Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

kiến nghị hoàn thiện chế định bổ nhiệm thẩm phán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 43 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA LUẬT
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 38 (2012 – 2015)

ĐỀ TÀI:

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH
BỔ NHIỆM THẨM PHÁN

Giảng viên hướng dẫn:
ThS. HUỲNH THỊ SINH HIỀN
Bộ môn: Luật Hành chính

Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN LỆ HUYÊN
MSSV: S1200025
Lớp: Luật Hành chính - K38

Cần Thơ, tháng 11 năm 2014


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…/.
Cần Thơ, ngày 26 tháng 11năm 2014

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền


SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


Kiến nghị hoàn thiện tổ chức hệ thống Tòa án ở nước ta hiện nay

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
…………/.
Cần Thơ, ngày 26 tháng 11năm 2014

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay với mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại”,1 bên cạnh
là vấn đề hoàn thiện cơ cấu tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp thì việc tăng cường
xây dựng đội ngũ Thẩm phán có năng lực và phẩm chất đầy đủ là vấn đề quan trọng.
Trong Tòa án nhân dân, Thẩm phán là người trực tiếp thực hành quyền xét xử, bảo vệ
pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật nghiêm minh,
công bằng. Hoạt động xét xử của Thẩm phán khi được giao nhiệm vụ được hiểu là quyền
của nhà nước, nhân danh Nhà nước xét xử kẻ phạm tội tại Tòa án và đại diện cho công lý
định tội bị cáo tại Tòa án. Quyền này tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Với những yêu cầu khắt khe đặt ra đối với nghề Thẩm phán, để trở thành
Thẩm phán phải đáp ứng được những điều kiện trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm
chất đạo đức, đồng thời phải qua một thủ tục tuyển chọn chặt chẽ do luật định. Tuy nhiên,

thực tế hiện nay việc tuyển chọn Thẩm phán vẫn còn mang tính hình thức, trình độ
nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận Thẩm phán còn yếu, thậm chí có một số
Thẩm phán còn sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, vẫn còn tình
trạng oan, sai trong xét xử. Bên cạnh đó là chế độ pháp lý về bổ nhiệm Thẩm phán quy
định trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân nhân dân, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân năm 2002 chưa thực sự phù hợp với vị trí và đặc thù công việc của Thẩm phán,
cụ thể là các quy định về tiêu chuẩn, nhiệm kỳ, cơ chế tuyển chọn và thẩm quyền bổ
nhiệm.
Do đó, với công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân sửa đổi phải phù hợp với yêu cầu này, đồng thời cụ thể hóa quy định của Hiến pháp
năm 2013 về Tòa án nhân dân, khắc phục những vướng mắc, bất cập của các quy định
pháp luật hiện hành bảo đảm cho Tòa án nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình nói chung và hoàn thiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán nói riêng. Từ những phân
tích trên, tác giả chọn đề tài “ kiến nghị hoàn thiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án
nhân dân ” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu những quy định có liên quan đến chế định
bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân và thực tiễn áp dụng các quy định này, trên cơ sở

1

Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, mục II,
tiểu mục 1.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

1

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên



KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
đó nêu ra những bất cập, tồn tại trong luật quy định chế định bổ nhiệm và đề ra một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu chỉ giới hạn nghiên cứu chế định bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân
dân không nghiên cứu Thẩm phán Tòa án quân sự, tập trung những vấn đề cơ bản nhất
thuộc về nội dung đề tài như khái niệm, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán và
trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán; những bất cập của pháp luật về bổ nhiệm Thẩm
phán. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định bổ nhiệm Thẩm
phán.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
chủ nghĩa Mác – Lênin, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, chứng
minh… để nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận. Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về Thẩm phán và bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân
Chương 2: Quy định của pháp luật về bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân
Chương 3: Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện chế định bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án
nhân dân
Mặc dù đã cố gắng nhưng do kinh nghiệm tìm hiểu thực tế về đề tài cũng như kiến
thức cơ bản còn hạn chế của bản thân nên chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báo của quý Thầy Cô,
các bạn sinh viên và những ai quan tâm về chế định bổ nhiệm Thẩm phán để đề tài
nghiên cứu được hoàn thiện hơn.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

2


SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM PHÁN VÀ BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN
Trong một đề tài, việc nghiên cứu cơ sở lý luận là vấn đề cần thiết nhằm giúp cho
người đọc nắm bắt được một cách khái quát những vấn đề cơ bản liên quan đến nội dung
nghiên cứu ở các chương tiếp theo. Nghiên cứu thực tiễn và kiến nghị về chế định bổ
nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân, vấn đề đầu tiên đề cặp đến chính là khái quát chung
về Thẩm phán để tìm hiểu về tầm quan trọng của Thẩm phán cũng như những quy định
cơ bản của pháp luật về chế định bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân.
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẨM PHÁN
1.1.1 Khái niệm Thẩm phán
Theo quy định của pháp luật hiện hành,Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất được
Hiến pháp giao cho quyền xét xử các vụ án, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong xã
hội và Tòa án sẽ thực hiện chức năng xét xử của mình thông qua Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân. Trong hoạt động xét xử Thẩm phán giữ vai trò không thể thay thế, không có
Thẩm phán thì sẽ không có hoạt động xét xử. Vì vậy, pháp luật quy định rất cụ thể về
chức danh Thẩm phán.
Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân
2002 thì Thẩm phán là: “Người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm
vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án”. Như
vậy, Thẩm phán là người thay mặt cho Tòa án thực hiện chức năng xét xử, đó là những cá
nhân mà theo quy định của pháp luật được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử thông qua
cơ quan chủ quản là Tòa án. Ngoài ra, xét xử không phải là nhiệm vụ duy nhất của Thẩm
phán mà Thẩm phán còn phải giải quyết những công việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa
án như ra quyết định thi hành án, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, ra quyết định xóa án

tích…, mặt khác những vụ việc không thuộc thẩm quyền của Tòa án thì Thẩm phán
không được quyền xét xử.
Tại khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002
sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định Thẩm phán ở nước ta gồm có:
 phán Tòa án nhân dân tối cao;
 Thẩm phán trung cấp;
 Thẩm Thẩm phán sơ cấp;

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

3

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
 Thẩm phán Tòa án quân sự bao gồm Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương đồng
thời là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ
cấp.
Đây là lực lượng chủ yếu, có vị trí quan trọng trong Tòa án vì họ chính là người áp
dụng pháp luật, trực tiếp xét xử vụ án tại phiên tòa nhân danh công lý, thay mặt nhà nước
đưa ra phán quyết có tính chất bắt buộc đối với bất kỳ cá nhân, cơ quan tổ chức có liên
quan.
1.1.2 Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán
1.1.2.1 Quyền của Thẩm phán
Thẩm phán là một chức danh cao quý, là biểu tượng của công lý, lẽ phải và sự
công bằng. Thẩm phán có nghĩa vụ xét xử, để hoàn thành nghĩa vụ xét xử thì Thẩm phán
được pháp luật của nhà nước trao một số quyền trong quá trình tố tụng như sau:
Trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình Thẩm phán có quyền liên hệ với
cơ quan Nhà nước, Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của mặt

trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế và công dân trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình tạo điều kiện để Thẩm phán làm nhiệm vụ liên quan đến việc giải
quyết vụ án.2 Đây là quyền cần thiết trong công tác giải quyết các vụ án của Thẩm phán.
Để có một bản án hay một quyết định đúng không thể chỉ dựa vào những tài liệu từ
những người tham gia tố tụng hay các đương sự trong vụ việc dân sự mà Thẩm phán còn
phải tiến hành đánh giá, bổ sung chứng cứ làm rõ vấn đề cần giải quyết theo quy định của
luật tố tụng. Do đó, khi Thẩm phán có yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông
tin có liên quan đến việc giải quyết vụ án thì phải được chấp nhận và phối hợp tiến hành
giúp cho quá trình giải quyết án của Thẩm phán được nhanh chóng, chính xác.
Bên cạnh đó, Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức cá nhân thi hành
những quyết định có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác theo qui
định của pháp luật.3
Đây là quyền rất quan trọng của Thẩm phán, bởi vì Tòa án xét xử nhân danh nhà
nước bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước. Còn Thẩm phán là chủ thể được nhà nước trao quyền
trực tiếp tiến hành các thủ tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật, điều đặc biệt
nữa là hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán không mang tính cá nhân, mà nhân danh
nhà nước, thừa hành quyền lực nhà nước để phân xử đúng sai, để trừng trị hoặc tha bổng.
Do đó, Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định
2
3

Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, Điều 10, khoản 2.
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, Điều 12.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

4

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên



KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Nhằm khẳng định bản án, quyết định của Thẩm
phán là nhân danh nhà nước nên phải được tôn trọng và chấp hành, Điều 106 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành”.
Gắn với nhiệm vụ xét xử thì Thẩm phán còn có quyền được hưởng lương và các chế
độ phụ cấp như sau:
Thẩm phán là người thay mặt Tòa án thực hiện chức năng xét xử, người đại diện
cho sự uy nghiêm tại phiên tòa. Do đó, Thẩm phán có quyền được hưởng lương, phụ cấp
trách nhiệm và phụ cấp khác do pháp luật quy định, cụ thể Nghị quyết số 730/NQUBTVQH11 ngày 30/9/2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc phê chuẩn bảng
lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Tòa án.
Thẩm phán còn có quyền được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xét xử để nâng cao
hiệu quả giải quyết án của Thẩm phán. Vì kỹ năng xét xử không chỉ dựa trên trình độ cử
nhân luật hay ý chí tự rèn luyện của bản thân Thẩm phán mà còn phụ thuộc vào công tác
bồi dưỡng nghiệp vụ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tổ chức.4 Bồi dưỡng nghiệp vụ
cho Thẩm phán là rất cần thiết bởi vì một Thẩm phán giỏi mà không quan tâm đến việc
nâng cao năng lực, trình độ thì về lâu dài sẽ khó tránh khỏi gây ra tình trạng án oan, sai
trong xét xử. Hơn nữa, công việc xét xử của Thẩm phán là một loại lao động thuộc một
nghề nghiệp đặc biệt đó là hoạt động áp dụng pháp luật có tính tập thể (Hội đồng xét xử),
trong đó Thẩm phán là trung tâm, có sức ảnh hưởng lớn. Vì vậy, Thẩm phán có trách
nhiệm nặng nề và hết sức khắc nghiệt. Phán quyết của Tòa án, mà trong đó, kết quả sự
hành nghề của Thẩm phán là yếu tố quyết định, liên quan đến sinh mệnh, danh dự, nhân
phẩm, tự do và tài sản của công dân, đến số phận của một con người. Một phán quyết sai
lầm, sự dằn vặt lương tâm có thể sẽ đeo đuổi họ suốt đời.
Chính vì sự đặc thù như trên, mỗi Thẩm phán phải được nâng cao các kỹ năng cơ
bản như: kỹ năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá các tình tiết, sự kiện, tài liệu, chứng cứ
liên quan đến vụ án cụ thể được giao; kỹ năng tập hợp, lựa chọn, giải thích các quy phạm

pháp luật một cách chính xác, phù hợp với các tình tiết, sự kiện, chứng cứ và toàn bộ nội
dung cụ thể của vụ án; kỹ năng tổ chức, điều khiển phiên tòa; kỹ năng viết bản án và
tuyên án.
Ngoài ra, theo dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi thì Thẩm phán có
quyền được bảo vệ.

4

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Điều 25, khoản 8.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

5

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
Thẩm phán là một nghề nguy hiểm. Họ đấu tranh trực diện với bọn phạm tội, không
ít bị cáo là bọn xã hội đen, những tay anh chị đâm thuê, chém mướn, có băng nhóm lưu
manh chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, những vụ án dân sự lại có phức tạp khác, nó liên quan
đến tài sản, danh dự nên không ít đương sự do thua kiện mà cay cú, thù oán Thẩm phán
đã xét xử. Vấn đề bảo vệ cho Thẩm phán đang là nỗi trăn trở của những người làm công
tác xét xử.
Tại các phiên tòa hình sự có lực lượng cảnh sát bảo vệ, những người gây rối ít có
điều kiện ra tay. Song trong phiên xử án kinh tế, dân sự, hôn nhân gia đình thì không có
lực lượng này, khi “sự cố” xảy ra không ai bảo vệ Thẩm phán. Mối đe dọa, xâm hại đến
danh dự, sức khỏe, tính mạng không chỉ riêng cá nhân Thẩm phán mà còn ảnh hưởng đến
người thân của họ. Do đó, ngoài những ưu tiên về chế độ lương, phụ cấp tương xứng với
tính chất nghề nghiệp thì cần phải có cơ chế bảo vệ Thẩm phán.

Điểm mới của Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân là: “Thẩm phán được đảm
bảo tôn trọng về danh dự, uy tín và được bảo vệ an ninh cá nhân khi thi hành công vụ và
trong trường hợp cần thiết”5. Đây là quy định có rất nhiều lợi ích, vừa giải tỏa lo ngại bị
đe dọa cho Thẩm phán vừa mang tính phòng ngừa những hành vi trả thù từ bên ngoài.
Đồng thời, phải có những chế tài nghiêm khắc để xử lý những ai can thiệp vào hoạt động
xét xử xủa Tòa án.
1.1.2.2 Nghĩa vụ của Thẩm phán
Nghĩa vụ đầu tiên phải kể đến của Thẩm phán là nghĩa vụ xét xử, tại Điều 11 Pháp
lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 quy định: Thẩm phán có nghĩa
vụ tuân theo sự phân công để làm nhiệm vụ xét xử của Chánh án Tòa án nơi mình công
tác hoặc Tòa án nơi mình được biệt phái đến làm nhiệm vụ có thời hạn.6 Thế nhưng, chỉ
có Thẩm phán là người biết rõ nhất mình đã xét xử và mình có vô tư khách quan không.
Với tinh thần thượng tôn pháp luật, Thẩm phán phải có nghĩa vụ từ chối tham gia xét xử
hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định.7 Ví dụ, Bộ luật Tố
tụng dân sự quy định Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải từ chối tham gia xét xử
trong những trường hợp sau: 8
- Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự;
- Họ đã tham gia với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
người bào chữa người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án
đó;

5

Dự thảo ( lần 5) Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi, Điều 58, khoản 1, điểm c.
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Điều 11.
7
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Điều 16.
8
Bộ luật Tố tụng dân dự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011, Điều 47.
6


GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

6

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
- Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ;
- Họ đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án đó,
trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Uỷ ban
Thẩm phán Tòa án cấp tỉnh thì vẫn được tham gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
- Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Thư
ký Tòa án.
Trong vụ án hình sự, Thẩm phán có nghĩa vụ từ chối tham gia xét xử trong các
trường hợp sau đây:9
- Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
- Là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị
can, bị cáo;
- Họ đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch trong vụ án đó; có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô
tư trong khi làm nhiệm vụ;
- Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng trong vụ án đó
với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án.
Do Thẩm phán là công chức nhà nước nên Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp
luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách

nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.10 Ví dụ, Điều 295 Bộ luật hình sự 1999 quy
định những chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với Thẩm phán vi phạm pháp luật trong hoạt
động tư pháp: “Thẩm phán nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù
từ một năm đến năm năm; phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười năm; phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm; người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ
nhất định từ một năm đến năm năm”. Ngoài ra, Thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán đó thực hiện nhiệm vụ
xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi
hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật.11

9

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Điều 46.
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Điều 6.
11
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Điều 8.
10

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

7

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
Để thực hiện vai trò của mình, đòi hỏi Thẩm phán phải có nghĩa vụ tuân thủ đạo đức
nghề nghiệp, phải giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật, có
trách nhiệm học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ Tòa án, phải

tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.12 Đồng thời, Thẩm phán phải
gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn
trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật.13
1.1.3 Vai trò của Thẩm phán
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 khẳng định xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp. Hiệu quả của
hoạt động xét xử là sự thể hiện sinh động nhất của hoạt động tư pháp. Nói đến xét xử là
phải nói vai trò trung tâm của Thẩm phán và không thể thiếu được. Trong Hội đồng xét
xử, Thẩm phán với vai trò là chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán luôn là trung tâm của quá
trình xét xử, tất cả mọi thủ tục của phiên tòa đều được bắt đầu và kết thúc bởi Thẩm
phán. Các bước trong quá trình xét xử có được thực hiện đúng quy trình hay không, có
liên kết được với nhau một cách chặt chẽ hay không, đều phụ thuộc vào kỹ năng điều
hành của Thẩm phán. Với tư cách là người điều khiển phiên tòa, dẫn dắt việc tranh tụng
diễn ra một cách có trật tự, đi đúng trọng tâm vào những vấn đề mấu chốt, Thẩm phán sẽ
đảm bảo những người tham gia tố tụng thực hiện đúng các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của họ.
Hội đồng xét xử là một chủ thể có thẩm quyền quyết định cuối cùng đối với một vụ
án. Chủ thể này do Thẩm phán và Hội Thẩm phối hợp hình thành nên, nhưng vai trò của
Thẩm phán khác với Hội thẩm, Thẩm phán là bắt buộc và không thể thay thế. Ví dụ,
trong tố tụng hình sự, Hội thẩm chỉ giữ vai trò bắt buộc trong phiên Tòa sơ thẩm,14 còn
trong phiên Tòa phúc thẩm chỉ có Hội thẩm khi cần thiết.15 Trong tố tụng dân sự thậm chí
Hội thẩm chỉ tham gia trong phiên Tòa sơ thẩm, còn phúc thẩm chỉ bao gồm các Thẩm
phán. Do đó, vai trò của Thẩm phán là bắt buộc trong Hội đồng xét xử và không thể thay
thế; không có Thẩm phán thì sẽ không có hoạt động xét xử. 16
1.2 KHÁI QUÁT VỀ BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
Theo quy định, bổ nhiệm là việc cán bộ, công chức được quyết định giữ một chức
vụ lãnh đạo, quản lý hoặc một ngạch theo quy định của pháp luật.17 Điều 7 Nghị định
06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định Thẩm phán là công chức
12


Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Điều 14, Điều 10 khoản 1, Điều 7.
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Điều 13.
14
Bộ Luật tố tụng dân sự, Điều 185.
15
Bộ Luật tố tụng hình sự, Điều 244.
16
Đinh Thanh Phương, Góp ý sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân- cần thiết kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2014.
17
Luật cán bộ, công chức năm 2008, Điều 7, khoản 5.
13

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

8

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
trong hệ thống Tòa án nhân dân. Kết hợp với quy định Thẩm phán là người được bổ
nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết
những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án.18 Từ các quy định trên, công chức thuộc
hệ thống Tòa án hội đủ các tiêu chuẩn theo luật định thì sẽ được bổ nhiệm làm Thẩm
phán và kể từ ngày có quyết định bổ nhiệm thì công chức đó đương nhiên trở thành
Thẩm phán và có quyền tham gia giải quyết các vụ án trong phạm vi, nhiệm vụ của
mình.
Từ Hiến pháp năm 1946 thì “Các viên Thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm”.19
Nhưng từ năm 1960 đến trước khi có Hiến pháp 1992, chế độ bầu cử Thẩm phán đã được

thực hiện ở các cấp Tòa án nhân dân. Hiến pháp 1959 quy định: “Các Thẩm phán của các
Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu và bãi nhiệm”.20 Hiến
pháp 1980 tiếp tục xác định: “Chế độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện ở Tòa án nhân
dân các cấp”.21
Với chế độ bầu cử Thẩm phán có những ưu điểm là mang tính dân chủ cao, lựa
chọn những người có trình độ chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp thay mặt mình
xét xử để bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể, lợi ích chính đáng của công dân. Tuy
nhiên hơn 30 năm thực hiện nguyên tắc bầu Thẩm phán đã bộc lộ những nhược điểm
như: Thẩm phán lệ thuộc vào một tập thể quyết định, cho nên hoạt động xét xử của các
Tòa án cũng chịu sự áp đặt từ phía địa phương, chủ yếu là từ Hội đồng nhân dân làm cho
tính độc lập khi xét xử của Thẩm phán bị hạn chế; trình độ, năng lực xét xử của đội ngũ
Thẩm phán chưa được quan tâm và đánh giá đúng mức vì người bầu Thẩm phán không
biết rõ về trình độ năng lực của người mình sẽ bầu. Vì thế đã ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả của hoạt động xét xử.
Do vậy, Hiến pháp 1992 đã thay nguyên tắc bầu Thẩm phán bằng nguyên tắc bổ
nhiệm Thẩm phán.22 Tiếp tục kế thừa, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận nguyên tắc bổ
nhiệm Thẩm phán nhưng tiến bộ hơn là quy định thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán trao
về cho Chủ tịch nước.23 Quy định trên nhằm bảo đảm Chủ tịch nước với tư cách người
đứng đầu nhà nước trao quyền tư pháp cho Thẩm phán - những người sẽ nhân danh Nhà
nước thực thi công lý. Đồng thời, quy định trên còn góp phần nâng cao vị thế của Thẩm
phán, tránh sự khép kín trong công tác bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án địa phương bởi

18

Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002, Điều 1.
Hiến pháp 1946 ,Điều 64.
20
Hiến pháp 1959, Điều 98.
21
Hiến pháp 1980, Điều 129.

22
Hiến pháp 1992, Điều 128.
23
Hiến pháp 2013, khoản 3, Điều 88.
19

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

9

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của Tòa án địa
phương.
Về nhiệm kỳ của Thẩm phán, Điều 24 Pháp lệnh Thẩm phán Hội thẩm tòa án nhân
dân 2002 quy định nhiệm kỳ của Thẩm phán là 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm. Quy
định này xét ở một chừng mực nào đó cũng có những ý nghĩa tích cực đối với năng lực
và hiệu quả xét xử của Thẩm phán. Chính sự giới hạn về thời gian công tác đã trở thành
động lực to lớn thúc đẩy Thẩm phán không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, hoàn thiện và giữ gìn phẩm chất đạo đức, có trách nhiệm và hoàn thành
tốt nhiệm vụ xét xử của mình để được bổ nhiệm lại trong nhiệm kỳ tiếp theo. Bởi lẽ, với
nhiệm kỳ ngắn như vậy, nếu Thẩm phán không ra sức học hỏi, trau dồi kinh nghiệm thì
khả năng tái bổ nhiệm trong nhiệm kỳ sau sẽ không đảm bảo. Do đó, quy định nhiệm kỳ
luôn nhắc nhở Thẩm phán phải chú trọng thường xuyên đến hiệu quả hoạt động xét xử,
hạn chế sai phạm. Đồng thời, quy định này cũng loại bỏ đi những Thẩm phán kém năng
lực, thiếu trách nhiệm và khắc phục tình trạng Thẩm phán đủ năm công tác thì được bổ
nhiệm lại.24
Tuy nhiên, bổ nhiệm Thẩm phán theo nhiệm kỳ không phải không có những khuyết

điểm của nó và vấn đề này sẽ được trình bày ở chương sau

24

Đinh Thanh phương, Góp ý sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân- cần thiết kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2014.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

10

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
2.1 TIÊU CHUẨN BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
2.1.1 Tiêu chuẩn chung để bổ nhiệm Thẩm phán
Nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động xét xử, tiêu chuẩn cho một chức danh Thẩm
phán là điều cần thiết, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội Thẩm Tòa án nhân dân năm 2002
quy định: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần
kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân Luật và đã được đào
tạo về nghiệp vụ xét xử; có thời gian công tác thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử
theo quy định của pháp luật, có sức khoẻ đảm bảo hoàn thành công việc được giao thì có
thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán”.25
Theo Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-TANDTC-BQP-BNV ngày 20/10/2011,
về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa
án nhân dân năm 2002 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì một người để được tuyển

chọn làm Thẩm phán phải có các điều kiện sau:
Thứ nhất, người đó cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn về quốc tịch, lòng yêu nước và
phẩm chất đạo đức.
Vậy các tiêu chuẩn: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung
thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa” cần được hiểu một cách
cụ thể và đầy đủ như sau:
- Chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; không có bất kỳ hành vi nào gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
- Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác,
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng
tuyệt đối sự phân công và điều động của cơ quan, tổ chức.
- Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.

25

Pháp lệnh Thẩm phán và Hội Thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Điều 5.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

11

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN

- Kiên quyết đấu tranh với những người, những hành vi gây phương hại đến Đảng,
đến Tổ quốc và nhân dân, bảo vệ công lý; có tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình.
- Không thuộc trường hợp quy định tại Điều 2 Chương I của Quy định số 57QĐ/TW ngày 03-5-2007 của Bộ Chính trị “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ
Đảng”.
- Không làm những việc quy định tại Điều 15 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm Tòa án nhân dân.
- Chưa bao giờ bị kết án (kể cả trường hợp đã được xóa án tích).
Thứ hai, Thẩm phán là người xét xử chuyên nghiệp, là người đưa ra những phán
quyết có tính chất quyết định đến nội dung của từng bản án. Do đó, ngoài tiêu chuẩn về
quốc tịch, lòng yêu nước, phẩm chất đạo đức, kiến thức pháp lý và nghiệp vụ xét xử của
mình, Thẩm phán còn phải có thời gian công tác thực tiễn, có năng lực làm công tác xét
xử và có sức khỏe để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Theo quy định của pháp
luật thì những quy định này được giải thích cụ thể như sau:
- “Có trình độ cử nhân luật” là phải có bằng tốt nghiệp đại học về chuyên ngành
luật do các trường đại học trong nước có chức năng đào tạo về chuyên ngành luật theo
quy định của pháp luật; nếu văn bằng cử nhân luật do cơ sở đào tạo của nước ngoài cấp
thì văn bằng đó phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận.
- "Đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử” là phải có chứng chỉ về đào tạo nghiệp vụ
xét xử do cơ sở trong nước có chức năng đào tạo về nghiệp vụ xét xử theo quy định của
pháp luật; nếu chứng chỉ do cơ sở đào tạo của nước ngoài cấp thì chứng chỉ đó phải được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận.
- “Thời gian làm công tác pháp luật” là thời gian công tác liên tục kể từ khi được
xếp vào một ngạch công chức theo quy định của pháp luật, bao gồm: Thư ký Tòa án,
Thẩm tra viên ngành Tòa án; Kiểm tra viên, Điều tra viên, Kiểm sát viên ngành Kiểm sát;
Trinh sát viên trung cấp trở lên, Cảnh sát viên trung cấp trở lên của lực lượng Cảnh sát
nhân dân, Trinh sát viên trung cấp trở lên của lực lượng An ninh nhân dân và Điều tra
viên trong lực lượng Công an nhân dân; cán bộ điều tra, bảo vệ an ninh trong Quân đội;
Chuyên viên, Chấp hành viên, Công chứng viên, Thanh tra viên, cán bộ pháp chế, giảng
viên về chuyên ngành luật; thời gian được bầu hoặc cử làm Hội thẩm, thời gian làm luật
sư cũng được coi là “thời gian làm công tác pháp luật”.

- “Có năng lực làm công tác xét xử” là phải nắm bắt và áp dụng được các quy định
của pháp luật trong công tác xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án; hoàn thành công việc được giao có chất lượng, hiệu quả và bảo
đảm thời gian quy định theo đánh giá, nhận xét của cơ quan có thẩm quyền quản lý công
GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

12

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
chức hoặc có những bài viết, công trình nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật có giá trị
được công bố hoặc được áp dụng vào thực tiễn.
- “Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao” là có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, ngoài thể lực cần thiết, còn bao gồm yếu tố ngoại hình đó là không có dị
tật, dị hình ảnh hưởng trực tiếp đến tư thế, tác phong hoặc việc thực hiện nhiệm vụ của
người Thẩm phán.
- Đối với người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang bị xem xét xử lý kỷ
luật, nhưng chưa có quyết định giải quyết cuối cùng của người hoặc cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền thì chưa có đủ điều kiện để có thể được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán.
Các tiêu chí và điều kiện nói trên có thể thấy rằng tương đối nghiêm ngặt so với
điều kiện đối với đội ngũ công chức khác. Tuy nhiên tiêu chuẩn vế quốc tịch Việt Nam
cần rõ hơn vì hiện nay, công dân Việt Nam có thể có hai quốc tịch, như vậy thì sẽ dẫn
đến hiểu nhầm Thẩm phán có hai quốc tịch.
Như vậy, Thẩm phán ngoài việc phải có những kiến thức chuyên môn giỏi, có trình
độ nghiệp vụ vững vàng, những hiểu biết sâu rộng về mặt xã hội, thì phẩm chất trung
thực cũng là một yêu cầu cần thiết đối với mỗi con người nói chung và đối với mỗi Thẩm
phán nói riêng. Trung thực, trước hết là tôn trọng sự thật, tôn trọng lẽ phải và chân lý

trong các quan hệ xã hội. Do đó, trung thực nghĩa là dũng cảm và ngay thẳng mà không
cứng nhắc, bảo thủ. Nhưng một Thẩm phán khi quyết định một hình phạt không thể có
được một sự tính toán chính xác về mặt lý trí cũng như về toán học. Trong trường hợp
này sự công minh và tình người giúp Thẩm phán hành động đúng.
2.1. 2 Tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán
Những người đáp ứng đủ các tiêu chuẩn quy định tại Khoản 1, Điều 5 Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002 thì có thể được xem xét tuyển chọn và bổ
nhiệm làm Thẩm phán. Tuy nhiên không phải một người đáp ứng đủ các tiêu chuẩn đó
thì sẽ được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án các cấp. Ngoài các tiêu chuẩn
chung thì mỗi cấp Toà án có tiêu chuẩn Thẩm phán khác nhau, Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm của Tòa án nhân dân năm 2002 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định về tiêu
chuẩn Thẩm phán như sau:
2.1.2.1 Tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh này, có thời gian
làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết
những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có
thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân.
GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

13

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
2.1.2.2 Tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án nhân dân
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh này và đã là
Thẩm phán sơ cấp ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết
những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có
thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án nhân dân.

2.1.2.3 Tiêu chuẩn cụ thể của Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh này và đã là
Thẩm phán trung cấp ít nhất là năm năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết
những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao thì có thể được tuyển
chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Thẩm phán là một công dân, công chức trong bộ máy nhà nước, đồng thời quy định
của pháp luật hiện hành Thẩm phán là một chức danh tư pháp. Do đó, một người muốn
được tuyển chọn làm Thẩm phán thì người đó phải hội đủ những tiêu chuẩn nghiêm ngặt
mà pháp luật quy định.
Mặt khác, trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của Tòa án nhân dân, người có đủ
tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh này và đã có thời gian làm công tác
pháp luật từ mười năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc
khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được
tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án nhân dân. Đây là trường
hợp ngoại lệ khi bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp thuộc Tòa án nhân dân mà người này
chưa phải là Thẩm phán sơ cấp và vì thế, không đảm bảo về trình độ chuyên môn, sự
chuyên nghiệp trong xét xử. Vậy tại sao không có quy định bổ nhiệm những cá nhân
công tác ngoài Tòa án làm Thẩm phán sơ cấp khi đã có thời gian làm công tác pháp luật
từ 5 năm trở lên và có đủ những tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều 5 của Pháp lệnh
này? So với bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp thì bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp ở trường
hợp này không có gì là không hợp lý. Như vậy, phải chăng bổ nhiệm Thẩm phán trung
cấp trong trường hợp này chỉ để hợp thức hóa vai trò lãnh đạo của những Thẩm phán đó
như Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh.
Theo Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-TANDTC-BQP-BNV ngày
20/10/2011, trong trường hợp đặc biệt, người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều
động đến công tác tại Tòa án nhân dân, tuy chưa có đủ thời gian làm công tác pháp luật,
chưa được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, nhưng có đủ các tiêu chuẩn khác theo quy định
của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 được sửa đổi, bổ sung
năm 2011 thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán. Trường hợp đặc biệt


GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

14

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
ở đây là trường hợp nếu người đó được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì sẽ bổ nhiệm họ làm
Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp đó.
Nghị quyết số 131/2002/NQ-UBTVQH11 ngày 04 tháng 10 năm 2002 về quy định
một số điểm về việc thi hành pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, pháp lệnh
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, khoản 2 Điều 3 Nghị quyết quy định: Đối với
người đang là Thẩm phán được bổ nhiệm trước ngày 15 tháng 10 năm 2002 chưa có trình
độ cử nhân luật, chưa có chứng chỉ đào tạo về nghiệp vụ xét xử mà có đủ các tiêu chuẩn
khác theo quy định của Pháp lệnh thì chỉ có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm lại làm
Thẩm phán Tòa án cấp đó, nhưng trong nhiệm kỳ mới phải học tập để có trình độ cử
nhân luật.
2.2 TRÌNH TỰ, THỦ TỤC BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
2.2.1 Chuẩn bị nhân sự
Trách nhiệm chuẩn bị nhân sự, chuẩn bị hồ sơ đối với người được đề nghị tuyển
chọn và bổ nhiệm cũng như giúp việc cho Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao trong công tác tuyển chọn và đề nghị Chủ tịch nước bổ nhiệm do Vụ Tổ chứcCán bộ Tòa án nhân dân tối cao đảm nhiệm.26
Trách nhiệm chuẩn bị nhân sự, chuẩn bị hồ sơ đối với người được đề nghị tuyển
chọn và bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân do
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh đảm nhiệm. Phòng Tổ chức - Cán bộ Tòa án nhân
dân cấp tỉnh là đơn vị tham mưu giúp Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh trong việc
chuẩn bị nhân sự và hồ sơ đối với người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm cũng như
giúp việc cho Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa
án nhân dân trong công tác tuyển chọn và đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình

Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân.
Theo Điều 9 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-TANDTC-BQP-BNV ngày
20/10/2011 việc chuẩn bị nhân sự để đề nghị Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán xem xét,
tuyển chọn được thực hiện theo các bước sau đây:
2.2.1.1 Đối với nhân sự công tác tại Tòa án nhân dân
Bước 1: Căn cứ nhu cầu công tác, trên cơ sở đề nghị của các đơn vị thuộc Tòa án
nhân dân cấp tỉnh và các Tòa án nhân dân cấp huyện, Phòng Tổ chức - Cán bộ Tòa án
nhân dân cấp tỉnh lập tờ trình Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân cấp tỉnh về chủ trương,

26

Quyết định số 16/2003/TCCB ngày 17-02-2003 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về bộ máy giúp
việc của Tòa án nhân dân tối cao, Điều 3.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

15

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
số lượng và dự kiến các phương án phân công công tác đối với người được giới thiệu đề
nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp.
Ban cán sự Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh thống nhất danh sách những
người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ
cấp.
Bước 2: Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh tổ chức lấy ý kiến của cán bộ, công
chức trong cơ quan, đơn vị nơi người đó công tác. Cách thức lấy ý kiến được thực hiện
như sau:

- Về đối tượng tham gia lấy ý kiến: Là toàn thể cán bộ, công chức của Tòa án nơi
người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán đang công tác, nếu Tòa án
đó có số lượng cán bộ, công chức dưới 70 người; nếu Tòa án đó có số lượng cán bộ, công
chức từ 70 người trở lên thì đối tượng tham gia lấy ý kiến bao gồm các Thẩm phán,
những người có chức vụ từ Phó Trưởng phòng và tương đương trở lên.
- Về hình thức lấy ý kiến: Việc lấy ý kiến được thực hiện tại hội nghị (hoặc hội
nghị đại biểu) cán bộ, công chức của cơ quan, đơn vị nơi người được đề nghị tuyển chọn
và bổ nhiệm làm Thẩm phán đang công tác bằng hình thức bỏ phiếu kín.
- Về trình tự lấy ý kiến:
+ Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh khai mạc, tuyên bố lý do, thành phần hội
nghị và nêu nhu cầu bổ nhiệm Thẩm phán;
+ Trực tiếp hoặc ủy quyền cho Trưởng phòng Phòng Tổ chức - Cán bộ Tòa án
nhân dân cấp tỉnh thông báo danh sách người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp do tập thể lãnh đạo, Ban cán sự đảng Tòa án
nhân dân cấp tỉnh thống nhất, giới thiệu; phổ biến tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của
Thẩm phán; tóm tắt lý lịch, quá trình học tập, công tác; đọc bản nhận xét, đánh giá ưu,
khuyết điểm, mặt mạnh, mặt yếu, triển vọng phát triển của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị
nơi người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán công tác; dự kiến phân
công công tác sau khi được bổ nhiệm.
+ Hướng dẫn việc ghi phiếu và phát phiếu.
+ Những người tham gia lấy ý kiến ghi phiếu và bỏ phiếu.
+ Kiểm tra tổng số phiếu phát ra, thu vào và tiến hành niêm phong phiếu tại cuộc
họp theo quy định.
Bước 3: Tập thể lãnh đạo, Trưởng phòng Phòng Tổ chức - Cán bộ Tòa án nhân
dân cấp tỉnh tiến hành kiểm phiếu và lập biên bản kiểm phiếu; trên cơ sở kết quả phiếu
lấy ý kiến, tập thể lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp tỉnh thảo luận, nhận xét, đánh giá và
GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

16


SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
biểu quyết nhân sự (bằng phiếu kín). Về nguyên tắc, nhân sự được đề nghị bổ nhiệm phải
được đa số các thành viên trong tập thể lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp tỉnh tán thành.
Bước 4: Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo lập hồ sơ của những người
được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán.
2.2.1.2 Đối với nhân sự công tác ngoài Tòa án nhân dân
Bước 1: Người hiện đang công tác trong các cơ quan, tổ chức ngoài ngành Tòa án
nhân dân được lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh tòa hoặc Trưởng phòng Phòng
Tổ chức - Cán bộ Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện
hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giới thiệu để đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp.
Tập thể lãnh đạo, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân cấp tỉnh thảo luận, thống nhất
về chủ trương và chỉ đạo tiến hành một số công việc sau:
- Gặp người được giới thiệu đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung
cấp, Thẩm phán sơ cấp để trao đổi ý kiến về yêu cầu nhiệm vụ công tác;
- Trao đổi ý kiến với tập thể lãnh đạo và thường vụ cấp ủy cơ quan nơi người được
giới thiệu đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp
công tác về chủ trương điều động;
- Lấy nhận xét, đánh giá bằng văn bản của tập thể lãnh đạo và thường vụ cấp ủy cơ
quan nơi người được giới thiệu đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán trung
cấp, Thẩm phán sơ cấp công tác;
- Xác minh lý lịch của người được giới thiệu đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp.
Bước 2: Tập thể lãnh đạo, Ban cán sự đảng Tòa án nhân dân cấp tỉnh thảo luận, nhận
xét, đánh giá và biểu quyết nhân sự dự kiến đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán
trung cấp, Thẩm phán sơ cấp (bằng phiếu kín).
Trường hợp cơ quan cấp trên có dự kiến điều động, bổ nhiệm Thẩm phán từ nguồn

nhân sự bên ngoài (ngoài ngành Tòa án hoặc từ Tòa án cấp trên xuống) thì trao đổi ý kiến
với tập thể lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi tiếp nhận cán bộ về dự kiến điều động,
bổ nhiệm Thẩm phán (nếu Tòa án dự kiến tiếp nhận không chủ động đề nghị).
Bước 3: Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo lập hồ sơ của những người được
đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán.
2.2.2 Lập hồ sơ cá nhân đề nghị tuyển chọn để bổ nhiệm làm Thẩm phán
2.2.2.1 Đối với cá nhân bổ nhiệm Thẩm phán lần đầu

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

17

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
Theo Điều 10 của Thông tư liên tịch, hồ sơ cá nhân đề nghị tuyển chọn để bổ nhiệm
Thẩm phán gồm có các tài liệu sau đây:
- Đơn tình nguyện làm Thẩm phán (theo Mẫu số 1 tại Phụ lục của Thông tư liên tịch
này);
- Sơ yếu lý lịch (có dán ảnh 4x6), có xác nhận của cơ quan quản lý cán bộ (theo
Mẫu 2C-BNV/2008 ban hành kèm theo Quyết định số 02/2008/QĐ-BNV ngày
06/10/2008 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ);
- Bản kê khai tài sản, thu nhập (theo Mẫu 1 ban hành kèm theo Nghị định số
37/2007/NĐ-CP ngày 09/3/2007 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập);
- Các bản sao (có chứng thực hợp pháp) bằng tốt nghiệp đại học về chuyên ngành
luật, chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ xét xử, các văn bằng, chứng chỉ về trình độ lý luận
chính trị, quản lý nhà nước và các văn bằng, chứng chỉ khác liên quan đến việc tuyển
chọn, bổ nhiệm Thẩm phán (nếu có);
- Bản tự kiểm điểm của người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán

- Bản nhận xét, đánh giá của thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức về quá trình công
tác, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống của người
được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán.
- Biên bản và kết quả phiếu lấy ý kiến của cơ quan, đơn vị, tổ chức đối với người
được giới thiệu đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán.
2.2.2.2 Đối với cá nhân đề nghị tái bổ nhiệm Thẩm phán
Hồ sơ cá nhân được quy định tại Điều 11 của Thông tư liên tịch ,bao gồm:
- Đơn tình nguyện làm Thẩm phán
- Bản tự kiểm điểm về quá trình công tác trong nhiệm kỳ Thẩm phán (theo Mẫu số 3
tại Phụ lục của Thông tư liên tịch này);
- Bản nhận xét, đánh giá của thủ trưởng cơ quan, đơn vị về quá trình công tác, năng
lực chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống của người được đề
nghị tuyển chọn và bổ nhiệm lại Thẩm phán;
- Bổ sung sơ yếu lý lịch (có dán ảnh 4x6) trong nhiệm kỳ Thẩm phán, có xác nhận
của cơ quan quản lý cán bộ (theo Mẫu 4a-BNV/2007 ban hành kèm theo Quyết định số
06/2007/QĐ-BNV ngày 18/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ);
- Bản kê khai tài sản, thu nhập trong nhiệm kỳ Thẩm phán (theo Mẫu số 01A ban
hành kèm theo Thông tư số 01/2010/TT-TTCP ngày 22/01/2010 của Thanh tra Chính phủ
về mẫu Bản kê khai tài sản, thu nhập bổ sung).

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

18

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
2.2.3 Thành lập Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán
Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-TANDTC-BQP-BNV

ngày 20/10/2011, về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 được sửa đổi, bổ sung năm 2011, Điều 25 Pháp
lệnh quy định Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân gồm có:
- Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
- Các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án
nhân dân.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán làm việc theo quy chế quy định tại Quyết định số
46/2003/QĐ-TCCB ngày 02 tháng 4 năm 2003 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về
việc ban hành quy chế làm việc của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân.
Mọi quyết định của Hội đồng được thông qua tại phiên họp của Hội đồng và phải được ít
nhất ba thành viên trở lên biểu quyết tán thành.27
2.2.3.1 Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Thành phần Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao gồm có
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao làm Chủ tịch; đại diện Bộ Nội vụ, Ủy ban trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp hành trung ương Hội luật gia Việt Nam là ủy
viên. Danh sách ủy viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Ủy
ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tuyển chọn
người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo đề nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao và trình Chủ tịch nước bổ nhiệm.28
Về nguyên tắc, chỉ có Chủ tịch Hội đồng không thay đổi, ủy viên có thể thay đổi
nhưng phải được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét. Khi cần có sự thay đổi các ủy
viên thì cơ quan, tổ chức có sự thay đổi ủy viên phải có văn bản gửi Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao kèm theo lý lịch trích ngang của người được đề cử mới; Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao làm tờ trình (kèm theo văn bản của cơ quan, tổ chức có đại diện cần
thay đổi và lý lịch trích ngang của người được đề cử mới) đề nghị Ủy ban thường vụ
Quốc hội xem xét, quyết định cử ủy viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao.29

27


Quyết định số 46/2003/QĐ-TCCB ngày 02 tháng 4 năm 2003, Điều 2.
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân năm 2002, Điều 26.
29
Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-TANDTC-BQP-BNV ngày 20/10/2011, Điều 4, khoản 1.
28

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

19

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
2.2.3.2 Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa
án nhân dân
Theo khoản 8, Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm
2002 sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định thành phần Hội đồng gồm có Chủ tịch hoặc
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch hội đồng, Chánh án Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, đại diện lãnh đạo Sở Nội vụ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban chấp
hành Hội luật gia cấp tỉnh là ủy viên. Danh sách ủy viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán
trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân do Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao quyết định theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Hội đồng tuyển
chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân có những nhiệm vụ
tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa
án nhân dân theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và đề nghị Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án
nhân dân năm 2002 sửa đổi, bổ sung năm 2011, thì khi có sự thay đổi hoặc phân công lại

giữa Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về việc làm nhiệm vụ Chủ tịch
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân, thì
Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông báo bằng văn bản cho Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao biết về sự thay đổi hoặc phân công lại đó.
Cũng theo khoản 1 Điều 27 của Pháp lệnh, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh
là thành viên đương nhiên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ
cấp thuộc Tòa án nhân dân. Do đó, người nào được bổ nhiệm giữ chức vụ Chánh án Tòa
án nhân dân cấp tỉnh hoặc được giao quyền Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo
quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thì người đó đương nhiên là ủy viên
của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân
dân, mà không cần phải có quyết định của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cử làm ủy
viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân
dân.
Các ủy viên còn lại, khi có thay đổi người đại diện tham gia Hội đồng tuyển chọn
Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân thì cơ quan, tổ chức này
phải có văn bản gửi Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh kèm theo lý lịch trích ngang
của người được đề cử mới; Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có văn bản (kèm theo
văn bản của cơ quan, tổ chức có đại diện cần thay đổi và lý lịch trích ngang của người
được đề cử mới) đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, quyết định cử ủy

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

20

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân
dân.30

2.2.4 Đánh giá hồ sơ qua phiên họp của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán
Điều 13 Thông tư liên tịch quy định: Sau khi lập xong hồ sơ theo quy định tại Điều
12 của Thông tư liên tịch này, Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Cán bộ Tòa án nhân dân tối cao
hoặc Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh báo cáo Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Thẩm
phán biết để quyết định mở phiên họp Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Căn cứ ý kiến
của Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Cán bộ Tòa án
nhân dân tối cao hoặc Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh sao hồ sơ được quy định tại
Điều 12 của Thông tư liên tịch này và gửi đến các thành viên Hội đồng tuyển chọn Thẩm
phán.
Theo Điều 12 của Thông tư liên tịch, hồ sơ trình Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán
gồm có các tài liệu sau đây:
- Văn bản đề nghị tuyển chọn để bổ nhiệm.
- Hồ sơ cá nhân theo quy định tại Điều 10 của Thông tư liên tịch này. Hồ sơ cá nhân
đề nghị tuyển chọn để bổ nhiệm Thẩm phán được lập thành 02 bản chính. Kèm theo hồ
sơ là hai ảnh (3x4) để cấp Giấy chứng minh Thẩm phán (nếu được bổ nhiệm).
- Danh sách trích ngang đề nghị tuyển chọn để bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Thẩm phán.
- Các tài liệu khác có liên quan đến việc tuyển chọn để bổ nhiệm Thẩm phán.
Phiên họp của Hội đồng do Chủ tịch Hội đồng triệu tập, Hội đồng chỉ tiến hành
phiên họp khi có từ ba ủy viên trở lên tham gia.31 Trình tự tuyển chọn Thẩm phán trung
cấp, Thẩm phán sơ cấp tại phiên họp của Hội đồng tiến hành như sau:32
- Chủ tịch Hội đồng khai mạc phiên họp;
- Hội đồng cử Thư ký phiên họp;
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh báo cáo với Hội đồng về hồ sơ của người được
đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán theo danh sách trích ngang đã lập; trình
bày ý kiến đề nghị việc tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán đối với người đó;
- Các thành viên Hội đồng căn cứ vào tiêu chuẩn Thẩm phán và hồ sơ của người
được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán để thảo luận, trao đổi xem người
đó có đủ tiêu chuẩn làm Thẩm phán Tòa án cấp tương ứng đó hay không;
- Chủ tịch Hội đồng kết luận và các thành viên Hội đồng có mặt biểu quyết công
khai bằng hình thức giơ tay;

30

Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-TANDTC-BQP-BNV ngày 20/10/2011, Điều 4, khoản 2.
Quyết định số 46/2003/QĐ-TCCB ngày 02 tháng 4 năm 2003, Điều 2.
32
Quyết định số 46/2003/QĐ-TCCB ngày 02 tháng 4 năm 2003, Điều 7.
31

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

21

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỔ NHIỆM THẨM PHÁN
- Hội đồng giao cho Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh làm văn bản đề nghị Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm Thẩm phán đối với người (hoặc những người) đã được
tuyển chọn và trình Chủ tịch Hội đồng ký.
Việc báo cáo với Hội đồng về hồ sơ của người được đề nghị tuyển chọn và bổ
nhiệm Thẩm phán theo danh sách trích ngang đã lập được thực hiện đối với từng Tòa án
một và đối với từng người một. Hội đồng thảo luận, trao đổi và biểu quyết đối với từng
người một. Trong quá trình thảo luận, trao đổi các thành viên Hội đồng có thể đề nghị
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải trình những vấn đề chưa rõ liên quan đến người
được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán.33
Nếu phát hiện hồ sơ chưa đầy đủ, có vấn đề chưa rõ hoặc có đơn, thư khiếu nại, tố
cáo hoặc phản ánh không tốt về đạo đức, lối sống, quan hệ xã hội của người được đề nghị
tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán, mà có thành viên Hội đồng xét thấy cần thiết và
đề nghị cần phải tiến hành bổ sung hoặc xác minh làm rõ, thì Chủ tịch Hội đồng quyết
định việc dừng tuyển chọn đối với người đó và giao cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp

tỉnh tiến hành bổ sung hoặc xác minh làm rõ. Sau khi Hội đồng thực hiện xong việc tuyển
chọn không phụ thuộc vào kết quả đa số thành viên Hội đồng đồng ý hoặc không đồng ý
đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm Thẩm phán, thì các hồ sơ và bản sao
hồ sơ phải được giao lại cho Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh để quản lý.34
Văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm Thẩm phán đối với
người (hoặc những người) đã được tuyển chọn sau khi Chủ tịch Hội đồng ký được đóng
dấu bằng con dấu của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (đối với văn bản đề nghị Chủ tịch nước
bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp thuộc Tòa án nhân dân) nhưng phải
ghi đầy đủ chức danh về mặt chính quyền của người có chữ ký được đóng dấu.35
2.2.5 Trình và ký quyết định bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân
Hiện nay, quy trình bổ nhiệm Thẩm phán đang trong giai đoạn giao thời, những văn
bản pháp luật quy định về bổ nhiệm Thẩm phán vẫn còn hiệu lực trong khi thẩm quyền
bổ nhiệm Thẩm phán đã thay đổi.
Theo Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-TANDTC-BQP-BNV ngày 20/10/2011,
về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa
án nhân dân năm 2002 được sửa đổi, bổ sung năm 2011, giai đoạn trình và ký quyết định
bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp được quy định như sau: 36

33

Quyết định số 46/2003/QĐ-TCCB ngày 02 tháng 4 năm 2003, Điều 8.
Quyết định số 46/2003/QĐ-TCCB ngày 02 tháng 4 năm 2003, Điều 9.
35
Quyết định số 46/2003/QĐ-TCCB ngày 02 tháng 4 năm 2003, Điều 10.
36
Quyết định số 46/2003/QĐ-TCCB ngày 02 tháng 4 năm 2003, Điều 7, Điều 11, Điều 12, Điều 13.
34

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền


22

SVTH: Nguyễn Lệ Huyên


×