Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống tòa án ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA LUẬT
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 38 (2012 – 2015)

ĐỀ TÀI:

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN TỔ CHỨC HỆ
THỐNG TÒA ÁN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn:
ThS. HUỲNH THỊ SINH HIỀN
Bộ môn: Luật Hành chính

Sinh viên thực hiện:
ONG THỊ NGỌC TÂM
MSSV: S1200078
Lớp: Luật Hành chính - K38

Cần Thơ, tháng 11 năm 2014


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…/.
Cần Thơ, ngày 26 tháng 11năm 2014

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền


SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…………/.
Cần Thơ, ngày 26 tháng 11năm 2014

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

Trang

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài ........................................................................................... 1
3. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................................... 1
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................................. 2
5. Kết cấu đề tài .................................................................................................................. 2

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG TÒA ÁN ............. 3
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG TÒA ÁN ......................................................... 3
1.1.1. Khái niệm về Tòa án............................................................................................ 3
1.1.2. Vị trí và nhiệm vụ của Tòa án ............................................................................ 3

1.1.2.1. Vị trí Tòa án ................................................................................................... 3
1.1.2.2. Nhiệm vụ của Tòa án...................................................................................... 5
1.2. NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC HỆ THỐNG TÒA ÁN ................................................. 5
1.2.1. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án ở một số nƣớc trên thế giới................... 5
1.2.2. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án ở Việt Nam qua các bản Hiến pháp..... 8
1.2.2.1. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo Hiến pháp năm 1946 ................... 8
1.2.2.2. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo Hiến pháp năm 1959 và Hiến
pháp năm 1980 .......................................................................................................... 10
1.2.2.3. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo Hiến pháp năm 1992 ................ 11

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN TỔ
CHỨC HỆ THỐNG TÒA ÁN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ....................... 15
2.1. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC HỆ THỐNG TÒA ÁN Ở NƢỚC TA HIỆN
NAY ................................................................................................................................... 15
2.1.1. Tổ chức hệ thống Tòa án hiện nay ảnh hƣởng đến tính độc lập của hoạt
động xét xử ................................................................................................................... 15
2.1.2. Thẩm quyền Tòa án các cấp chồng chéo lẫn nhau ......................................... 17
2.1.3. Sự lãng phí về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của Tòa án ................. 19
GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
2.1.4. Tổ chức hệ thống Tòa án hiện nay tạo ra sự không bình đẳng giữa các
Thẩm phán ................................................................................................................... 19
2.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN TỔ CHỨC HỆ THỐNG TÒA ÁN........ 20
2.2.1. Nhận xét về tổ chức hệ thống Tòa án trong dự thảo Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân sửa đổi .......................................................................................................... 20
2.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ........................ 24

2.2.2.1. Kiến nghị về cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án .............................................. 24
2.2.2.2. Kiến nghị về thẩm quyền thành lập, giải thể Tòa án nhân dân sơ thẩm khu
vực; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân cấp
cao ............................................................................................................................. 28
2.2.2.3. Kiến nghị về thẩm quyền quản lý Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực; Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân cấp cao........... 31

KẾT LUẬN.................................................................................................... 32

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong một thời gian dài, hệ thống Tòa án nước ta được tổ chức theo nguyên tắc đơn
vị hành chính lãnh thổ gồm: Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân địa phương.
Trong suốt 12 năm thực hiện Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, vị thế của Tòa án chưa
xứng tầm với địa vị pháp lý một trong ba nhánh quyền lực Nhà nước. Thực tiễn cho thấy,
tổ chức hệ thống Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ đã có những điểm chưa phù hợp
với tình hình nước ta trong giai đoạn mới, đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Tòa án bị
tác động, chi phối bởi các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, ảnh hưởng đến nguyên
tắc độc lập trong hoạt động xét xử; gây ra sự lãng phí về nguồn lực và vật lực tạo nên hệ
thống Tòa án cồng kềnh không khoa học, dàn trãi, nhất là đối với Tòa án nhân dân địa
phương.
Nhân dịp Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002 được sửa đổi, tác giả chọn đề tài
“Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay” làm luận văn tốt

nghiệp, với mục đích nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu với mong muốn hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án phù
hợp thực tiễn, tinh gọn, khoa học, không gây lãng phí về nguồn lực và vật lực, và nhất là
đảm bảo được tính độc lập của Tòa án khi thực hiện quyền tư pháp. Khắc phục những
khó khắn, vướng mắc hiện tại trong hoạt động của Tòa án, góp phần thực hiện tốt nhiệm
vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn thời gian cho phép, tác giả tập trung nghiên cứu nguyên tắc tổ chức
hệ thống Tòa án qua các thời kỳ phát triển của đất nước thông qua quy định của các bản
Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013, các quy định của pháp
luật về tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân ở nước ta. Mặc dù, Tòa án quân sự được tổ
chức nằm trong hệ thống Tòa án nhân dân, nhưng trong phạm vi đề tài tác giả không
nghiên cứu về Tòa án quân sự.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

1

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài tác giả kết hợp nhiều phương pháp như: phương
pháp thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích luật viết… sắp xếp, chọn lọc các nguồn tài
liệu liên quan đến đề tài từ sách, báo, tạp chí để nêu lên những hạn chế trong việc tổ chức
hệ thống Tòa án hiện tại, từ đó kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống Tòa án ở nước ta hiện
nay.

5. Kết cấu đề tài
Ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung đề tài
gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát chung về hệ thống Tòa án
Chương 2: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án ở
nước ta hiện nay

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

2

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG TÒA ÁN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG TÒA ÁN
1.1.1. Khái niệm về Tòa án
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
cùng với hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan
kiểm sát, Chủ tịch nước đã hình thành nên bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Tòa án nhân dân là cơ quan thực thi quyền tư pháp đã được hiến định, khi xét
xử Tòa án không nhân danh chính mình, hay một một ngành nào cụ thể mà Tòa án nhân
danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này đã được hiến định tại khoản 1
Điều 102 Hiến pháp 2013 “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Ở Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư

pháp. Trong đó quyền lập pháp sẽ trao về Quốc hội, quyền hành pháp sẽ do Chính phủ
thực hiện và quyền tư pháp sẽ do Tòa án nhân dân đảm nhiệm.
Tòa án nước ta tổ chức theo nguyên tắc hành chính lãnh thổ, được sắp xếp theo một
trật tự nhất định từ trung ương đến địa phương, hình thành hệ thống riêng biệt, độc lập để
thực hiện chức năng xét xử.
Từ những quy định trong Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, có thể khái
niệm chung về Tòa án như sau:
Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tòa án áp
dụng pháp luật để xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh
tế, hành chính và giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật, thuộc thẩm quyền của
Tòa án.
Trong phạm vi chức năng thực hiện quyền tư pháp, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Vị trí và nhiệm vụ của Tòa án
1.1.2.1. Vị trí của Tòa án
Tòa án có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước, ngày 28 tháng 11 năm 2013
Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp 2013, là cơ sở hiến định khẳng định vị trí
của Tòa án trong bộ máy nhà nước. Hiến pháp nước ta khẳng định Quốc hội ban hành

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

3

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
pháp luật – thực hiện quyền lập pháp1, Chính phủ tổ chức thực hiện pháp luật – thực hiện
quyền hành pháp2 và Tòa án bảo vệ pháp luật – thực hiện quyền tư pháp theo quy định tại

khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013 "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp"
Hoạt động xét xử của Tòa án là hoàn toàn độc lập về thẩm quyền, không phụ thuộc
bất kỳ hệ thống cơ quan quyền lực nào khác trong bộ máy nhà nước và cấp trên của Tòa
án là pháp luật, là công lý. Không một cơ quan hay một cá nhân nào có thể thay thế Tòa
án thực hiện chức năng xét xử, đều này đã được quy định tại khoản 2 Điều 103, Hiến
pháp 2013 đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án được độc lập, nghiêm cấm các cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án cụ thể như sau: “Thẩm
phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức,
cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Từ đó, mới thấy được vị trí
cơ quan Tòa án trong bộ máy nhà nước vô cùng quan trọng, không một nhà nước nào có
thể tồn tại mà không có sự hình thành của hệ thống cơ quan Tòa án.
Trong hệ thống cơ quan tư pháp, Tòa án có vị trí trung tâm mà trọng tâm là hoạt
động xét xử, đúng với tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ
Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” Nghị quyết khẳng định: “Tổ
chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về
cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Toà án có vị trí
trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Hệ thống cơ quan tư pháp ở nước ta nếu xét
theo quan niệm phổ biến hiện nay thì những cơ quan, thuộc hệ thống cơ quan tư pháp
gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án đó là một hệ thống
nhất của quá trình tố tụng dẫn đến xét xử và phán quyết của Tòa án. Trong đó, cơ quan
Tòa án là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp đưa ra những phán xét cuối cùng
mang tính quyền lực nhà nước, là nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ
thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, do những quy
định của các bản Hiến pháp từ năm 1959, năm 1980 đến Hiến pháp năm 1992 không hiến
định về cơ quan tư pháp nên quan điểm trên được chấp nhận. Nhưng khi, Hiến pháp năm
2013 ra đời đã khẳng định Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp3 thì chúng ta cần
nhìn nhận lại khái niệm cơ quan tư pháp.

1


Hiến pháp năm 2013, Điều 69.

2

Hiến pháp năm 2013, Điều 94.

3

Hiến pháp 2013, Điều 102, khoản 1.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

4

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
1.1.2.2. Nhiệm vụ của Tòa án
Việc xác định rõ ràng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án tạo cơ sở pháp lý để
Tòa án thực hiện tốt vai trò là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp trong nhà nước
pháp quyền. Theo quy định tại Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 quy định chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan Tòa án nhân dân như sau: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong phạm vi chức năng của mình Tòa án
có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân như tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân. Tòa án là cơ quan tư pháp, cơ quan bảo vệ pháp luật, khi
Tòa án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ mới thấy được vai trò to lớn của của cơ quan

Tòa án đối với dân, với nước.
Tòa án là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, có thể thấy thông qua
hoạt động xét xử nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chẳng những có tác
dụng trừng trị mà còn giáo dục cải tạo họ trở thành người lương thiện, sống có ích cho xã
hội, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa chung trong quần chúng nhân dân. Tòa án thực sự
là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, Tòa án có thể thay mặt nhân dân bảo vệ
sự công bằng, quyền và lợi ích chính đáng, dù chủ thể xâm phạm là cơ quan nhà nước, tổ
chức, hay cá nhân bất kỳ ở vị trí nào vẫn phải tuân thủ và thực hiện theo quy định của pháp
luật. Tòa án thật sự phải là chỗ dựa của người dân trong việc tìm kiếm công lý. Đó là cơ sở
để tạo niềm tin về một Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Đúng với với tên gọi
Tòa án nhân dân.
Tòa án nhân dân có nhiệm vụ quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, tạo môi trường ổn
định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hội nhập quốc tế, xây dựng vào bảo vệ
tổ quốc.
1.2. NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC HỆ THỐNG TÒA ÁN
1.2.1. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án ở một số nƣớc trên thế giới
Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án được hiểu là những tư tưởng chủ đạo được đặt
ra, nhằm sắp xếp có trật tự các cơ quan Tòa án của từng quốc gia thành một tổng thể
thống nhất, đảm bảo thực hiện tốt nhất chức năng xét xử.
Về nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án, nhiều quốc gia tổ chức theo đơn vị hành
chính lãnh thổ, thường là các nước theo hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa; các quốc gia
tổ chức theo cấp xét xử gồm các nước theo hệ thống pháp luật án lệ; các quốc gia còn lại

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

5

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm



Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
kết hợp cả hai nguyên tắc cấp xét xử và đơn vị hành chính lãnh thổ 4. Tuy nhiên, tác giả
cần trình bày thêm sự sắp xếp các nguyên tắc trên không phải là tuyệt đối, chẳng hạn như
các nước theo hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa vẫn tổ chức hệ thống Tòa án theo một
nguyên tắc khác, chứ không nhất định tổ chức hệ thống Tòa án theo đơn vị hành chính
lãnh thổ, điển hình ở Việt Nam có thời kỳ chúng ta đã tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp
xét xử. Việc lựa chọn nguyên tắc nào còn tùy thuộc vào truyền thống tổ chức tư pháp,
vào hệ thống pháp luật và quan niệm về nguyên tắc hai cấp xét xử của mỗi quốc gia, mà
lựa chọn cho quốc gia mình một nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án phù hợp. Tổ chức
theo nguyên tắc nào cũng có yếu tố hợp lý về khoa học, cũng như thực tiễn, chẳng hạn
như đối với quốc gia này nguyên tắc tổ chức theo cấp xét xử là ưu việt nhưng với quốc
gia khác là không phù hợp. Dù xác định là có ba nguyên tắc chung nhất, tuy nhiên trong
quá trình áp dụng các nguyên tắc mỗi quốc gia có thể giữ nguyên hoặc thay đổi ít nhiều
bản chất ban đầu của các nguyên tắc.
Vì vậy, khi nghiên cứu về nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án của một quốc gia ta
chấp nhận ở mặt tương đối của mỗi nguyên tắc. Ngoài yếu tố khách quan, còn tùy thuộc
rất lớn vào quan điểm chủ quan của nhà cầm quyền lãnh đạo đất nước, và theo thời gian,
cũng như thực tiễn quá trình phát triển của xã hội trong một quốc gia mà nguyên tắc tổ
chức hệ thống Tòa án sẽ thay đổi qua các thời kỳ nhất định. Ở đây, khi nêu lên đặc điểm
của từng nguyên tắc tác giả sẽ nêu những ưu điểm của từng nguyên tắc tổ chức hệ thống
Tòa án. Về mặt hạn chế, không thể đánh giá chung chung, tùy thuộc vào nguyên nhân
khách quan và chủ quan của từng quốc gia mà đánh giá, chẳng hạn qua thời gian nguyên
tắc được lựa chọn để tổ chức hệ thống Tòa án trước đó đã không còn phù hợp, bộc lộ
những hạn chế so với tình hình đất nước thì cần có sự thay thế một nguyên tắc khác hợp
lý hơn.
 Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo đơn vị hành lãnh thổ
Hệ thống Tòa án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ từ trung ương đến
địa phương gồm Toà án tối cao và Toà án địa phương. Tuỳ theo đặc điểm lãnh thổ và dân
cư mà các Toà án địa phương lại được tổ chức thành hai cấp (Toà án cấp tỉnh, Toà án cấp

huyện) hoặc ba cấp (Toà án cấp tỉnh, Toà án cấp liên huyện và Toà án cấp huyện). Theo
cách tổ chức này, một Toà án có thể thực hiện các chức năng xét xử khác nhau; Toà án
tối cao, Toà án cấp tỉnh vừa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và xem xét giám đốc thẩm và tái
thẩm; còn Toà án cấp huyện chỉ xét xử sơ thẩm. Tòa án được tổ chức theo đơn vị hành
4

Trần Văn Độ, Nguyên tắc xét xử hai cấp và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ chức Tòa án các cấp,
[truy cập ngày 25/8/2014].

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

6

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
chính lãnh thổ, nhằm đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước,
mối liên hệ gắn bó với các cơ quan pháp luật khác được thuận tiện, gắn với từng địa bàn
tạo điều kiện thuận tiện cho người dân khi cần sự bảo vệ quyền lợi của mình, vì tại mỗi
địa phương điều có cơ quan Tòa án. Đồng thời, đảm bảo sự quản lý của cơ quan quyền
lực thực hiện việc giám sát, kiểm tra từ trung ương đến địa phương đối với Tòa án các
cấp.
 Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử
Tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử gồm Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm
và các Toà sơ thẩm (Toà án vi cảnh, Toà án tiểu hình, Toà án đại hình). Các Toà án tổ
chức theo cấp này thực hiện chức năng được xác định: Toà án tối cao thực hiện chức
năng phá án, các Toà án phúc thẩm xét xử phúc thẩm, các Toà án sơ thẩm xét xử sơ thẩm
các vụ án. Cách tổ chức này đặc trưng cho hệ thống pháp luật án lệ.5 Điển hình cho việc
tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử là hệ thống Tòa án của Mỹ, mặc dù được tổ chức

khá phức tạp gồm có hệ thống Tòa án liên bang và hệ thống Tòa án các tiểu bang nhưng
về cơ bản được tổ chức theo cấp xét xử gồm: Tòa án tối cao (liên bang và tiểu bang), Tòa
án phúc thẩm (liên bang và tiểu bang) và Tòa án cấp sơ thẩm được đặt tại các địa phương
(liên bang và tiểu bang)6. Tổ chức hệ thống Tòa án theo nguyên tắc này vừa đảm bảo hai
cấp xét xử, vừa không phụ thuộc vào cấp địa giới hành chính, đảm bảo hệ thống Tòa án
được độc lập, khẳng định địa vị pháp lý của quyền lực tư pháp trong bộ máy nhà nước.
 Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử kết hợp với nguyên tắc hành
chính lãnh thổ
Nguyên tắc tổ chức hệ thống Toà án này, được tổ chức trên cơ sở nhận thức khoa
học về nguyên tắc hai cấp xét xử và coi cấp xét xử như là cách tổ chức tố tụng chứ không
máy móc coi đó là tổ chức hành chính pháp lý, có thể đặt Tòa án trùng với đơn vị hành
chính vẫn giữ được tính độc lập của Tòa án, đây được xem là nguyên tắc tổng hợp ưu
điểm của hai nguyên tắc trên, có thể căn cứ vào tình hình địa phương có thể tổ chức Tòa
án phụ thuộc hoặc không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, không tổ chức dài trải, vẫn
đảm bảo chế độ hai cấp xét xử được thực hiện. Điển hình cho nguyên tắc này là cơ cấu tổ
chức hệ thống Tòa án của Hàn Quốc gồm 3 cấp: Tòa án tối cao, Tòa cấp thứ hai là Tòa

Trần Văn Độ, Nguyên tắc xét xử hai cấp và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ chức Tòa án các
cấp, [truy cập ngày 25/8/2014].
5

6

Nguyễn Văn Tùng, Hệ thống Tòa án Mỹ, Tạp chí Thông tin Khoa học xét xử, số 5 – 2008, trang 47.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

7

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm



Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
cấp cao (Tòa sáng chế), Tòa cấp thứ ba các Tòa án quận (Tòa án hành chính, Tòa án gia
đình).7
1.2.2. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án ở Việt Nam qua các bản Hiến pháp
Việc xác định nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án có ảnh hưởng rất lớn trong việc
tổ chức và hoạt động của Tòa án, nhằm đề cao tính độc lập, khách quan của Tòa án trong
hoạt động xét xử, cũng như khẳng định vị trí Tòa án trong Bộ máy nhà nước. Từ đó, góp
phần xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đó là mục tiêu theo Nghị Quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” đề ra để đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Dựa vào các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1958, năm 1980, năm 1992 và đến Hiến
pháp năm 2013 có thể thấy nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án nước ta chủ yếu theo hai
nguyên tắc là nguyên tắc tổ chức theo cấp xét xử và nguyên tắc tổ chức theo đơn vị hành
chính lãnh thổ.
1.2.2.1. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo Hiến pháp năm 1946
Ngày 02 tháng 9 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thì đến ngày 13-9-1945, Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ra Sắc lệnh số 33C thiết lập các Toà án quân sự, đánh dấu sự ra
đời của cơ quan Toà án ở nước ta. Hiện nay, ngày 13-9 được cộng nhận là ngày truyền
thống của Tòa án nhân dân.
Theo Điều 2 sắc lệnh này, về thẩm quyền, các Toà án quân sự xử tất cả những người
nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, trừ trường hợp phạm nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân
luật.
Tuy nhiên, Toà án quân sự không thể đảm nhiệm được việc xét xử tất cả các vụ hình
sự và không có thẩm quyền xét xử các vụ án dân sự, và nhất là việc xét xử các vụ án hình
sự thường (các vụ án xâm phạm sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của công dân, xâm phạm

tài sản của công dân, trật tự an toàn xã hội…). Để khắc phục giải quyết tình hình trên,
đồng thời nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước nói chung và Toà
án nói riêng, ngày 24-1-1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
đã ra sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán.
 Theo sắc lệnh này, cơ cấu hệ thống Toà án tổ chức theo cấp xét xử lần đầu tiên
được hình thành ở nước ta gồm:
7

Chí Hiếu, Hệ thống Toà án Hàn Quốc, Tạp chí Thông tin Khoa hoc xét xử, số 5 – 2008, trang 69.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

8

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
 Toà án sơ cấp: được tổ chức ở mỗi quận, phủ, huyện, châu có một Toà án sơ cấp,
quản hạt là địa hạt quận;
 Toà án đệ nhị cấp: được tổ chức ở mỗi tỉnh và ở các thành phố Hà Nội, Hải
Phòng và Sài Gòn - Chợ Lớn có một Toà án đệ nhị cấp, quản hạt theo giới hạn của địa
hạt tỉnh hay thành phố;
 Toà thượng thẩm: được tổ chức ở mỗi kỳ có một Toà thượng thẩm. Toà thượng
thẩm Bắc Kỳ đặt ở Hà Nội; Toà thượng thẩm Trung Kỳ đặt ở Thuận Hoá - Huế; Toà
thượng thẩm Nam Kỳ đặt ở Sài Gòn.
Ngoài ra, theo quy định của Sắc lệnh 13 quy định Ban tư pháp xã nằm trong cơ cấu
tổ chức Tòa án, tuy nhiên không có chức năng xét xử mà có chức năng chính là hòa giải
tất cả các vụ việc dân sự và thương sự; phạt vi cảnh với mức quy định; thi hành mệnh
lệnh của các Thẩm phán cấp trên.8

Trong giai đoạn này, Nhà nước ta không có Tòa án nhân dân Tối cao. Tòa sơ cấp
xét xử sơ thẩm các vụ việc theo quy định; Tòa đệ nhị cấp vừa xét xử sơ thẩm và xét xử
phúc thẩm những phán quyết sơ thẩm bị kháng cáo; Tòa thượng thẩm xét xử phúc thẩm
những phán quyết sơ thẩm của Tòa án đệ nhị cấp bị kháng cáo. Cách quy định này đã tạo
nên một hệ thống xét xử theo hai cấp của Tòa án Việt Nam lúc bấy giờ.9
Những quy định về nguyên tắc tổ chức của hệ thống Tòa án theo sắc lệnh 13, đã
được nâng lên thành các chế định trong bản Hiến pháp 1946.
Ngày 09-11-1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua bản Hiến
pháp đầu tiên của Nhà nước ta. Tại Chương VI bản Hiến pháp này quy định về “Cơ quan
tư pháp”, theo đó hệ thống cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được
quy định bao gồm:
- Tòa án tối cao;
- Các Tòa án phúc thẩm;
- Các Tòa đệ nhị cấp và sơ cấp.10
Tuy nhiên, thực dân pháp trở lại xâm lược nước ta lần nữa, chiến tranh nổ ra, toàn
quốc kháng chiến, nên hệ thống Toà án chưa tổ chức được theo Hiến pháp 1946. Ngày
26/5/1948, Sắc lệnh số 185/SL của Chủ tịch Chính phủ ra đời, ấn định thẩm quyền của
Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp, thì hệ thống Tòa án Việt Nam trong giai đoạn này
hoạt động trên cơ sở phân định thẩm quyền khá rạch ròi.
8

Sắc lệnh số: 13/SL ngày 24 tháng 01 năm 1946 về việc tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phá,. Điều 3.

9

Nguyễn Đăng Dung, Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, 2004, trang 156.

10

Hiến pháp năm 1946, Điều 63.


GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

9

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
Như vậy, dựa vào những quy định về tổ chức hệ thống Tòa án theo Hiến pháp năm
1946, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24 tháng 01 năm 1946, Sắc lệnh số 185/SL ngày 26 tháng
5 năm 1948, có thể thấy hệ thống Tòa án được tổ chức theo nguyên tắc cấp xét xử, không
phụ thuộc vào đơn vi hành chính.
Theo Sắc lệnh số: 85/SL ngày 22-5-1950, về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố
tụng, hệ thống Tòa án được tổ chức theo nguyên tắc cấp xét xử kết hợp hành chính lãnh
thổ gồm:
- Tòa án tối cao;
- Các Tòa án phúc thẩm;
- Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Các Tòa án nhân dân quận, huyện;
- Ban tư pháp xã: vẫn có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, chung thẩm những vụ việc
đơn giản theo quy định.
Cải cách tư pháp đã mở rộng thẩm quyền cho Ban tư pháp xã về việc xử phạt vi cảnh,
nhằm mục đích giải quyết nhanh chóng những vụ việc ít nghiêm trọng, làm giảm bớt sự
phiền, hà tốn kém cho người dân.
Với tinh thần và quan điểm như trên cuộc cải cách đã tổ chức hệ thống Tòa án theo
nguyên tắc cấp xét xử kết hợp nguyên tắc đơn vị hành chính lãnh thổ, nhưng nặng về
nguyên tắc hành chính lãnh thổ vì nguyên tắc tổ chức này lúc bấy giờ được xem là gần
gủi với nhân dân, phục vụ nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra một trong nhiệm vụ hàng đầu
lúc bấy giờ là cũng cố và giữ vững chính quyền cách mạng.

Về chức năng quản lý Toà án địa phương về mặt tổ chức, trong điều kiện Toà án tối
cao chưa được thành lập và theo tinh thần của Hiến pháp năm 1946, Bộ Tư pháp trong
suốt 15 năm, từ 1945 đến 1959 là cơ quan quản lý các Toà án địa phương không chỉ về tổ
chức mà cả về mặt chuyên môn, nghiệp vụ.
1.2.2.2. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp
năm 1980
Hiến pháp năm 1959 được thông qua ngày 31-12-1959, Tòa án được quy định tại
chương VIII trong Hiến pháp không còn giữ lại nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo
cấp xét xử và không còn quy định Tòa án là cơ quan tư pháp duy nhất. Tại Điều 97 Hiến
pháp năm 1959 quy định “Toà án nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà”. Theo quy định tại Chương VIII của Hiến pháp năm 1959
thì có thể hiểu rằng các cơ quan tư pháp là “Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân”.
Hai hệ thống cơ quan tư pháp này không còn trực thuộc Hội đồng Chính phủ mà chịu
GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

10

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
trách nhiệm và báo cáo trước cơ quan quyền lực nhà nước đó là Quốc hội. Một sự tiến bộ
mới trong việc quy định về việc tổ chức và hoạt động Tòa án là sự ra đời đầu tiên của
Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 1960. Dựa vào quy định tại Điều 97 Hiến pháp 1959
và Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, hệ thống Toà án nước ta được tổ
chức hoàn toàn theo theo đơn vị hành chính lãnh thổ gồm:
- Toà án nhân dân tối cao;
- Các Tòa án nhân dân địa phương: Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương; Toà án nhân dân huyện, thành phố

thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương, Toà án nhân dân ở các khu vực tự
trị.11
Hiến pháp năm 1980 ra đời, quy định nguyên tắc tổ chức của hệ thống Tòa án vẫn
được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, Điều 128 Hiến pháp năm 1980 quy định
“Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự là
những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tình hình
đặc biệt hoặc trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội hoặc Hội
đồng Nhà nước có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt”.
Được cụ thể hóa tại Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1981, cơ cấu tổ chức hệ
thống Tòa án gồm:
-

Tòa án nhân dân tối cao;

-

Các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương;

-

Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

-

Tòa án đặt biệt.

1.2.2.3. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo Hiến pháp năm 1992
Kế thừa nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo nguyên tắc hành chính lãnh thổ
của Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 ra đời vẫn duy trì nguyên tắc tổ chức hệ
thống Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, các Toà

án nhân dân địa phương.12
Để cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức Toà án
nhân dân năm 1992 ra đời, tiếp theo đó được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1993 và năm 1995. Đến
ngày 02-04-2002 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân mới ra đời thay thế các Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân tối cao, Lịch sử phát triển Tòa án nhân dân giai đoạn 1959 – 1980,
[truy cập ngày 2/6/2014].
11

12

Hiến pháp năm 1992, Điều 127.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

11

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
Tòa án nhân dân 1992, sửa đổi năm 1993 và năm 1995. Mặc dù, Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân được sửa đổi, thay thế qua các năm song nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án
theo đơn vị hành chính lãnh thổ vẫn được đảm bảo duy trì.
Dựa vào Điều 127 Hiến pháp năm 1992 và Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
2002, cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân gồm :
- Toà án nhân dân tối cao;
- Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Các Toà án quân sự;

- Các Toà án khác do luật định.
- Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt.
Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ, được quy định
trong Hiến pháp năm 1992 vẫn được áp dụng để tổ chức hệ thống Tòa án của nước ta cho
đến thời điểm hiện tại. Vì vậy, căn cứ vào những quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân 2002, tác giả sẽ trình bày thêm cơ cấu tổ chức và chức năng chính của từng cấp Tòa
án cụ thể, để có cái nhìn khái quát về việc tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án
nước Cộng hòa xã hội Việt Nam theo pháp luật hiện hành.
 Cơ cấu tổ chức và chức năng của Tòa án nhân dân tối cao
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân tối cao bao gồm:
- Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
- Tòa án quân sự trung ương; Tòa hình sự; Tòa dân sự; Tòa kinh tế; Tòa lao động;
Tòa hành chính; các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại: TP. Hà Nội, TP. Đà
Nẵng, TP. Hồ Chí Minh. Trong trường hợp cần thiết Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết
định thành lập các Tòa chuyên trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao;
- Bộ máy giúp việc: Văn phòng; Ban thư ký; Ban thanh tra; Vụ tổ chức cán bộ;Vụ
hợp tác quốc tế; Viện khoa học xét xử; Vụ kế hoạch tài chính; Vụ thống kê tổng hợp; Tạp
chí tòa án; Trường cán bộ tòa án; Cơ quan thường trực phía nam.
Tòa án nhân dân tối cao có Chánh án, các Phó Chánh án, Thẩm phán, Thư ký Tòa
án.13
 Chức năng xét xử của Tòa án nhân dân tối cao: Giám đốc thẩm, tái thẩm những
vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của
pháp luật tố tụng; Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu

13

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Điều 18.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền


12

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh trực tiếp bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật tố tụng.14
- Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao còn có nhiệm vụ: hướng dẫn các Tòa án áp
dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án; Giám đốc việc
xét xử của các Toà án các cấp; giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt và các Toà án
khác, trừ trường hợp có quy định khác khi thành lập các Toà án đó.15
 Cơ cấu tổ chức và chức năng của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương
Theo quy định tại Điều 27 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, cơ cấu tổ chức của
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có: Chánh án, các Phó Chánh án,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án.
- Uỷ ban Thẩm phán: Tổng số thành viên Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không quá chín người;
- Toà hình sự, Toà dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính; trong
trường hợp cần thiết Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập các Tòa chuyên
trách khác theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Các Tòa chuyên trách của
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có Chánh Tòa, Phó Chánh Tòa,
Thẩm phán, Thư ký Tòa án.
- Bộ máy giúp việc.
Chức năng của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được quy
định tại Điều 28 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002:
- Sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp

luật của Toà án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Toà án cấp dưới bị kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng;
- Giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.
 Cơ cấu tổ chức và chức năng của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh
Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, thì Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có cơ cấu tổ chức khá đơn giản, không có
Hội đồng thẩm phán, Uỷ ban thẩm phán và các Tòa chuyên trách như Tòa án nhân dân
14

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 200, Điều 20.

15

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Điều 19.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

13

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mà chỉ có bộ máy giúp
việc. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có Chánh án, một hoặc
hai Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án.16
Về chức năng, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có
thẩm quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng. Tòa án nhân dân

câp huyện có quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự mà Bộ luật hình sự quy định
mức cao nhất của khung hình phạt là đến 15 năm; xét xử sơ thẩm những vụ án dân sự, lao
động, kinh doanh, thương mại, hôn nhân và gia đình và những vụ án khác theo luật quy
định, trừ những vụ việc mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác
cho cơ quan ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.
Mọi hoạt động của Toà án nhân dân cấp huyện do Chánh án Toà án nhân dân cấp
huyện lãnh đạo chung và chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Toà án
nhân dân cấp trên.17
Tuy nhiên, có một bước thay đổi lớn đối với việc quản lý thống nhất hệ thống Tòa
án nhân dân, được quy định tại Điều 17 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 về vai
trò quản lý tổ chức các Tòa án địa phương không thuộc thẩm quyền của Bộ tư pháp, mà
được giao cho Tòa án nhân dân tối cao có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân
địa phương và Bộ Quốc phòng. Đồng thời, bổ sung quy định Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có bộ máy giúp việc đảm hoàn thành nhiệm vụ, quyền
hạn của Tòa án cấp huyện.
1.2.2.4. Nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án theo Hiến pháp năm 2013
Tại kỳ hợp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp mới của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 2013, đã có sự thay đổi quy định nguyên
tắc tổ chức hệ thống Tòa án, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và cải cách tư pháp. Quy định
có tính nguyên tắc về tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử, đương nhiên không phụ
thuộc vào đơn vị hành chính. Thuật ngữ “Tòa án nhân dân địa phương ” theo quy định
tại Hiến pháp năm 1992 đã được thay thế bằng “Tòa án khác theo luật định”. Được quy
định tại khoản 2 Điều 102, Hiến pháp 2013 “Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối
cao và các Tòa án khác do luật định”. Hiến pháp không liệt kê cụ thể các Tòa án khác,
mà giao cho luật định. Điều này đảm bảo tính khái quát, ổn định lâu dài của Hiến pháp và
tính mền dẻo, linh hoạt của luật phù hợp với từng thời kỳ phát triển đất nước trong việc
lựa chọn nguyên tắc tổ chức hệ thống Tòa án của nước ta.

16


Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 200, Điều 32.

17

Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002, Điều 33.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

14

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN TỔ CHỨC HỆ
THỐNG TÒA ÁN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC HỆ THỐNG TÒA ÁN Ở NƢỚC TA HIỆN
NAY
2.1.1. Tổ chức hệ thống Tòa án hiện nay ảnh hƣởng đến tính độc lập của hoạt động
xét xử
Để Tòa án thực hiện tốt chức năng xét xử, trước hết Tòa án phải được độc lập, đây
được xem là nguyên tắc quan trọng nhất trong việc tổ chức và hoạt động của Tòa án. Sự
độc lập của Tòa án thể hiện Tòa án phải có quyền quyết định các vụ việc một cách vô tư,
không thiên vị, dựa trên bản chất của sự việc và theo luật pháp mà không chịu sự tác
động, can thiệp sai trái, một cách trực tiếp hay gián tiếp, từ bất kỳ chủ thể nào, với bất kỳ
lý do nào.
Hệ thống Tòa án nước ta đang được tổ chức theo cấp hành chính lãnh thổ từ trung
ương đến địa phương gồm: Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân địa phương

đã tạo nên một hệ thống ngành dọc từ trung ương đến địa phương, được tổ chức gần
giống như hệ thống cơ quan hành chính. Như vậy, hệ thống Tòa án đang chịu sự tác động
cả chiều dọc đó là cơ quan Tòa án cấp trên, lẫn chiều ngang là cơ quan quyền lực, cơ
quan hành chính địa phương. Thực tiễn những sự tác động ảnh hưởng đến việc bảo đảm
tính độc lập của Tòa án, ảnh hưởng đến nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Đó là hiện
tượng "thỉnh thị án”, can thiệp sai trái trong họat động xét xử. Chắc hẳn, dư luận vẫn
chưa quên vụ án "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đọat tài sản” do Tòa án nhân dân tỉnh Gia
Lai xét xử năm 2011 là ví dụ điển hình về hướng dẫn – "thỉnh thị án” trái pháp luật từ cơ
quan Tòa án cấp trên. Thậm chí, đã có những vụ tiêu cực "bị lộ”, phơi bày sự can thiệp
trái pháp luật của các cơ quan không có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn đến họat
động xét xử. Vụ án tham nhũng đất đai xảy ra tại thị xã Đồ Sơn, TP.Hải Phòng là dẫn
chứng điển hình về vấn nạn can thiệp, chỉ đạo án. Trong quá trình xét xử vụ án đó, Tòa
án đã phải chịu sự can thiệp của Thành ủy và Uỷ ban nhân dân TP.Hải Phòng để ra
những phán quyết trái pháp luật. Có thể thấy, những quy định của pháp luật hiện hành
liên quan đến tổ chức và hoạt động hệ thống Tòa án làm cho nguyên tắc tổ chức hệ thống
Tòa án theo đơn vị hành chính lãnh thổ, không đảm bảo tính độc lập trong hoạt động xét
xử.
Thứ nhất, không độc lập giữa Tòa án các cấp: Khi xét xử Tòa án chỉ tuân theo pháp
luật, độc lập khách quan và cấp trên của Tòa án là pháp luật. Tuy nhiên, thực tế các Tòa
án cấp dưới có xu hướng dựa dẫm, lệ thuộc vào Tòa án cấp trên, Tòa án cấp trên thì lại
GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

15

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
can thiệp quá sâu vào hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới. Như thông lệ và trở thành
quy định không thành văn, khi có những vụ án phức tạp hoặc liên quan đến những chủ

thể mang quyền lực trong bộ máy nhà nước. Khi giải quyết Tòa án cấp dưới thường có
công văn xin ý kiến chỉ đạo của Tòa án cấp trên, hoặc dưới hình thức báo án trực tiếp, có
thể thấy đó là một hình thức thỉnh thị án đang tồn tại mặc nhiên trong quá trình hoạt động
của Tòa án nước ta hiện nay.
Tác giả cần trình bày thêm, vấn đề thỉnh thị án của Tòa cấp dưới hay sự can thiệp,
chỉ đạo của Tòa án cấp trên làm cho hoạt động xét xử không được độc lập, xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, không chỉ thay đổi cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án không tổ chức
theo đơn vị hành chính thì có thể giải quyết được vấn đề này, mà cần thay đổi những quy
định liên quan tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án, và nhất là đào tạo đội ngũ
Thẩm phán có năng lực, thay đổi tư tưởng lãnh đạo của Tòa cấp trên và tư tưởng dựa
dẫm, ỷ lại của Tòa cấp dưới, có như vậy mới giải quyết được thực trạng nêu trên. Việc
thay đổi cơ cấu tổ chức hệ thống Tòa án không theo đơn vị hành chính lãnh thổ, chỉ góp
phần làm nền tảng đảm bảo sự độc lập của hoạt động xét xử. Đó là tạo mối quan hệ giữa
các cấp Tòa án đúng nghĩa tố tụng, chỉ có Tòa án có thẩm quyền cao hơn và Tòa án có
thẩm quyền thấp hơn về quy định thực hiện chức năng xét xử, chứ không tồn tại theo
kiểu Tòa án cấp trến - Tòa án cấp dưới theo quan hệ hành chính – giải quyết vấn đề gì
củng phải xin ý của cấp trên.
Thứ hai, không độc lập của Tòa án với các cơ quan khác: Tòa án địa phương hoạt
động với sự lãnh đạo của cấp ủy và sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Sự
giám sát của Hội đồng nhân dân không có tác động nhiều đến hoạt động xét xử của Tòa
án nên vẫn đảm bảo sự độc lập giữa Tòa án và cơ quan quyền lực địa phương. Tuy nhiên,
đối với cơ quan Đảng thì có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với cơ quan xét xử, cơ sở Đảng
được tổ chức trong cơ quan Tòa án, bản thân mỗi Thẩm phán đều là Đảng viên nên họ có
nghĩa vụ chấp hành điều lệ và sự phân công của Đảng và nhất là khi tiến hành thủ tục bổ
nhiệm Thẩm phán không thể bỏ qua thủ tục cho ý kiến của cấp ủy địa phương.
Vì vậy, địa phương nào cấp ủy quan tâm đúng với tinh thần chỉ đạo của Đảng và
đúng quy định của pháp luật thì nơi đó có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ
Thẩm phán có năng lực và phẩm chất đạo đức thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử. Có thể thấy
nguyên tắc lãnh đạo của Đảng không mâu thuẫn với nguyên tắc độc lập trong hoạt động
xét xử vì hoạt động của Đảng vẫn tuân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, pháp

luật cũng chính là thể chế hóa đường lối của Đảng, cho nên Tòa án xét xử đúng quy định
của pháp luật cũng chính là sự phục tùng sự chỉ đạo của Đảng. Xét trên tình thần này thì
cơ quan Tòa án vẫn độc lập với cơ quan Đảng. Tuy nhiên, ở một số địa phương cấp ủy
Đảng hoặc những Đảng viên can thiệp, chỉ đạo vào hoạt động xét xử của Tòa án vẫn đến
GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

16

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
hoạt động của Tòa án gặp nhiều khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng tính độc lập trong hoạt
động xét xử. Đều này thể hiện sự nhận thức không đúng đắng về vai trò lãnh đạo của
Đảng trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Cuối cùng, sự độc lập của Tòa án với cơ quan hành chính địa phương nếu xét về
mối quan hệ hành chính thông thường thì giữa Tòa án và Ủy ban nhân dân các cấp không
thấy có sự phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên, thực tế hai cơ quan này có mối quan hệ gắn bó
mật thiết với nhau, nhất là đối với Tòa án cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp huyện,
dường như trong nhận thức và thực tiễn hoạt động Tòa án nhân dân cấp huyện được xem
là cơ quan có vị trí tương đương với các cơ quan trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện,
ngay cả kinh phí hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện hàng năm vẫn nhận được sự
hổ trợ từ phía Ủy ban nhân dân cấp huyện. Vì vậy, sự lệ thuộc này không thể tránh khỏi
sự can thiệp của Ủy ban nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, thực tế cho thấy
một số vụ án liên quan đến những cán bộ lãnh đạo trong cơ quan hành chính cấp địa
phương được Tòa án xét xử với mức án nhẹ hơn mức quy định và thông thường những
cán bộ này được hưởng án treo, các quyết định sai phạm của Uỷ ban nhân dân cấp huyện
bị người dân khởi khởi kiện ra Tòa án, dường như rất hiếm hoi để Tòa án ra quyết định
mở phiên tòa xét xử bị đơn là Ủy ban nhân dân, mà được kết thúc bằng quyết định đình
chỉ vụ án. Tất cả đều được giải quyết bằng ý kiến nội bộ và cuối cùng là người dân rút

đơn khởi kiện. Để thay đổi thực trạng bị lệ thuộc của Tòa án nhân dân cấp huyện đối với
cơ quan hành chính cùng cấp như hiện nay, cần thiết lập Tòa án khu vực tách khỏi đơn vị
hành chính cấp huyện, có như vậy mới đảm bảo sự độc lập của Tòa án với cơ quan hành
chính địa phương.
2.1.2. Thẩm quyền Tòa án các cấp chồng chéo lẫn nhau
Hơn 10 năm, thực hiện quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2002, về việc
quy định thẩm quyền xét xử cho Tòa án các cấp, đã bộc lộ những hạn chế nhất định, dẫn
đến chồng chéo về thẩm quyền, thẩm quyền dàn trãi, làm cho các cấp Tòa án không thể
tập trung cho một nhiệm vụ chính. Thẩm quyền xét xử của mỗi cấp Tòa án hiện đang
được xác định vừa theo lãnh thổ gồm Tòa án địa phương gồm có các Tòa án nhân dân
cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện; vừa theo tính chất các vụ việc những vụ việc
phức tạp vượt qua giới hạn của Tòa án nhân dân cấp huyện thì được Tòa án nhân dân cấp
tỉnh xét xử sơ thẩm; và cuối cùng là thủ tục giải quyết giám đốc thẩm, tái thẩm thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao.
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Trong khi, các Tòa án
cấp trên đều có thẩm quyền xét xử hỗn hợp như Tòa án nhân dân cấp tỉnh, có đủ quyết
định hiệu lực của một bản án qua hai lần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và có chức năng giải

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

17

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
quyết cả thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm, hoặc Tòa án nhân dân tối cao vừa xét xử
phúc thẩm vừa giải quyết giám đốc thẩm, tái thẩm.
Các bản án, quyết định phúc thẩm hoặc quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa
án nhân dân cấp tỉnh vẫn có thể bị hủy bởi Tòa án nhân dân tối cao, làm hạn chế ý nghĩa

pháp lý của trình tự xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Chẳng những như vậy cả bản án,
quyết định của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao khi xét xử phúc thẩm, khi bị
kháng nghị vẫn có thể bị hủy theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bởi chính Tòa án nhân
dân tối cao, đều này đã làm ảnh hưởng đến vai trò, uy tín của Tòa án nhân dân tối cao với
tư cách là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống Tòa án của nước ta.
Trong hệ thống tổ chức của Tòa án nước ta, tồn tại quá nhiều cơ quan có thẩm
quyền giải quyết thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Cụ thể bao gồm 63 Tòa án nhân dân
cấp tỉnh, 5 Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao và Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao, thì mục tiêu thống nhất trong việc áp dụng pháp luật và xác định đường
lối xét xử chung của chế định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ bị ảnh hưởng trong phạm vi cả
nước. Ngoài ra, việc có nhiều cấp giám đốc thẩm cùng với quy định không hạn chế về
điều kiện kháng nghị và thủ tục không rõ ràng trong việc xem xét đơn đề nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm, đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, một mặt làm cho việc
giải quyết vụ việc kéo dài, mặc khác làm mất tính ổn định trong các phán quyết của Tòa
án và ở một chừng mực nào đó là vô hiệu hóa nguyên tắc Tòa án thực hiện chế độ hai cấp
xét xử.18
Tòa án nhân dân tối cao được xem là cấp xét xử cao nhất, nên tất cả những phán
quyết dù đã được xét xử phúc thẩm – cấp xét xử cuối cùng; hay đã giải quyết theo thủ tục
tái thẩm, giám đốc thẩm; có hiệu lực thi hành hay chưa có hiệu lực thì cuối cùng quyết
định, bản án của Tòa án cấp địa phương vẫn được tập trung để Tòa án tối cao phải phán
quyết lại, tình trạng này tồn tại rất nhiều năm làm cho lượng án tồn động lên Tòa tối cao
quá tải, gây gánh nặng rất lớn trong quá trình giải quyết công việc, ảnh hưởng đến kết
quả hoạt động cho Tòa án nhân dân tối cao.
Tóm lại, cần quy định thẩm quyền của Tòa án các cấp cụ thể, rõ ràng tập trung vào
những nhiệm vụ chính đã được phân định tránh tình trạng chồng chéo, dàn trãi thẩm
quyền như hiên nay. Nguyên nhân của thực trạng trên xuất phát từ các quy định của pháp
luật hiện hành về việc phân định thẩm quyền, cũng như cách thức tổ chức bộ phận của Tòa
án từng cấp còn chưa hợp lý, chưa tạo được cơ sở pháp lý vững chắc để các Tòa án các cấp
thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ được giao.
Trương Hòa Bình, Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, tương xứng

với chức năng nhiệm vụ “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp”, Tạp chí Tòa án số 7, 4-2014, trang 4.
18

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

18

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
2.1.3. Sự lãng phí về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động của Tòa án
Số lượng Tòa án nhân dân địa phương rất đồ sộ, riêng Tòa án nhân dân cấp huyện
tính từ năm 2002 đến ngày 30 tháng 6 năm 2013 đã tăng thêm 71 Tòa án, nâng số lượng
Tòa án nhân dân cấp huyện trên phạm vi cả nước lên mức 700 Tòa án.19 Về kinh phí cơ
sở vật chất phục vụ cho các trụ sở Tòa án là một con số không hề nhỏ. Hàng năm, Nhà
nước còn phải bỏ ra một nguồn kinh phí đầu tư để sửa chữa, xây mới và duy trì cơ sở vật
chất cho các trụ sở Tòa án, hiện tại trụ sở làm việc của Tòa án nhân dân một số huyện
trên phạm vi cả nước đang trong tình trạng xuống cấp, không đảm bảo cho hoạt động xét
xử .
Tòa án nhân dân cấp huyện vẫn đang có xu hướng tăng lên do nhu cầu thành lập
mới các đơn vị hành chính cấp huyện, vấn đề nguồn kinh phí tập trung đầu tư tạo ra
những điều kiện thuận lợi, cần thiết cho việc xét xử của Tòa án như: Trụ sở cơ quan,
phòng làm việc, phòng xử án, phương tiện di chuyển, các trang thiết bị phục vụ xét xử
khác. Thực tiễn cho thấy khi một huyện được chia tách thành hai huyện thì diện tích, số
dân số lượng án giải quyết hàng năm vẫn không thay đổi nhưng do được tách thêm một
huyện mới nên bất buộc phải thiết lập thêm một Tòa án nhân dân cấp huyện mới, trong
khi số lượng công việc vẫn như nhau, nhưng vẫn phải đầu tư thêm trụ sở mới, đồng thời
cung cấp thêm đội ngũ Thẩm phán và các chức danh khác trong cơ quan Tòa án, vì có

đơn vị hành chính cấp huyện thì đồng thời phải có trụ sở Tòa án nhân dân của huyện đó.
Đây là một sự đầu tư lãng phí, dàn trải về cơ sở vật chất, lẫn nguồn nhân lực một thực
trạng dễ dàng nhìn thấy được tại các Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay. Chưa tính đến
một số huyện vùng xâu, vùng xa lượng án giải quyết tương đối ít những vẫn phải đầu cơ
sở vật chất phục vụ cho hoạt động xét xử. Vì vậy, nên thay đổi quy định tổ chức Tòa án
nhân dân cấp huyện không theo đơn vị hành chính.
2.1.4. Tổ chức hệ thống Tòa án hiện nay tạo ra sự không bình đẳng giữa các Thẩm
phán
Quy định việc tổ chức Tòa án nhân dân địa phương theo đơn vị hành chính lãnh thổ,
Tòa án nhân dân cấp huyện được tổ chức ở mỗi đơn vị hành chính cấp huyện không tính
đến số lượng công việc được giải quyết, Thẩm phán vẫn được phân bổ đều như nhau, đã
và đang tạo ra một tâm lý không bình đẳng trong độ ngũ Thẩm phán hiện nay. Thực tế
cho thấy, lực lượng Thẩm phán ở các Tòa án nhân dân cấp huyện, giữa các Tòa án nằm
tại trung tâm đô thị, nơi mà số lượng án giải quyết nhiều, mức độ giải quyết vụ án của
Báo cáo số: 78/BC-TA ngày 19 tháng 12 năm 2013 của Tòa án nhân dân tối cao về Tổng kết thi hành
luật Tòa án nhân dân 2002, pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, pháp lệnh tổ chức
Tòa án quân sự, mục 1, phầnII, trang 4.
19

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

19

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay
Thẩm phán có thể tăng gấp hai lần so với quy định, gây áp lực rất lớn cho Thẩm phán vì
không có thời gian nghiên cứu kỹ từng vụ việc cụ thể, dễ dẫn đến những sai sót, ra quyết
định, bản án không chất lượng, đây cũng là tiêu chí để quyết định việc tái bổ nhiệm cho

Thẩm phán vào nhiệm kỳ sau. Ngược lại, một số huyện có số dân ít hơn, số lượng án ít,
Thẩm phán không có nhiều áp lực. Vẫn đến việc Thẩm phán “nơi thừa nơi thiếu” nhưng
chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ vẫn như nhau.
Ngoài ra, sự không bình đẳng này còn xuất phát từ việc quy định về cơ cấu tổ chức
và hoạt động của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Theo quy định hiện
hành thì trong cơ cấu tổ chức của các Toà án nhân dân cấp tỉnh đều có năm toà chuyên
trách gồm: Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động và Tòa hành chính. Tuy
nhiên, số lượng các vụ việc thuộc năm lĩnh vực này không đồng đều ngay trong một Toà
án nhân dân cấp tỉnh và không đồng đều giữa các Toà án nhân dân cấp tỉnh. Trên thực tế,
số lượng các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình mà Tòa án phải giải quyết là rất
lớn so với số lượng các vụ án lao động, hành chính, kinh doanh thương mại, có Tòa án
nhân dân cấp tỉnh trong năm không thụ lý vụ án lao động nào nhưng vẫn có Tòa lao
động, vẫn phải bố trí chức danh Chánh tòa, phó Chánh tòa, Thẩm phán cho mỗi Tòa
chuyên trách với số lượng biên chế tương đương giữa các Tòa chuyên trách khác. Thực tế
này vừa gây lãng phí nguồn nhân lực, nguồn ngân sách, tạo tâm lý không bình đẳng trong
nội bộ cơ quan, chúng ta thấy rất rõ nhưng nhưng nó vẫn tồn tại, chưa khắc phục được vì
đây là luật đinh.
2.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN TỔ CHỨC HỆ THỐNG TÒA ÁN
2.2.1. Nhận xét về tổ chức hệ thống Tòa án trong dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân sửa đổi
Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, đã thể chế hóa được các chủ
trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-5-2005 về chiến lược cải cách đến năm 2020, Kết luận số 79-KL/TW
ngày 28-7-2010 của Bộ chính trị về đề án tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát
và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12-32014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, cụ thể hóa
các các quy định của Hiến pháp 2013 và kế thừa các quy định còn phù hợp của Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân 2002 và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm
2002; đồng thời tham khảo, có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về tổ
chức và hoạt động của Tòa án, về chế định Thẩm phán. Chính vì vậy, dự thảo Luật đã xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư
pháp, Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp, bảo đảm

được tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, bảo đảm tính khả thi và không làm cản trở
GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

20

SVTH: Ong Thị Ngọc Tâm


×