến Điều 248) của Chương XVI “Thủ tục
thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính”. Đây là cơ pháp lý quan
trọng bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tạo điều kiện cho việc khởi
kiện của cá nhân, tổ chức ra trước cơ quan Tòa án và bảo đảm thi hành các phán quyết

của Tòa án hành chính.
2.1. Những bản án quyết định c

Tò án đƣợc thi hành

Cụ thể, bản án, quyết định của Tòa án được thi hành gồm:
 ản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục ph c thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
 ản án, quyết định của Tòa án cấp ph c thẩm.


uyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án.



uyết định theo thủ tục đặc biệt của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối

cao quy định tại Điều 240 Luật Tố tụng hành chính.


uyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Tại khoản 1, Điều 241 quy định: “ ản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục ph c thẩm đã
có hiệu lực pháp luật”.
Trong thủ tục xét xử sơ thẩm hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai
hội thẩm nhân dân trong trường hợp đặc biệt, Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai
thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân14. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì từ khi
Tòa án tuyên án, thời hạn kháng cáo cho bản án cấp sơ thẩm là 15 ngày15. Như vậy, sau
thời gian đó, nếu không có kháng cáo, kháng nghị thì bản án, quyết định của Tòa án

chính thức có hiệu lực và bắt buột phải thi hành. Đặc biệt, khi giải quyết vụ án hành
chính liên quan đến danh sách cử tri thì với bản án, quyết định về đình chỉ vụ án giải
quyết khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân có hiệu lực thi hành ngay. Đương sự không có quyền kháng
cáo, Viện kiểm sát không có quyền kháng nghị 16.
14

Khoản 1, Điều 128 của Luật Tố tụng hành chính 2010
Khoản 1, tại Điều 176 của Luật Tố tụng hành chính 2010
16
Khoản 1, Điều 172 của Luật Tố tụng hành chính 2010
15

GVHD: Châu Hoàng Thân

16

SVTH: Nguyễn Văn Mân


 ản án, quyết định của Tòa án cấp ph c thẩm.
Xét xử phúc thẩm “là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo kháng
nghị”17. Tại khoản 6 Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính đã quy định bản án phúc
thẩm có hiệu lực từ ngày tuyên án, với thủ tục xét xử của cấp phúc thẩm thì thời gian
kháng cáo, kháng nghị cho bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được quy định như
sau:
Thứ nhất, với kháng cáo đương sự hoặc người đại diện của đương sự thì thời hạn
luật định là 18. “thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể
từ ngày Tòa án tuyên án; trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng

cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết tại trụ sở của Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi họ cư trú hoặc nơi có trụ sở, trong trường hợp đương sự là cơ quan, tổ
chức; Thời hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của
Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết
định, trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn
cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì”.
Thứ hai, thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát được quy định như sau:
Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát
cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án;
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ,
đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định 19.


uyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án.

Thủ tục giám đốc thẩm là “thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong giải quyết vụ án ”20.
Khác với thủ tục xét xử cấp phúc thẩm là khi có kháng cáo hay kháng nghị mà bản
án hay quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật mới thụ lý giải quyết, thủ tục
giám đốc thẩm chỉ được tiến hành khi thỏa mãn 3 yếu tố 21.
Thứ nhất, bản án hay quyết định của Tòa án cấp dưới đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án
17

Điều 173 của Luật Tố tụng hành chính 2010.
Điều 176 của Luật Tố tụng hành chính 2010.
19
Điều 183 của Luật Tố tụng hành chính 2010.

20
Điều 209 của Luật Tố tụng hành chính 2010.
21
Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hành chính Việt Nam, tr 319-320, NXB Tư Pháp, Hà Nội
năm 2006
18

GVHD: Châu Hoàng Thân

17

SVTH: Nguyễn Văn Mân


Hội đồng xét xử giám đốc thẩm cũng có sự khác biệt, theo quy định tại Điều 218
của Luật tố tụng hành chính năm 2010 Hội đồng xét xử phúc thẩm bao gồm:
“1. Hội đồng giám đốc thẩm Toà án cấp tỉnh là Ủy ban Thẩm phán Toà án cấp
tỉnh; khi tiến hành giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có
ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; Chánh án Tòa án cấp tỉnh làm Chủ tọa
phiên tòa giám đốc thẩm.
2. Hội đồng giám đốc thẩm của Toà hành chính Toà án nhân dân tối cao gồm ba
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; khi tiến hành giám đốc thẩm bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật thì phải có đủ ba Thẩm phán tham gia; Chánh toà Tòa hành chính
Tòa án nhân dân tối cao phân công một Thẩm phán làm Chủ tọa phiên tòa giám đốc
thẩm.
3. Hội đồng giám đốc thẩm Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao; khi tiến hành giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia; Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao làm Chủ tọa phiên tòa giám đốc thẩm”.
Quyết định của giám đốc thẩm cũng sẽ có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định 22.

Trong thời hạn 30 ngày, từ ngày ra quyết định phải gửi bản quyết định tới cá nhân, tổ
chức cơ quan có liên quan.23
Khi nhận được quyết định này thì những cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan
chịu trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định giám đốc thẩm trên thực tế.


uyết định của thủ tục tái thẩm.

Thủ tục tái thẩm khi “ kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, đương sự không biết
được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó”24.
Thủ tục giám đốc thẩm khi tiến hành cũng phải thỏa 3 yếu tố:
Thứ nhất, bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, phải có kháng nghị.
Thứ ba, chứa đựng các yếu tố sau: “ hát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án
mà Tòa án, đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án; có cơ sở
chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đ ng sự
thật hoặc có giả mạo chứng cứ; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, iểm sát viên cố ý làm
sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; ản án, quyết định của Tòa án

22

Điều 230 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
Điều 231 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
24
Điều 232 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
23

GVHD: Châu Hoàng Thân


18

SVTH: Nguyễn Văn Mân


hoặc quyết định của cơ quan nhà nước mà Tòa án c n cứ vào đó để giải quyết vụ án đã
bị hủy b ”25.
Trong luật hiện hành không quy định rõ hiệu lực của quyết định tái thẩm nhưng
có thể hiểu giống như giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm có hiệu lực, kể từ ngày ra
quyết định vì tại Điều 238 đã quy định “ Các quy định khác về thủ tục tái thẩm được thực
hiện như các quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong Luật này”. Với thủ tục tái thẩm thì
quyết định khi ra có các nội dung về các vấn đề sau: “ hông chấp nhận kháng nghị và
giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; Hủy bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do luật định; Hủy bản án, quyết định
của Tòa án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải quyết vụ án”26.


uyết định theo thủ tục đặc biệt của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

Khi pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 quy định Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất nên không một
thiết chế nào có thẩm quyền xem xét lại quyết định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao.
Để khắc phục những khuyết điểm trên, Luật tố tụng hành chính đã dành chương
XV gồm 2 điều: Điều 239 và Điều 240 quy định về thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết
định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đây là quy định đặc biệt, được quy
định đầu tiên trong pháp luật tố tụng hành chính. Với thủ tục rất chặt chẽ, sẽ tạo điều kiện
khắc phục sai sót của bản án hành chính của cơ quan xét xử cao nhất mà trước đây pháp
luật chưa trao cơ hội xem xét lại, thủ tục này được tiến hành khi nó được yêu cầu, kiến
nghị hay đề nghị của các chủ thể sau:

Thứ nhất, theo yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Thứ hai, theo kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội.
Thứ ba, theo kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thứ tư, theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Sau khi tiến hành xem xét Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân tối cao sẽ tùy vào
từng trường hợp mà ra những quyết định khác nhau. Và quyết định đó phải được ít nhất
¾ tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân tối cao biểu quyết tán
thành27.
Các quyết định theo thủ tục đặc biệt của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao có thể có nội dung chấp thuận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy
một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật và buộc cơ quan nhà nước
25

Điều 233 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
Điều 237 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
27
Khoản 4, Điều 240 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
26

GVHD: Châu Hoàng Thân

19

SVTH: Nguyễn Văn Mân


hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy
định của pháp luật (hoặc tuyên bố một số hoặc toàn bộ các hành vi hành chính là trái
pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước
chấm dứt hành vi trái pháp luật), xác định trách nhiệm bồi thường trong một số trường

hợp. Các quyết định này phát sinh trách nhiệm phải thi hành án theo thủ tục pháp luật
quy định.


uyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời áp dụng trong trường hợp nhằm “
để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình
trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể kh c phục được hoặc bảo đảm thi hành án”28.
Theo Điều 62 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 có quy định các biện pháp
khẩn cấp tạm thời, bao gồm:
Thứ nhất, tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính, quyết định k luật
buộc thôi việc, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
Trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật
và việc thi hành quyết định đó sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng khó khắc phục29.
Thứ hai, tạm dừng việc thực hiện hành vi hành chính.
Được áp dụng nếu có căn cứ cho rằng hành vi hành chính đó là trái pháp luật
và việc tiếp tục thực hiện hành vi hành chính sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng khó
khắc phục30.
Thứ ba, cấm hoặc buộc thực hiện những hành vi nhất định.
Trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho rằng đương sự thực hiện hoặc
không thực hiện một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hoặc
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang được Tòa án
giải quyết. Tòa án sẽ xem xét thay đổi hay hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo
yêu cầu của đương sự31.
Tóm lại, các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng vào bất kỳ giai
đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án hành chính. Tuy nhiên về bản chất, chúng không
phải là mục đích hướng tới của các bên đương sự mà chỉ đơn thuần là nhằm hạn chế
những thiệt hại xảy ra cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đảm bảo cho việc giải quyết cụ
án được chính xác, khách quan hoặc để đảm bảo cho thi hành án. Chúng có thể bị thay

đổi, hủy bỏ tùy theo tình hình thực tế có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Vì vây, việc
28

Khoản 1, Điều 60 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
Điều 63 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
30
Điều 64 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
31
Điều 68 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
29

GVHD: Châu Hoàng Thân

20

SVTH: Nguyễn Văn Mân


thi hành các biện pháp khẩn cấp tạm thời không làm phát sinh trách nhiệm thi hành án
hành chính theo đúng nghĩa của thi hành án.
2.2. Trách nhiệm thi hành án hành chính
Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thì người phải thi hành án có trách
nhiệm thi hành án trong thời hạn quy định của pháp luật. Nếu bản án có hiệu luật mà
người phải thi hành án vẫn không thi hành án thì người được thi hành án có quyền gửi
đơn yêu cầu cơ quan thi hành án đôn đốc người phải thi hành án phải thi hành bản án,
quyết định của Tòa án. Điều 245 Luật Tố tụng hành chính quy định như sau.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan thi hành án
dân sự về việc đôn đốc thi hành bản án, quyết định của Tòa án, người phải thi hành án có
trách nhiệm thông báo bằng văn bản kết quả thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự.
Hết thời hạn quy định nhưng người phải thi hành án không thi hành án, không

thông báo kết quả thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản
cho cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án biết để xem xét, chỉ đạo việc thi
hành án và xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật, đồng thời gửi cho cơ quan thi
hành án dân sự hoặc cơ quan quản lý thi hành án dân sự cấp trên trực tiếp để theo dõi,
giúp cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án chỉ đạo việc thi hành án.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản thông báo của cơ quan thi
hành án, cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án phải xem xét, chỉ đạo việc
thi hành án theo quy định của pháp luật và thông báo cho cơ quan thi hành án biết.
Việc thông báo kết quả thi hành án hành chính cho cơ quan thi hành án dân sự
không phải chỉ áp dụng đối với các bản án, quyết định của Tòa án có nội dung về phần tài
sản được cơ quan thi hành án dân sự thi hành mà là tất cả vụ án hành chính do Tòa án
cùng cấp xét xử, bao gồm các vụ án hành chính không có nội dung, quyết định về tài sản
và kể cả các vụ án hành chính mà người được thi hành án không có đơn yêu cầu, đơn đề
nghị đốn đốc thi hành các quyết định về phần tài sản. Thời hạn thông báo kết quả cho cơ
quan thi hành án dân sự là sau khi thi hành án xong trong trường hợp không có đơn đề
nghị đốn đốc thi hành hoặc là 30 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan thi
hành án dân sự về việc đôn đốc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Tóm lại, trách nhiệm thi hành án trước hết thuộc về người phải thi hành án, người
phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án có trách nhiệm thi hành án theo yêu cầu của
người được thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án kết quả thi
hành án, tiếp theo là cấp trên trực tiếp của người có trách nhiệm chỉ đạo việc thi hành án
hoặc xử lý kỷ luật.
2.3. Yêu cầu thi hành bản án quyết định c
yêu cầu thi hành bản án quyết định c Tò án
GVHD: Châu Hoàng Thân

21

Tò án trách nhiệm thực hiện


SVTH: Nguyễn Văn Mân


2.3.1. Yêu cầu thi hành bản án quyết định c

Tò án

Người được thi hành án có quyền yêu cầu người phải thi hành bản án, quyết định
của Tòa án trong những trường hợp sau:
Trường hợp người phải thi hành án không thi hành án thì người được thi hành án
có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành ngay bản án,quyết định của Tòa án, về
việc buộc cơ quan lập danh sách cử tri sửa đổi, bổ sung, danh sách cử tri; quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời32.
Trường hợp hết 30 ngày, kể từ ngày nhận được bản án,quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án hoặc hết thời hạn thi hành theo bản án, quyết định của Tòa án
mà người phải thi hành án không thi hành án thì người được thi hành án có quyền yêu
cầu bằng văn bản đối với người phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án phải thi
hành quyết định hủy toàn bộ hoặc một phần quyết định hành chính, quyết định giải
quyết khiếu nại về việc quyết định xử lý, vụ việc cạnh tranh; quyết định hủy quyết
định kỷ luật buộc thôi việc; quyết định của Tòa án tuyên bố hành vi hành chính đã
thực hiện là trái pháp luật; quyết định của Tòa án tuyên bố hành vi không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ là trái pháp luật 33.
Trường hợp người phải thi hành án không thi hành bản án, quyết định của Tòa án
về, hủy toàn bộ hoặc một phần quyết định hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại về
việc quyết định xử lý, vụ việc cạnh tranh; quyết định hủy quyết định kỷ luật buộc thôi
việc; quyết định của Tòa án tuyên bố hành vi hành chính đã thực hiện là trái pháp luật;
quyết định của Tòa án tuyên bố hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ là trái pháp
luật; thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có yêu cầu văn bản người được thi hành án có
quyền gửi đơn đề nghị cơ quan thi hành án dân sự nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm đôn đốc
việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

Khi nhận được đơn đề nghị đôn đốc của người được thi hành án, cơ quan thi hành
án dân sự đôn đốc người phải thi hành án thi hành án và thông báo bằng văn bản với cơ
quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án để chỉ đạo việc thi hành án và Viện
kiểm sát cùng cấp để thực hiện việc kiểm sát thi hành án.
Khi nhận được đơn đề nghị đôn đốc của người được thi hành án, thì cơ quan thi
hành án dân sự có trách nhiệm mở sổ theo dõi,quản lý việc thi hành án của người
được thi hành án. Người được thi hành án có trách nhiệm cung cấp chơ cơ quan thi
hành án dân sự bản sao bản án, quyết định của Tòa án và các tài liệu khác có liên quan
để chứng minh đã có đơn đề nghị hợp lệ nhưng người phải thi hành án cố tình không
thi hành án.
32
33

Điểm e và g Khoản 1 Điều 243 Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
Điểm b,c,d và đ Khoản 1 Điều 243 Luật Tố tụng hành chính 2010.

GVHD: Châu Hoàng Thân

22

SVTH: Nguyễn Văn Mân


Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị đôn đốc
của người được thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản đôn đốc
người phải thi hành án thực hiện việc thi hành án theo đúng nội dung của bản án,
quyết định của Tòa án.
2.3.2. Trách nhiệm thực hiện yêu cầu thi hành án
Theo quy định tại Khoản 1, 2 và 3 Điều 246 của Luật tố tụng hành chính năm
2010 thì cơ quan quản lý chung về thi hành án hành chính bao gồm: Chính phủ phối

hợp cùng với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp,
cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, cụ
thể như sau:
 Chính phủ
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính trong
phạm vi cả nước;phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trong công tác quản lý nhà nước về thi hành án hành chính; định kỳ hàng năm báo cáo
Quốc hội về công tác thi hành án hành chính34.
 ộ tư pháp
Bộ tư pháp chịu trách nhiệm trước chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi
hành án hành chính và có nhiệm vụ quyền hạn sau đây:35
1. Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật về thi hành án hành chính;
2. Bảo đảm biên chế, cơ sở vật chất, phương tiện cho công tác quản lý nhà nước về
thi hành án hành chính;
3. Hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý thi hành án hành chính, phổ
biến, giáo dục pháp luật về thi hành án hành chính;
4. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về quản lý thi hành án hành chính;
5. Báo cáo chính phủ về công tác thi hành án hành chính;
6. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thống kê, theo dõi, tổng kết công tác thi
hành án hành chính
Và trong Nghị định 22/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 13 tháng 3
năm 2010 quy định về chức năng và nhiệm vụ của Bộ tư pháp đã đề cập nhiệm vụ
của Bộ tư pháp về phần thi hành án hành chính tại điểm c, d, đ, e khoản 13 của Điều
2 như sau:
1. Hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý thi hành án hành chính;
34
35

Khoản 1, Điều 246 của Luật Tố tụng hành chính 2010.

Khoản 2, Điều 246 của Luật Tố tụng hành chính 2010.

GVHD: Châu Hoàng Thân

23

SVTH: Nguyễn Văn Mân


2. Quyết định kế hoạch phân bố kinh phí, bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự; bảo đảm biên chế, cơ sở vật chất, phương tiện cho
công tác quản lý nhà nước về thi hành án hành chính theo quy định pháp luật;
3. Ban hành và thực hiện chế độ thống kê về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính;
4. Báo cáo về công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính theo quy định
của pháp luật;
Bên cạnh đó, để cụ thể hóa quy định của pháp luật về thi hành án hành chính
ngày 25 tháng 5 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 17/2012/CTTTg về triển khai công tác thi hành án hành chính cũng đã quy định về trách nhiệm
của Bộ Tư pháp:
“1. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế công chức, bố trí, tăng cường cơ
sở vật chất cho các cơ quan thi hành án dân sự bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả
công tác thi hành án hành chính;
2. Ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật, các văn bản hành chính để chỉ đạo, hướng dẫn và tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc về trình tự, thủ tục và những đề khác có liên quan trong việc triển khai công tác thi
hành án hành chính;
3. Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính rà
soát, nghiên cứu phân bổ đủ biên chế hợp lý, củng cố cơ sở vật chất, trang thiết bị,
phương tiện làm việc cho các cơ quan thi hành án dân sự để đảm bảo đáp ứng yêu
cầu quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính va đôn đốc thi hành án
hành chính;

4. Thực hiện tốt việc kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác
thi hành án hành chính;
5. Xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc kế hoạch thống kê, theo dõi, tổng kết
thi hành án hành chính để báo cáo Chính phủ.”
Cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự thuộc ộ Tư pháp
Hiện nay, cơ quan quản lý thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước là: Cơ quan
quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp; Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ
Quốc phòng36. Đứng đầu là Tổng Cục thi hành án dân sự.
Về cơ quan thi hành án dân sự bao gồm: Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh); Cơ
quan thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là

36

Khoản 1, Điều 13 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

GVHD: Châu Hoàng Thân

24

SVTH: Nguyễn Văn Mân


cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện); Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương
(sau đây gọi chung là cơ quan thi hành án cấp quân khu)37.
Có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành
án hành chính, thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Luật này và theo quy định của
Chính phủ38.
Trong thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp chịu trách
nhiệm cơ quan thi hành án dân sự đôn đốc người phải thi hành án thi hành án 39, Cơ quan

Thi hành án dân sự thụ lý, đôn đốc thi hành án đối với bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật sau:40
1. Bản án, quyết định hủy toàn bộ hoặc một phần quyết định hành chính, quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
2. Bản án, quyết định hủy quyết định kỷ luật buôc thôi việc; bản án, quyết định
tuyên bố hành vi hành chính đã thực hiện là trái pháp luật;
3. Bản án, quyết định tuyên bố hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ là trái
pháp luật.
Đồng thời, cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự thuộc
Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến
phần tài sản41.
2.4. Ch thể th m gi thi hành án hành chính
Luật Tố tụng hành chính năm 2010 quy định thi hành án hành chính có liên quan
về phần tài sản trong bản án, quyết định của Tòa án giải quyết vụ án hành chính được thi
hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Cơ quan Thi hành án dân sự được tổ chức thi hành án hành chính, gồm cơ quan
Thi hành án dân sự cấp tỉnh (Cục Thi hành án dân sự), cơ quan Thi hành án dân sự cấp
huyện (Chi cục thi hành án dân sự). Tổng cục thi hành án thuộc Bộ Tư Pháp, giúp Bộ
trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về thi hành án dân sự, hành chính chỉ đạo
hướng dẫn, tổ chức theo theo thẩm quyền.
Tổng cục thi hành án dân sự có Cục quản lý thi hành án dân sự, Cục quản lý thi
hành án hành chính, Cục quản lý thi hành án trại giam, Cục quản lý thi hành án hình sự.
Tổng cục thi hành án có Tổng cục trưởng, các phó Tổng cục trưởng

37

Khoản 2, Điều 13 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
Khoản 3, Điều 246 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
39
Khoản 3, Điều 244 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.

40
Công văn số 1943/TCTH DS-NV2 về V/v hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án hành chính.
41
Điểm h, Khoản 1, Điều 243 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010.
38

GVHD: Châu Hoàng Thân

25

SVTH: Nguyễn Văn Mân


×