Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Một số giải pháp để xây dựng và phát triển khu công nghiệp và khu chế xuất ở việt nam đến năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.8 KB, 91 trang )

Trường đại học ngoại thương
Khoa kinh tế ngoại thương

Khoá luận tốt nghiệp
Đề tài:
Một số giải pháp để xây dựng và phát triển các khu công nghiệp
và khu chế xuất ở Việt nam đến năm 2018

Giáo viên hướng dẫn : ts. Phạm duy liên
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn thị thuý hạnh

Lớp

: n4 - k37C, đhnt


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

Lời mở đầu
Qua hơn mười năm thực hiện chính sách đổi mới, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,. . .và nhờ
đó mà Đảng và Nhà nước ta đã làm tăng thêm lòng tin của nhân dân đồng thời


tạo được uy tín rộng lớn với quốc tế. Hơn nữa, trong khu vực, xu thế hoà
bình, ổn định, hợp tác đang tiếp tục phát triển. Trên thế giới, xu thế quốc tế
hoá, toàn cầu hoá về kinh tế ngày càng mạnh và trở thành tất yếu. Đây là cơ
hội lớn cho nước ta tranh thủ để thu hút mạnh hơn các nguồn lực bên ngoài so
với những năm qua. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi kể trên, nền kinh tế
của chúng ta hiện nay đang đứng trước rất nhiều thách thức to lớn như sự yếu
kém bên trong của nền kinh tế mà chúng ta chưa khắc phục được, những tác
động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực tuy không
như trước đây nhưng vẫn chưa bị triệt tiêu hoàn toàn. Nguy cơ tụt hậu hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do
điểm xuất phát của ta quá thấp và lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh
quyết liệt.
Để vượt qua những thử thách này đồng thời tân dụng nhữg cơ hội mới,
nền kinh tế nước ta cần thu hút được mọi nguồn đầu tư có thể từ cả trong
nước lẫn nước ngoài nhằm thông qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của cả
nền kinh tế.
Ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, Nhà nước ta đã quan tâm đến việc
nghiên cứu và ứng dụng mô hình Khu chế xuất, khu công nghiệp tại nhiều địa
phương. Hoạt động của các Khu công nghiệp, Khu chế xuất của nước ta
trong những năm qua đã có bước phát triển tương đối tốt, tuy nhiên vẫn tồn
tại một số vấn đề khó khăn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu để đưa ra những
giải pháp thích hợp nhằm khai thác nhiều hơn tiềm năng của các Khu công
nghiệp, Khu chế xuất. Trong thời gian gần đây, đã có nhiều đề tài tiến hành
nghiên cứu về vấn đề này và đã đưa ra những giải pháp để từng bước tháo gỡ
1


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh


khó khăn cho các nhà đầu tư cũng như hỗ trợ cho các cơ quan quản lý Khu
công nghiệp Khu chế xuất. Tuy vậy, những thách thức to lớn trên buộc Việt
Nam phải nghiên cứu và cân nhắc lại chính sách thu hút đâù tư của Nhà nước,
kịp thời đưa ra một số giải pháp để đảm bảo sự hấp dẫn đối với những nhà
đầu tư. Chính vì vậy, em quyết định chọn đề tài "Một số giải pháp để xây
dựng và phát triển Khu công nghiệp và Khu chế xuất ở Việt Nam đến
năm 2018" làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình với mục đích nâng
cao sự hiểu biết về một vấn đề mà mình tâm đắc, đồng thời em cũng mong có
thể đóng góp một số kiến nghị nhằm xây dựng thành công các Khu công
nghiệp, Khu chế xuất ở Việt Nam trong thời gian tới.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, khoá luận này được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về Khu công nghiệp, Khu chế
xuất
Chương 2: Thực trạng xây dựng và phát triển các Khu công
nghiệp, và Khu chế xuất ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự
phát triển của các Khu công nghiệp và Khu chế xuất
Do trình độ hiểu biết còn hạn chế đồng thời thời gian nghiên cứu, tìm
hiểu ngắn, việc thu thập và xử lý thông tin gấp, gặp nhiều khó khăn nên nội
dung bài viết của em còn nhiều vấn đề bất cập và còn nhiều thiếu xót. Em rất
mong được sự đóng góp ý kiến và sự chỉ bảo của thầy cô và bạn bè về nội
dung cũng như cách trình bày. Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới tiến sỹ Phạm Duy Liên - giáo viên khoa Kinh tế ngoại thương, Trường Đại
học Ngoại Thương đã hướng dẫn tận tình, cho em nhiều lời khuyên quý báu,
bổ sung cũng như chỉnh lý nội dung và hình thức nhằm giúp em hoàn thành
khoá luận này.

2



Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

chương I
Một số vấn đề cơ bản về khu công nghiệp, khu chế xuất
I. Các khái niệm

Xu thế hội nhập, toàn cầu hoá cùng với sự tiến bộ của khoa học công
nghệ trong thập kỷ tới sẽ làm gia tăng một cách nhanh chóng sức ép cạnh
tranh đối với từng nền kinh tế, kể cả những nước công nghiệp phát triển ,
những nước công nghiệp mới và những nước công nghiệp đang phát
triển.Tình hình đó đã đặt nền kinh tế Việt Nam trước những thử thách mới
cũng như những cơ hội mới. Để vượt qua những thử thách này đồng thời tận
dụng được những cơ hội mới, nền kinh tế Việt Nam cần thu hút được mọi
nguồn đầu tư có thể từ cả trong nước lẫn nước ngoài nhằm thông qua đó nâng
cao khả năng cạnh tranh của toàn nền kinh tế.
Việt Nam cũng đã quan tâm đến việc nghiên cứu, ứng dụng khu công
nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) ngay từ những năm đầu thập kỷ 90. Với ý
nghĩa là công cụ thu hút vốn đầu tư nước ngoài (Fdi) và khuyến khích hoạt
động sản xuất xuất khẩu của các KCN, KCX ở nước ta đã có những bước
phát triển tương đối tốt. Để tạo điều kiện cho mục đích nghiên cứu sâu hơn về
KCN, KCX, chúng ta hãy xem xét một số định nghĩa , khái niệm của các tổ
chức trên thế giới.
1. Khu công nghiệp

Tổ chức phát triển của Liên hợp quốc đã định nghĩa như sau: KCN
(Industrial Zone, Industrial Park) hay còn gọi là KCN tập chung là một quần

thể liên hoàn các xí nghiệp xây dựng trên một vùng có thuận lợi về các yếu tố
địa lý, tự nhiên, về kết cấu hạ tầng, về xã hội . . . để thu hút đầu tư (chủ yếu là
đầu tư nước ngoài) và hoạt động theo một cơ cấu hợp lý các doanh nghiệp
công nghiệp và các doang nghiệp dịch vụ nhằm đạt hiệu quả cao trong sản
xuất và kinh doanh.

3


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

KCN là một hình thức tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn
gắn liền phát triển công nghiệp với xây dựng kết cấu hạ tầng và hình thành
mạng lưới đô thị, phân bố dân cư hợp lý.Do đó việc phân bố KCN phải đảm
bảo những yêu cầu sau:
Thứ nhất, có khả năng xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có hiệu quả,
có đất để mở rộng và nếu có thể liên kết thành các cụm công nghiệp.Quy mô
KCN và quy mô xí nghiệp công nghiệp phải phù hợp với đặc điểm công nghệ
chính gắn liền với kết cấu hạ tầng.
Thứ hai, có khả năng cung cấp nguyên vật liệu trong nước hoặc nhập
khẩu tương đối thuận lợi, cự ly vận tải thích hợp.
Thứ ba , có thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Thứ tư, có khả năng đáp ứng nhu cầu lao động cả về số lượng và chất
lượng với chi phí tiền lương thích hợp.
2. Khu chế xuất

Khu chế xuất (Export Processing Zone) là từ gọi tắt của khu chế biến
xuất khẩu. Nó được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau thậm chí cả định nghĩa

khác nhau. KCX là một khu vực chuyên môn hoá, được xây dựng chủ yếu
cho sản xuất hàng xuất khẩu và là một khu vực biệt lập đứng ngoài khu vực
mậu dịch cũng như chế độ thuế quan của một nước trong đó thực hiện chế độ
mậu dịch tự do .Theo nghĩa rộng, KCX bao gồm tất cả những khu vực được
chính phủ cho phép như các cảng tự do, các khu vực mậu dịch tự do, các khu
vực phi thuế quan, các khu vực công nghiệp tự do hay khu vực ngoại thương.
Theo nghĩa hẹp, khái niệm về KCX chỉ giới hạn cho một khu vực cụ thể riêng
biệt được quy định rõ ranh giới và mọi sự di chuyển của các luồng hàng hoá
hay dịch vụ ra hoặc vào khu vực đó đều được kiểm soát chặt chẽ.
Như tên gọi của nó cho thấy, một KCX chủ yếu liên quan đến các hoạt
động sản xuất công nghiệp mặc dầu các hoạt động kinh doanh cũng được thực
hiện tại một số KCX. Do vậy thuật ngữ KCX tỏ ra thích hợp hơn cả so với

4


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

những thuật ngữ như khu vực mậu dịch tự do hay khu vực xuất khẩu tự do.
Tuy nhiên dù dưới tên gọi nào, hoạt động chủ yếu tại các KCX vẫn là hoạt
động chế tạo chứ không phải là hoạt động mua bán, cho nên để tránh nhầm
lẫn, một thuật ngữ như nhau sẽ được áp dụng như nhau cho các KCX tại tất
cả các nước.
Mặc dù KCX ở từng nước có những quy định cụ thể khác nhau song
những đặc trưng sau đây được coi là những đặc điểm của một KCX điển
hình:
• KCX là một khu đất thuộc lãnh thổ của một nước được quy hoạch
riêng ra, thường được ngăn bằng tường rào kiên cố để tách biệt hoật động với

phần nội địa.
• Mục đích hoạt động của các KCX là thu hút các nhà sản xuất công
nghiệp nước ngoài và trong nước định hướng sản xuất xuất khẩu băng những
biện pháp đặc biệt ưu đãi về thuế quan, về các điều kiện mậu dịch và các loại
thuế khác.
• Hàng hoá, tư liệu sản xuất nhập vào KCX để sản xuất hàng xuất khẩu
được miễn thuế hải quan, nếu nhập khẩu từ KCX vào nội địa phải nộp thuế
nhập khẩu.
• Những hãng hoạt động trong KCX được sử dụng cơ sở hạ tầng tốt như
đường giao thông, thông tin liên lạc, cung cấp điện nước . . . và giảm thiểu
các thủ tục hành chính.
• Hàng hoá sản xuất ra ở các KCX chủ yếu để xuất khẩu.
• Do đóng một vai trò to lớn trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài
cho nên mô hình KCX được rất nhiều quốc gia áp dụng, phát triển hoặc cải
tiến cho phù hợp với điều kiện của quốc gia mình.
3. Điểm giống và khác nhau giữa KCN và KCX

5


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

KCN về cơ bản cũng giống như KCX đều là địa bàn sản xuất công
nghiệp mà phần lớn là công nghiệp tiêu dùng, đều gồm những doanh nghiệp
vừa và nhỏ, được xây dựng ở những khu không có dân cư sinh sống.
Tuy vậy, điểm khác nhau cơ bản của hai loại hình này là: sản phẩm sản
xuất ra trong KCX chủ yếu phải xuất khẩu còn sản phẩm của KCN vừa xuất
khẩu vừa tiêu thụ ở thị trường nội địa; quan hệ giữa các doanh nghiệp KCX

và thị trường nội địa là quan hệ ngoại thương, còn quan hệ giữa doanh nghiệp
KCN với thị trường nội địa là quan hệ nội thương. Hơn nữa, xét trên góc độ
thị trường quốc tế, KCX có thể được coi là khu thương mại tự do vì không có
thuế xuất nhập khẩu lại ít ràng buộc bởi các biện pháp phi thuế quan.
KCX là hình ảnh của một thể chế pháp lý đơn giản, rõ ràng trọn gói
trong một bộ luật của KCX đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư một cách
thoả đáng, tạo sự an toàn, yên tâm đầu tư cho họ.
Các nước tiếp nhận FDI đều muốn duy trì hình thức KCN vì nó là một
trong các công cụ hữu hiệu để đẩy mạnh xuất khẩu, hoạt động của nó kéo
theo khả năng tăng thu ngoại tệ, tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho
lao động trong nước, tạo điều kiện cho các công ty địa phương tiếp thu kiến
thức và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, nâng cao trình độ tay nghề, kỹ năng và
tác phong công nghiệp của công nhân địa phương. Mặt khác, các xí nghiệp
trong KCN không trực tiếp sử dụng thị trường nội địa nên sẽ không xảy ra
cạnh tranh giành thị trường với các xí nghiệp thuộc các khu vực kinh tế khác
trong nước. Chính phủ không phải lo cân đối ngoại tệ cho các xí nghhiệp
này.Qua quá trình hoạt động trong KCN, các nhà sản xuất và quan chức địa
phương có thể nâng cao khă năng nắm bắt và đáp ứng một cách chính xác
những yêu cầu từ phía nhà đầu tư cũng như thị trường quốc tế. Ngoài ra, KCN
có thể có những ảnh hưởng phô diễn, bằng cách cho thấy lợi ích từ quan điểm

6


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

mở cửa trong thương mại và từ những ảnh hưởng hướng ngoại của sản xuất
đối với một nền kinh tế vốn có truyền thống hướng nội.

Các nhà đầu tư nước ngoài lại thích hình thức KCN hơn vì nó giúp họ
tân dụng được một thị trường rộng lớn của nước tiếp nhận đầu tư với những
ưu đãi đặc biệt.
II. Vai trò của KCN,KCX trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta
1. KCN,KCX là công cụ quan trọng để thu hút vốn ĐTNN, tiếp thu
chuyển giao công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế
giới.

KCN, KCX ra đời như một công cụ hữu hiệu đẩy nhanh khả năng thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI để đạt được tốc độ tăng trưởng cao
trên cơ sở tạo lập năng lực sản xuất mới và phát huy có kết quả nền kinh tế
đất nước của các nước đang phát triển trong xu thế quốc tế ngày nay. Chẳng
hạn ở Đài Loan, trong những năm đầu phát triển KCN đã thu hút khoảng 60%
vốn FDI; ở Malaixia trong 10 năm từ 1985 đến năm 1996 đã có 8.978 dự án
đầu tư về công nghiệp đã được cấp giấy phép vào 12 KCX và 178 KCN với
tổng số vốn đầu tư 85,57 tỷ USD, trong đó vốn FDI chiếm 53,3%, vốn trong
nước chiếm 46,5%.[6]
Bên cạnh việc thu hút vốn ĐTNN, một số đóng góp rất lớn nữa của
KCN, KCX đối với các nước đang phát triển là góp phần vào việc tiếp thu
công nghệ hiện đại. Để tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế
giới và thị trường nội địa, các nhà ĐTNN thường đưa vào các KCN, KCX các
công nghệ tương đối hiện đại thậm chí là tiên tiến, hàng đầu thế giới. Mặc dù
ở các KCN, người ta thường chủ yếu thực hiện các hoạt động sản xuất tiêu
dùng song quá trình huyển giao công nghệ vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức:
đào tạo công nhân nước chủ nhà để sử dụng máy móc thiết bị, công nghệ sản
xuất...Các công ty trong các KCX có thể chuyển giao một số công nghệ và
giúp đỡ về mặt kỹ thuật cho các nhà cung cấp địa phương hoặc các công ty
7



Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

sản xuất các chi tiết sản phẩm sản xuất trong KCX. Trong thời gian làm viêc
trực tiếp với phía nước ngoài, các chuyên gia, kỹ sư thậm chí công nhân của
nước chủ nhà cũng có cơ hội học hỏi được kinh nghiệm tổ chức quản lý điều
hành sản xuất tiên tiến. kỹ thuật marketing...của họ.Như vậy, KCN, KCX góp
phần đào tạo nghề, cách thức quản lý cho các xí nghiệp trong nước.
2. KCN, KCX góp phần tạo công ăn việc làm

Hoạt động của KCN, KCX đòi hỏi một lực lượng lao động tương đối
lớn từ nước chủ nhà, chính vì vậy rất nhiều người lao động trong nước có cơ
hội có công ăn việc làm. Ngoài ra việc xây dựng các xí nghiệp sản xuất, dịch
vụ hỗ trợ bên ngoài đã giải quyết được một số lượng lao động khá lớn cho các
vùng lân cận. Đến nay, chỉ tính riêng tổng số lao động đang làm việc trong
các KCX trên thế giới đã vào khoảng 4-5 triệu người (con số này ngày càng
tăng nhanh so với giữa thập kỷ 80 chỉ có 0,5 triệu người). Riêng khu vực
Châu á là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất, chiếm tới 76% tổng số việc làm
được tạo ra. [2]
Bên cạnh việc nâng cao mức thu nhập cho người lao động, trình độ lao
động của công nhân cũng như trình độ quản lý của cán bộ cũng được nâng
cao do chương trình đào tạo của phía đối tác nước ngoài và tự do đào tạo để
phù hợp với yêu cầu về nguồn nhân lực hoạt động trong KCN, KCX.
3. KCN, KCX góp phần đẩy mạnh xuất khẩu tăng thu ngoại tệ cho đất
nước

Một trong những mục tiêu quan trọng được đặt ra khi xây dựng các
KCN, KCX góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất

nước.Trên thực tế hoạt động của KCN, KCX ở các nước, đặc biệt là các nước
châu á, đã thực hiện thành công mục tiêu này, điển hình là Đài Loan , Trung
Quốc, Malaixia, Hàn Quốc.
Theo thống kê của hiệp hội KCX thế giới thì một KCX diện tích
khoảng 100 ha, cần đầu tư 50 triệu USD cho cơ sở hạ tầng, trong vòng 10

8


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

năm sẽ tạo việc làm cho 10.000 lao động, từ đó tạo ra hàng xuất khẩu giá trị
100 triệu USD/năm và 100 triệu USD/năm thu nhập thông qua việc làm gián
tiếp ngoài kcx, như vậy tính bình quân một công nhân trong KCX tạo ra giá
trị khoảng 5000-10000 USD/năm.[3]
Ngoài ra phát triển KCN,KCX còn tạo điều kiện tăng thu ngoại tệ cho
đất nước thông qua việc cho thuê đất đai, kho bãi, bến cảng và các công trình
cơ sở hạ tầng khác. Việc tổ chức và dịch vụ trong KCN, KCX, thu một số loại
thuế cần thiết như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đối với người có thu nhập
cao, phí và các khoản lệ phí khác cũng tạo ra nguồn thu đáng kể cho ngân
sách nhầ nước.
4. Phát triển KCN, KCX tạo ra sự tác động trở lại đối với sự phát triển
kinh tế trong nước

Phát triển KCN,KCX tạo ra sự tác động trở lại đối với sự phát triển
kinh tế thông qua việc sử dụng nguyên vật liệu trong nước, thực hiện lắp ráp
và chế biến cho các KCX qua đó tạo điều kiện để khai thác hợp lý, có hiệu
quả các nguồn tài nguyên trong nước cũng như lợi hế so sánh của các nước có

KCN,KCX .Thông qua việc lắp ráp và chế biến thành phẩm cho KCN, KCX
số lao động tăng lên đáng kể qua đó góp phần giải quyết việc làm cho xã hội.
Ngoài ra, KCN, KCX còn có ảnh hưởng trực tiếp, cũng như gián tiếp
tới việc quảng cáo cho quan điểm mở cửa trong thương mại và đầu tư của
nước chủ nhà vốn có truyền thống hướng nội. Việc phát triển KCN, KCX tạo
điều kiện để nước chủ nhà tiếp cận nhanh chóng với thị trường quốc tế, thu
hẹp những thay đổi về cơ cấu mẫu mã hàng hoá qua những thông tin mà nền
kinh tế nhận được từ phương diện các doanh nghiệp trong KCN, KCX, lợi
dụng được các mối quan hệ quốc tế sẵn có và mạng lưới khách hàng của phía
đối tác để tăng khả năng hoà nhập của thị trường trong nước vào thị trường
thế giới.

9


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

III.Quá trình hình thành và mô hình quản lý KCN, KCX
1. Quá trình hình thành các KCN, KCX

Kể từ khi Nghị định 322/HĐBT được ban hành về quy chế KCX ngày
18 tháng 10 năm 1991 đến nay, Chính phủ đã ban hành 3 Nghị định bao gồm:
322/HĐBT ban hành quy chế KCX, Nghị định 192/CP ban hành quy chế
KCN ngày 18 tháng 12 năm 1994 và nghị định 36/CP ngày 24 tháng 04 năm
1997 ban hành quy chế KCN, KCX thay thế hai nghị định 322/HĐBT và
192/CP.
Hiện nay, Ban quản lý các KCN, KCX Việt Nam đang theo dõi, tổng
hợp những nhận xét và kiến nghị sửa đổi, bổ xung các quy định trong Nghị

định 36/CP của các Bộ, ngành, địa phương.Trong thời gian tới, những thay
đổi theo hướng tích cực chắc chắn sẽ được thực hiện.
Từ năm 1991 đến nay,kết quả của việc thực hiện đường lối , các Nghị
quyết, các chính sách của Đảng, Nhà nước, chúng ta đã đạt được kết quả to
lớn đó là trên toàn lãnh thổ Việt Nam có 120 KCN trong đó gồm 73 KCN và
KCX đã đi vào hoạt động, số còn lại đang triển khai. Ba KCX đã được thành
lập đó là Hải Phòng, LinhTrung, Tân Thuận.[4]
2. Mô hình quản lý các KCN, KCX ở nước ta hiện nay

ở Trung Ương, chúng ta có Ban quản lý các KCN Việt Nam có nhiệm
vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, Ban này cũng có nhiệm vụ
xây dựng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và chính sách, đồng thời ban hành
các văn bản pháp quy hướng dẫn Th
cácủngành
tướng và các địa phương tổ chức thực
chính phủ
hiện.
Tại các tỉnh thành phố, chúng ta có các Ban quản lý KCN cấp tỉnh,
thànhCác
phố.
trựcqutiếp
các
KCN, KCX trong
phạm
ản lý
các
UBND
cấvi
p địa
cơĐây

quanlàBcơ
ộ, quan quản lýBan
KCN Việt Nam
thành phố, cấp
Banchính
, ngành
lý hành
củaTW
mình.
tỉnh
Cuối cùng chịu sự quản lý trực tiếp của các Ban quản lý KCN cấp tỉnh
là các KCN.

Ban quản lý các
KCN cấp tỉnh

10
Khu công nghiệp,
khu chế xuất


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

IV.Một số kinh nghiệm của các khu vực về hình thành và phát triển KCN,
KCX có thể áp dụng ở Việt Nam

Ngày nay, ĐTNN đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài là một đặc
điểm nổi bật trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới.

Để hoạt động tư trực tiếp nước ngoài đem lại hiệu quả như mục tiêu mà họ
theo đuổi, các nước tiếp nhận FDI đều cố gắng đa dạng hoá các hình thực tiếp
nhận FDI. Một trong những hình thức tiếp nhận FDI có hiệu quả mà rất nhiều
nước trên thế giới hiện nay đang áp dụng là mô hình KCN, KCX, đặc biệt là ở
các nước đang phát triển nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Chính vì vậy, trong mấy thập kỷ qua, riêng ở Châu á - Thái Bình
Dương đã cho ra đời hàng trăm KCN, KCX. ở Indonexia có 41121 ha đất
được dùng vào việc xây dựng các KCN, Philipin đã mở 54 KCN trong đó có
41 khu đang hoạt động, 7 khu đang xây dựng, 6 khu đang quy hoạch phát
triển. Đặc biệt Malaixia có tới 165 KCN, trong đó 85 khu đang hoạt động, 80
khu khác đang trong quá trình phát triển. Đài Loan là một trong những nước
đi đầu xây dựng các KCN, KCX, qua gần 40 năm đến nay đã xây dựng được
3 KCX, 80 KCN và 2 KCNC. ở Thái Lan hiện nay cũng có 40 KCN tổng hợp
phân bố khắp cả nước. [6]
11


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

Tuy nhiên, theo thực tế của nhiều nước trên thế giới về tổ chức KCN,
KCX cho thấy số lượng các KCN, KCX thành công thì ít mà thất bại thì
nhiều. Theo số liệu đã tổng kết, hiện tại trên thế giới có khoảng 200 KCN
đang hoạt động nhưng chỉ có khoảng 30-35 khu được đánh giá là thành công
(chiếm khoảng 20%), không dưới 150 khu gặp khó khăn do sự quản lý trì trệ
và luật lệ phiền hà. Điều đó cho thấy rằng tổ chức thành công một KCN hay
một KCX là vấn đề hoàn toàn không đơn giản. Chính vì vậy, việc tổng kết
những kinh nghiệm thành bại của các nước trong quá trình xây dựng các

KCN, KCX là việc làm rất cần thiết giúp mỗi quốc gia lựa chọn bước đi trong
việc tổ chức các KCN, KCX cho phù hợp điều kiện quốc gia mình. Đó là
nghệ thuật vận dụng kinh nghiệm của nước ngoài vào tổ chức các KCN, KCX
của mỗi quốc gia nhằm tránh được những sai lầm đáng tiếc mà các quốc gia
đi trước mắc phải.
1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Trong các nước Châu á, Hàn Quốc được thừa nhận là một trong các
nước đạt được nhiều thành công nhất trong việc xây dựng và phát triển
KCX.Suốt một quá trình kể từ năm 1970 là năm đánh dấu việc KCX đầu tiên
ra đời cho đến nay, các KCX của Hàn Quốc đã góp phần quan trọng trong
việc tạo ra “kỳ tích kinh tế” của nước này và thu hút nhiều đoàn khảo sát của
các nước đang phát triển trên thế giới đến tham quan , học tập.
Nhờ chuyển từ chiến lược hướng nội sang chiến lược phát triển hướng
ngoại bắt đầu từ đầu thập kỷ 60, xuất khẩu của nước này đã tăng từ dưới 100
triệu USD năn 1963 tới 1 tỷ USD năm 1970. Khi ấy, vào những năm 70, nước
này vẫn còn chưa biết rằng, họ có thể trở thành một nước xuất khẩu các sản
phẩm chế biến chủ yếu hay không nếu có dòng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
vào những hoạt động xuất khẩu chọn lọc. Họ cũng chưa biết được hệ thống
nhập khẩu miễn thuế trên cả nước có thể hiệu quả hay không trong việc thu
hút đầu tư nước ngoài nếu các KCX không được thành lập. Hàn Quốc đã sử

12


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

dụng tất cả các công cụ có thể bao gồm cả KCX và tất cả các dự trữ có thể sử

dụng vào đường lối phát triển hướng ngoại của họ. Chính phủ đã thành lập 2
KCX: Masan(1970) và iri(1974) để thu hút đầu tư vào hoạt động xuất khẩu.
Sau đó, nhiều KCX khác đã được xây dựng thêm.
Thành công của các KCX của Hàn Quốc chủ yếu là nhờ vào khả năng
thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài (đa số các nhà đầu tư nước ngoài năm
1970 đều ở các KCX).Ngoài ra, các KCX cũng biết tạo điều kiện thuận lợi
cho các công ty địa phương tiếp xúc với các nhà đầu tư nước ngoài, hấp thụ
các kỹ năng mới nhất của nước ngoài và mở rộng mối quan hệ với thị trường.
Sự đóng góp của các nhân tố trong nước và việc mở rộng xuất khẩu cũng rất
gây ấn tượng và vượt xa sự mong đợi của các nhà hoạch định chính sách,
những người đã đánh giá quá thấp những kỹ năng sản xuất và quản lý của
công nhân và các nhà quản lý Hàn Quốc. Những kỹ năng này được tiếp thu
trong thời kỳ thuộc địa của Nhật và thông qua những mối liên hệ quân sự với
Mỹ trong giai đoạn 1945-1960. Nhờ có những kỹ năng sản xuất-xuất khẩu và
khả năng quản lý trong nước này (cái mà hầu hết các nước đang phát triển đều
thiếu) mà ngày nay, Hàn Quốc đã có thể dựa chủ yếu vào các công ty thương
mại nước ngoài để đảm bảo các dự trữ tài chính. Chính nhờ vào các khả năng
này đã giúp cho Hàn Quốc không chỉ trở thành người cạnh tranh thống trị
trên thị trường thế giới về xuất khẩu và các chế phẩm công nghiệp nhẹ trong
những năm 1960-1970 mà cho đến nay nước này vẫn tiếp tục giữ vị trí hàng
đầu thế giới trong sản xuất nhiều mặt hàng công nghiệp nhẹ như hàng may
mặc, mỹ phẩm cao cấp,... Để đảm bảo sự phát triển bền vững và lâu dài từ
nay về sau , Hàn Quốc đang hết sức nỗ lực để phát triển các KCX mạnh hơn
nữa bằng cách thay đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng tỷ lệ công nghiệp
nặng trong giá trị sản lượng công nghiệp của KCX đồng thời tập chung vào
các mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao.[1]
2. Kinh nghiệm của Đài Loan

13



Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

Có thể nói Đài Loan là một trong những quốc gia vừa đi tiên phong vừa
gặt hái được rất nhiều thành công trong việc xây dựng và phát triển KCN,
KCX. Từ cuối những năm 50, các nhà hoạch định chính sách kinh tế Đài
Loan đã đánh giá cao vị thế của Đài Loan trong hệ thống kinh tế khu vực.
Theo họ, Đài Loan thuộc loại hình kinh tế hải đảo, đất hẹp người đông, tài
nguyên khoáng sản nghèo nàn, mức độ phụ thuộc của nền kinh tế trong nước
vào hoạt động ngoại thương rất lớn. Vì vậy, để tồn tại và phát triển thì việc
hình thành một cơ cấu kinh tế hướng ngoại mang ý nghĩa sống còn đối với
Đài Loan.
Để có một cơ cấu kinh tế hướng ngoại, Đài Loan không thể dựa vào
phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp mà phải dựa vào phát triển công nghiệp.
Quốc gia này đã lựa chọn cho mình một phương thức thích hợp để phát triển
công nghiệp và tiến hành công nghiệp hoá. Xuất phát từ đặc điểm trong nước
và tình hình kinh tế thế giới, từ những năm 50 và thập kỷ 60 Đài Loan đã chủ
trương phát triển các ngành công nghiệp nhẹ sản xuất hàng xuất khẩu, sử
dụng nhiều lao động. Ngoài ra cũng trong thời gian này, Đài Loan đã tạo ra
một hệ thống miễn thuế và rút lại thuế tuyệt vời, tiếp theo đó đã thực hiện cải
cách tỷ giá hối đoái và chính sách kinh tế vĩ mô. Kết hợp với việc học hỏi
kinh nghiệm từ các KCN của Puerto Rico chỉ trong thời gian 1959-1965 hàng
loạt các xí nghiệp mới được xây dựng với quy mô vừa và nhỏ tập trung trong
những lĩnh vực nhất định gọi là KCN, KCX dưới sự quản lý của chính quyền.
KCX đầu tiên của Đài Loan xây dựng năm 1966 mang tên KCX Cao Hùng.
Mục tiêu cơ bản khi thành lập KCX này là: tạo ra một cửa sổ có tính phô diễn
nhằm thu hút đầu tư vào những ngành công nghiệp hướng ra xuất khẩu; thử
nghiệm việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính; là một cơ sở giảng dạy, hỗ

trợ hợp tác quốc tế. KCX Cao Hùng đến năm 1970 đã có 162 công ty và
khoảng 40.000 công nhân. Các xí nghiệp trong KCX có rất nhiều thuận lợi:
điều kiện hạ tầng kỹ thuật (điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc ...) hoàn

14


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

hảo; được hưởng nhiều ưu đãi về tài chính như được miễn, giảm thuế một số
năm, được hưởng mức thuế rất thấp,..
Trong hơn 30 năm qua, hoạt động của các KCN, KCX đã đóng vai trò
rất quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Đài Loan. Đại bộ phận giá trị hàng xuất khẩu (22 tỷ USD) được sản xuất
trong các KCN, KCX.
Kể từ năm 1966 đến nay, Đài Loan đã xây dựng được 3 KCX, 80
KCN và 2 KCNC. Riêng 3 KCX và 2 KCNC hàng năm đã xuất khẩu khoảng
24 tỷ USD.
Phần lớn các KCN, KCX ở Đài Loan do nhà nước trực tiếp đầu tư xây
dựng hạ tầng kỹ thuật, còn lại do tư nhân và các tổ chức đoàn thể xây dựng.
Hiện nay Bộ kinh tế (Cục công nghiệp) thống nhất quản lý nhà nước đối với
các KCN theo nguyên tắc chính quyền trung ương trực tiếp quản lý các khu
quan trọng nhất nằm trong quy hoạch được chính phủ trung ương phê duyệt,
các khu còn lại do trung ương hoặc tư nhân quản lý. Loại hình KCN rất đa
dạng bao gồm các KCN chuyên ngành dầu khí, ôtô, xi măng, công nghệ cao,..
Điểm nổi bật trong vấn đề phân bố các KCN của Đài Loan là ở chỗ
huyện nào cũng có KCN, mỗi KCN là một “hạt nhân” thúc đẩy mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh trong vùng.

Trong những năm tới, Đài Loan tiếp tục tiến hành đổi mới thiết bị kỹ
thuật, thay đổi ngành nghề trong các xí nghiệp và hiện đại hoá hạ tầng kỹ
thuật các KCN hiện có, tiếp tục xây dựng một số KCN đế đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế của Đài Loan trong thế kỷ 21.
Qua thực tiễn xây dựng và phát triển KCN, KCX và KCNC ở Đài
Loan chúng ta đúc rút được rất nhiều kinh nghiệm quý có thể xem như là
những gợi ý để chúng ta tham khảo: muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với
tốc độ cao và hiệu quả nhất thiết phải đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển
các KCN (bao gồm cả KCX và KCNC). Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của
từng tỉnh trong cả nước mà có thể tiến hành xây dựng một hoặc vài KCN,
15


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

thậm chí từng huyện cũng nên có KCN. Tuy nhiên vấn đề cốt lõi là ở chỗ phải
làm tốt công tác quy hoạch phát triển công nghiệp nói chung và quy hoạch
hình thành các KCN trên phạm vi cả nước đảm bảo tính thống nhất và mối
liên hệ liên hoàn, tương hỗ trong phát triển giữa các KCN với các hoạt động
sản xuất kinh doanh khác như nông, lâm, ngư nghiệp. Trong quá trình đô thị
hoá phải xác định rõ mục tiêu xây dựng mỗi KCN là một trung tâm có tác
dụng lan toả thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế xã hội trong vùng theo chiều
hướng kinh tế mở.[1]
3. Kinh nghiệm của Philipine

Philipine là nước điển hình không thành công trong việc xây dựng và
phát triển KCX. Năm 1967, Philippin đưa ra đạo luật về thành lập Cục quản
lý Khu mậu dịch tự do(Free Trade Zone). Năm 1969, Philipine quyết định

chuyển đô thị Mariveles thành một cảng nhập cảnh và thành lập cơ quan chịu
trách nhiệm về ngoại thương để lập kế hoạch phát triển và quản lý KCX
Bantaan. Tuy nhiên, phải đến năm 1972, KCX mới chính thức tuyên bố mở
cửa. Trong những năm 70, chính quyền Philipin cũng chính thức bắt tay xây
dựng thêm hai KCX nhỏ, một ở đảo Mactan và một ở cạnh thành phố
Banguio. Hai khu này đến tận năm 1980 mới đặt ra đầy đủ những mục tiêu
của một KCX. Cho đến nay, Philipine có thêm 4 KCX khác. Trong đó, KCX
Bataan là KCX lớn nhất và tiêu biểu nhất trong quá trình phát triển KCX của
Philipine.
KCX Bantaan có diện tích 345 ha gần thị trấn Mariveles, cách Malina
55 km trong đó 345 ha dành cho khu vực sản xuất công nghiệp, 375 ha dành
cho nơi ở và phương tiện, 480 ha vẫn để trống.
Mục tiêu thành lập KCX Bantaan là nhằm di chuyển các ngành công
nghiệp từ vùng thành thị, đô thị chật chội sang các vùng nông thôn, đa dạng
hoá sản phẩm, chuyển từ xuất khẩu hàng truyền thống sang xuất khẩu sản
phẩm phi truyền thống và thu hút ĐTNN vào Philipine .

16


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

Sau hơn 10 năm hoạt động KCX Bantaan được đánh giá là không
thành công, hầu hết các mục tiêu đặt ra khi thành lập đều không thực hiện
được: số lao động làm việc trong KCX thấp, thu nhập ngoại tệ không đáng kể,
chuyển giao công nghệ không được bao nhiêu, liên kết kinh tế không lớn và
bị gián đoạn, không thu hút được vốn ĐTNN. Về phương diện chi phí - lợi
ích thì lợi ích do KCX Bantaan mang lại không thể bù đắp lại các chi phí bỏ

ra trong hiện tại và tương lai. Cho đến năm 1982, chi phí bỏ ra cho cơ sở hạ
tầng là 195 triệu USD trong khi thu nhập chưa đạt 50% con số đó.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của KCX Bataan. Thứ
nhất việc lựa chọn xây dựng KCX chưa thích hợp: KCX được xây dựng ở bờ
biển, núi non biệt lập kém phát triển do vậy để xây dựng phải san bằng một số
đồi, xây dựng đường xá, cảng khẩu và các phương tiện khác, hơn nữa số
doanh nghiệp ở đây vốn chỉ có hơn 5.000 người vì vậy phải di dân từ các
vùng lân cận đến, điều đó đòi hỏi phải xây dựng cơ sở hạ tầng khá lớn làm
cho chi phí kết cấu hạ tầng tăng nhanh.
Thứ hai, chi phí xây dựng KCX Bataan rất lớn nhưng từ khi thành lập
khu này chỉ thu hút được khoảng một nửa số công ty vào hoạt động so với dự
kiến. Điều này làm cho chi phí sử dụng ngày càng tăng so với mức bình
thường.
Thứ ba, ngay sau khi KCX Bataan được thành lập, chính phủ
Philippine đã có một số thay đổi về chính sách mở rộng kho hàng thuế quan.
Kế hoạch này không chỉ áp dụng cho KCX Bataan mà còn áp dụng cho các
KCX khác, quyết định đó làm cho việc tổ chức KCX Bataan trở nên thừa vì
quyết định này thúc đẩy việc sản xuất hàng xuất khẩu ở phạm vi rộng hơn
KCX Bataan đồng thời nó góp phần thúc đẩy sản xuất hàng công nghiệp bên
ngoài KCX.
Nguyên nhân thứ tư và cũng là một trong những nguyên nhân quan
trọng nhất là hệ thống chính sách không hợp lý: Nhiều xí nghiệp trong KCX
cho rằng một số khuyến khích về tài chính của họ bị giảm dần, ví dụ họ phải
17


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh


đóng thuế đất đai trong khi trước đó chính phủ đảm bảo là sẽ được miễn. Các
chi phí khuyến khích mà chính phủ áp dụng cho doanh nghiệp KCX không
cân xứng với chi phí cho kết cấu hạ tầng. Các chi phí dịch vụ và chi phí vận
tải quá cao, phiền hà về thủ tục, sự rút ngắn thời hạn hợp đồng cho thuê nhà
xưởng, nạn trộm cắp,...Tất cả những vấn đề đó gây mất lòng tin của các nhà
đầu tư dẫn đến ngày càng nhiều doanh nghiệp không thực hiện hợp đồng và
rút khỏi KCX cũng như không thu hút được các công ty xuyên quốc gia đầu
tư vào KCX.[1]
4. Một số nhận xét chung

Qua phân tích kinh nghiệm của một số KCN, KCX điển hình ở một số
nước trong khu vực như trên, chúng ta có thể rút ra một số một số nhận xét
chung khi xây dựng và phát triển một KCN, KCX.
Về nguyên nhân thành công:
Thứ nhất, môi trường chính trị, xã hội ổn định, chính sách nhất quán,
cởi mở.
Thứ hai, lựa chọn vị trí xây dựng thuận lợi, gần các đầu mối giao
thông (đường bộ, hàng không, hàng hải,...)
Thứ ba, có các chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư đặc
biệt về tài chính, thủ tục đơn giản, rõ ràng thuận lợi, thông tin liên lạc nhanh
chóng, cung cấp điện nước đầy đủ,...
Thứ năm, lao dộng dồi dào, có tay nghề, tiền lương hợp lý.
Thứ sáu, thời điểm xây dựng thích hợp.
Thứ bảy, môi trường cư trú sinh sống dễ chịu, an toàn và cơ sở vật
chất cho hoạt động vui chơi giải trí tốt .
Về nguyên nhân thất bại:
Thứ nhất, sự mất ổn định về chính trị trong nước khiến cho các nhà
ĐTNN không an tâm bỏ vốn.
Thứ hai, không phát huy hết năng lực sản xuất đã dự kiến.


18


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

Thứ ba, cơ sở hạ tầng trong khu yếu kém
Thứ tư, chính sách đầu tư kém hấp dẫn.
Thứ năm, tệ quan liêu, tham nhũng, thủ tục phiền hà.
Thứ sáu, thiếu lao động có tay nghề thích hợp.
Thứ bảy, sai lầm trong việc lựa chọn địa điểm xây dựng.
Cuối cùng là hàng loạt các nguyên nhân khác như công tác Marketing
còn kém, tổ chức quản lý hoạt động của Ban quản lý chưa hiệu quả...
Qua sự trình bày tổng hợp như trên về nguyên nhân thành công cũng
như thất bại khi triển khai xây dựng và đưa vào hoạt động một số KCN, KCX,
chúng ta có thể nêu ra đây một số vấn đề cơ bản, quan trọng mang ý nghĩa
sống còn mà mỗi quốc gia phải xác định rõ trước khi xây dựng KCN, KCX.
1.

Cần xác định rõ mục tiêu và sự cần thiết thành lập KCN, KCX.

Mỗi KCN, KCX khi được thành lập đều được gắn với những mục tiêu cụ
thể khác nhau, chính vì vậy cần phải xác định rõ chiến lược, mục tiêu nào
để có thể ban hành những qui định cho phù hợp. Thông thường, ở thời kỳ
đầu mới xây dựng KCN, KCX thì nên đặt ra ngay mục tiêu ngắn hạn, đến
khi nào đã phát triển ổn định thì sẽ đặt ra hay hướng tới những mục tiêu
lâu dài - mục tiêu chiến lược.
2.


Xác định rõ thời gian, địa điểm và quy mô xây dựng KCN,

KCX. Đây là những vấn đề quan trọng trong quá trình phát triển các
KCN, KCX bởi vì nó sẽ giúp tiết kiệm được chi phí triển khai và phù hợp
với khả năng tài chính cũng như quản lý của đất nước. Ngoài ra, cũng cần
phải biết trước hoặc dự đoán trước được xu hướng đầu tư để có thể tận
dụng được tâm lý và thời cơ đầu tư thuận lợi nhất .
3.

Cần phải làm tốt công tác xúc tiến, vận động đầu tư vào các

KCN, KCX. Công tác này cần phải được tiến hành một cách chủ động,
liên tục và hiệu quả, tránh thụ động (xây dựng KCN trước rồi mới tiến
hành nghiên cứu thị trường khách hàng đầu tư và lên kế hoạch tiếp thị,
quảng cáo,..)
19


Khoá luận tốt nghiệp
4.

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

Phải lựa chọn được các loại ngành công nghiệp, loại hình sản

phẩm phù hợp. Sản phẩm làm ra từ các KCN, KCX phải được định
hướng trước về thị trường tiêu thụ. Chúng phải có thị trường tiêu thụ
trong nước đồng thời có thể tìm được thị trường tiêu thụ trên thế giới.
Ngoài ra, sản phẩm làm ra từ các KCN, KCX phải tận dụng được các lợi
thế so sánh của nước chủ nhà, ví dụ lợi thế về tài nguyên hay nguồn nhân

lực.
5.

Cần phải xây dựng một hệ thống chính sách khuyến khích

tài chính đối với các nhà đầu tư, có sự ưu đãi thoả đáng.
6.Cần phải xây dựng được hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ như
đường giao thông, nhà xưởng, kho tàng, hệ thống điện, nước
7.Bộ máy quản lý KCN, KCX phải hoạt động tích cực, thực thi có
hiệu quả chế độ một cửa đối với các nhà đầu tư.
8.Cuối cùng phải lựa chọn đúng đối tác. Trong quá trình vận động
xúc tiến đầu tư, quảng cáo tiếp thị thường có nhiều nhà đầu tư đến tìm
hiểu, thăm dò, ký kết hợp đồng đầu tư vì vậy cần phải tìm hiểu lựa chọn
đúng đối tác có tiềm lực tài chính và thiện chí làm ăn.

Chương II
Thực trạng xây dựng và phát triển các KCN, KCX ở Việt
nam hiện nay
I.Vài nét về tình hình đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay

Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII chính
thức thông qua luật đầu tư nước ngoài (ĐTNN) ngày 29/12/1987 có hiệu lực
thực hiện từ đầu năm 1988 và đã qua 4 lần sửa đổi bổ xung năm 1990, 1992,
1996 và năm 2000. Ngay từ khi Luật này mới ra đời, nhiều nước và tổ chức
kinh tế nước ngoài đã đánh giá cao tính khả thi và cho rằng đây là một “sân
chơi hấp dẫn” nên đã có rất nhiều đối tác lần lượt đến với Việt Nam.

20



Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

Trong 14 năm qua, cùng với công cuộc đổi mới kinh tế, hoạt động
ĐTNN đã diễn ra rất sôi nổi và đạt được những kết quả bước đầu rất đáng
thuyết phục. Mặc dù Việt Nam thu hút FDI muộn hơn so với nhiều nước khác
trong khu vực, nhưng dòng FDI vào Việt Nam có chiều hướng tăng nhanh sau
ba năm đầu thực hiện luật thu hút FDI.
Nếu bình quân giai đoạn 1988-1990, Việt Nam chỉ thu hút được 1783
triệu USD (vốn đăng ký) thì các năm sau dòng vốn này đã liên tục tăng và
đạt tới 8836 triệu USD trong năm 1996.Tuy nhiên từ năm 1997, do tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính châu á và những yếu kém trong môi trường
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, dòng vốn này đã giảm mạnh và chỉ đạt được
gần 2000 triệu USD trong năm 1998. Tính đến tháng 8-1998, Việt Nam đã
thu hút được 37202 triệu usd trong đó vốn thực hiện mới đạt được 14120 triệu
usd, chiếm 38,2% vốn đầu tư đăng kí.[5]
FDI ở Việt Nam trong những giai đoạn này chủ yếu được thực hiện
theo các hình thức như: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, Doanh nghiệp liên
doanh, Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và BOT. Nhưng đến năm 1998
thì các dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực là 33960 dự án trong các hình
thức đầu tư trên.Tuy nhiên, FDI ở nước ta chủ yếu tập chung vào các ngành
công nghiệp, khách sạn và văn phòng căn hộ, chưa hướng vào phát triển các
KCN, KCX , KCNC.
Trong giai đoạn này, các ngành công nghiệp đã thu hút được FDI rất
lớn, đặc biệt là ngành dầu khí, thu hút được nhiều FDI nhất, gần 3000 triệu
usd vốn đăng kí trong đó vốn thực hiện lên tới 5000 triệu usd (đạt mức 167%
vốn đăng kí). Tiếp theo đó là ngành : Dệt may, viễn thông, ôtô, hoá chất, điện
tử. . .
Dòng vốn trong thời gian này chủ yếu đến từ khu vực Châu á-Thái

Bình Dương (23099 triệu usd chiếm 70,91% tổng FDI của cả nước, trong đó
FDI của các nước asean là: 7999 triệu usd chiếm 24,56%). Tiếp theo là Châu

21


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

Âu (6856 triệu usd chiếm 21,05%); Châu Mỹ (2574 triệu usd chiếm 7,9%) và
các nước khác (1399 triệu usd chiếm 4,3%).
Tuy nhiên từ năm 2000 trở lại đây, đầu tư nước ngoài ở Việt Nam rất
phát triển.Theo Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, trong hai tháng kể từ 31/06 đến
31/08/2002, đầu tư nước ngoài có chiều hướng gia tăng, cả nước đã có thêm
184 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng kí là 458 triệu
usd(kể cả vốn tăng thêm của dự án đang hoạt động) trong đó có 155 dự án là
100% vốn đầu tư nước ngoài với khoảng 435 triệu usd.[5]
Trong tổng số vốn đầu tư nứơc ngoài thực hiện trong 2 tháng này đạt
gần 292 triệu USD, thì khu vực 100% vốn đầu tư nước ngoài cũng dẫn đầu
với 67 triệu usd trong khi đó khu vực BOT đạt 40 triệu usd, khu vực dự án
liên doanh đạt 38 triệu USD (không kể 147 triệu usd thực hiện theo các hợp
đồng dâù khí). Sự lớn mạnh nhanh chóng của khu vực dự án 100% vốn
ĐTNN thể hiện tính cởi mở thông thoáng của môi trường đầu tư và môi
trường kinh doanh của Việt nam hiện nay.
Các dự án FDI đã đưa các ngành công nghiệp phát triển mạnh. Trong
đó, các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ được chú trọng và có nhiều
dự án đầu tư nước ngoài quan tâm. Sự phát triển nhanh của các ngành công
nghiệp (đặc biệt là sự phát triển của ngành công nghiệp nhẹ) đã thu hút được
số lượng lao động rất lớn làm giảm thiểu đội quân thất nghiệp trong nước.

Chẳng hạn như trong năm 2001, theo thống kê của từ Bộ Kế Hoạch và
Đầu Tư thì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong ngành
công nghiệp nhẹ thu hút 17000 lao động tăng 2000 người so với năm 2000,
chiếm 53% tổng số lao động trong số đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Theo đánh giá của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư cho thấy, mặc dù quy mô
dự án khá khiêm tốn, với trung bình 7 triệu usd/dự án nhưng ngành công
nghiệp nhẹ luôn thu hút nhiều lao động nhất trong khi đó đầu tư nước ngoài
trong các ngành công nghiệp nặng và xây dựng dù có quy mô đầu tư lớn trung
22


Khoá luận tốt nghiệp

Nguyễn T hị Thuý Hạnh

bình 12 triệu usd/1 dự án nhưng chỉ thu hút 19% tổng số lao động trong lĩnh
vực đầu tư nước ngoài.[6]
Trên thực tế, các dự án đầu tư nước ngoài được phê duyệt rất nhiều,
trong đó các dự án công nghiệp là tăng so với năm trước. Theo Bộ Kế Hoạch
và Đầu Tư tính đến giữa tháng 10-2000 có 2514 dự án có vốn đầu tư nước
ngoài còn hiệu lực với số vốn thực hiện trên 16,5 tỷ usd bằng 46,5% số vốn
đăng kí.
Trong đó, vốn đầu tư nước ngoài vào thành phố Hồ Chí Minh là lớn
nhất với: 4.178 tỷ usd tiếp đến là Hà Nội: 2.679 tỷ usd, Đồng Nai: 1.748 tỷ
usd, Hải Phòng: 873 triệu usd. . .Các nước có vốn đầu tư trực tiếp vào Việt
Nam thời kì này bao gồm: Nhật Bản: 2.356 tỷ usd, Đài Loan: xấp xỉ 2 tỷ usd,
Hàn Quốc: 1.837 tỷ usd, Singapore: 1, 8 tỷ usd, Hồng Kông: 1.333 tỷ usd.[6]

23



×