Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận môn quản lý nhà nước đô thị, vấn đề xã hội hóa dịch vụ công ở đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.56 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


TIỂU LUẬN
MÔN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÔ THỊ

ĐỀ TÀI:

XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ


Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9/2010

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
Chương I

3

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ

I. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Dịch vụ công
1.2. Xã hội hóa dịch vụ công
1.3. Đô thị
1.4. Chính quyền đô thị
II. Các loại dịch vụ công
2.1. Dịch vụ hành chính công
2.2. Dịch vụ sự nghiệp công
2.3. Dịch vụ công ích


III. Sự cần thiết phải xã hội hóa dịch vụ công ở đô thị
3.1. Yêu cầu khách quan
3.2. Yêu cầu chủ quan

4
4
4
4
4
4
5
5
5
6
6
6
7

Chương II
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ TRONG
THỜI GIAN QUA
9

I. Dịch vụ hành chính công
II. Dịch vụ sự nghiệp công
III. Dịch vụ công ích

9
11
12


Chương III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ
CÔNG Ở ĐÔ THỊ

15

I. Phương hướng
1.1 Quan điểm của Đảng
1.2. Định hướng
1.2.1. Định hướng chung
1.2.2. Định hướng đối với từng lĩnh vực
II. Các giải pháp
Kết luận

15
15
16
16
17
19
20

2


Tài liệu tham khảo

21


Lôøi noùi ñaàu
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thế kỷ 21 đã và đang chứng kiến sự thay đổi
và chuyển mình của nền hành chính công hiện đại với xu hướng đổi mới và thu
gọn vai trò, chức năng của Nhà nước nhằm hướng đến một nền hành chính hiệu
quả, vì mục tiêu phát triên kinh tế xã hội bền vững và vì con người. Trong đó,
xác định việc cung ứng dịch vụ công là một chức năng quan trọng của Nhà nước,
là nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước trước công dân.
Trên con đường xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế cùng với nỗ lực đẩy mạnh
công cuộc cải cách hành chính trên các lĩnh vực, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Đảng ta đã xác định “đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung
ứng các dịch vụ công cộng”; trong đó đổi mới vai trò, trách nhiệm của Chính
phủ và bộ máy hành chính nhà nước trong quản lý và tổ chức cung ứng dịch vụ
công gắn liền với chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công là một nhiệm vụ
quan trọng cần tập trung giải quyết. Chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2001-2010 của Chính phủ đặt ra yêu cầu: “Xây dựng quan
niệm đúng đắn về dịch vụ công. Nhà nước có trách nhiệm chăm lo đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân nhưng không phải vì thế mà mọi công việc về dịch
vụ công đều do cơ quan nhà nước trực tiếp đảm nhiệm. Trong lĩnh vực cần định
rõ những công việc mà Nhà nước phải đầu tư và trực tiếp thực hiện, những công
việc cần chuyển giao cho các tổ chức xã hội đảm nhiệm”.
Nhận thức được những chủ trương đó, trong thời gian qua, việc quản lý,
cung ứng dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công đã có những chuyển biến tích
cực và tạo được sự hưởng ứng đồng thuận từ phía xã hội và công dân, đặc biệt là
tại các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,…Tuy nhiên,
do dịch vụ công và xã hội hội hóa dịch vụ công vẫn còn là khái niệm khá mới
đối với Việt Nam nên việc nhận thức cũng như thực hiện còn nhiều lúng túng,
bất cập, chưa rõ ràng và thống nhất dẫn đến sự chậm trễ, vướng mắc trong việc
thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công của Đảng và Nhà nước
ta; gây trở ngại trong việc tiến tới xây dựng chính quyền đô thị ở các đô thị lớn

trong cả nước.

CHƯƠNG I
3


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ
-------I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1 Dịch vụ công: trên thế giới hiện nay có nhiều cách tiếp cận đối với
dịch vụ công, mỗi cách tiếp cận đều có ưu và nhược điểm riêng. Vì thế, không có
định nghĩa chung nhất nào về dịch vụ công. Trong bối cảnh thực tiễn Việt Nam
cùng với hướng tiếp cận về bản chất, chức năng và vai trò của nhà nước, có thể
đưa ra khái niệm về dịch vụ công như sau “dịch vụ công là những dịch vụ đáp
ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm
ổn định và công bằng xã hội do nhà nước chịu trách nhiệm, hoạt động không vì
mục tiêu lợi nhuận”.
1.2 Xã hội hóa dịch vụ công: là quá trình mở rộng sự tham gia của các chủ
thể xã hội và tăng cường vai trò của nhà nước đối với dịch vụ công
1.3 Đô thị: là các điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ yếu là lao
động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hơp, là trung tâm tổng hợp hay
trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội
của cả nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, của một huyện hoặc một vùng
trong tỉnh, trong huyện.
1.4 Chính quyền đô thị: được hiểu là chính quyền được cấu tạo chỉ có một
cấp (cơ quan quyền lực nhà nước là HĐND chỉ có ở cấp thành phố). Trách
nhiệm quản lý được tập trung vào cấp thành phố, cấp còn lại chỉ là cánh tay nối
dài, chứ không phải một cấp quyền lực khác. Chính quyền đô thị là chính quyền
có bộ máy quản lý tinh giản tối đa số lượng công chức, đơn giản hoá thủ tục
hành chính. Chính quyền đô thị được tự chủ về các vấn đề tài chính, đầu tư, nhân
sự và tự quyết định tất cả những vấn đề lớn. Chính quyền đô thị có bộ máy hành

chính được tổ chức tinh giản về mọi mặt. Bộ máy đó quy tụ nguồn nhân lực
được đào tạo bài bản, được tuyển chọn dựa trên các tiêu chí chủ đạo là tài năng
và đạo đức. Đó là một chính quyền ưu tú, có đội ngũ CBCC tận tâm và tuyệt đối
trong sạch, họ gây được ảnh hưởng tốt đến lối sống của toàn xã hội. Một nội
dung rất quan trọng của chính quyền đô thị là vấn đề phân quyền để làm rõ trách
nhiệm cá nhân. Đó là việc tập trung quyền lực cho người đứng đầu, phân rõ giới
hạn nhiệm vụ của mỗi vị trí trong bộ máy quản lý, hạn chế tối đa bộ phận trung
gian. Người đứng đầu chính quyền đô thị có quyền quyết định một cách nhanh
chóng, tức thì về nhiều vấn đề quan trọng của đô thị. Người đứng đầu thành phố
do người dân trực tiếp bầu (thường gọi là Thị trưởng). Thị trưởng được trao
quyền lực rộng lớn nhất, chịu trách nhiệm cao nhất trước dân về mọi mặt của đô
4


thị. Vai trò tổng tư lệnh cho phép thị trưởng điều hành tất cả các ban ngành thuộc
bộ máy quản lý của thành phố. Kể cả trong mọi tình huống cấp bách, thị trưởng
luôn có toàn quyền điều phối. Nhiều ý kiến cho rằng chính quyền đô thị là mô
hình mà ở đó “Nhà nước được thu nhỏ lại, tư nhân phình ra”. Nhà nước chỉ làm
chức năng quản lý, đề ra chính sách hợp lý, còn huy động người dân tham gia
phát triển TP; xây dựng trong người dân thói quen ứng xử đô thị, tuân thủ luật
pháp triệt để...
II. CÁC LOẠI DỊCH VỤ CÔNG
Tùy vào mức độ khác nhau về tính chất công cộng, vai trò trách nhiệm của
nhà nước và loại chủ thể thực hiện cung ứng dịch vụ công; có thể phân dịch vụ
công thành các loại cơ bản sau đây:
2.1 Dịch vụ hành chính công là những loại dịch vụ phục vụ chung cho mọi
người dân như cấp các giấy phép, giấy khai sinh, chứng minh thư, xác nhận hộ
tịch, hộ khẩu,…Đây là một loại dịch vụ gắn với công việc quản lý nhà nước; là
loại hoạt động quản lý mang tính phục vụ, đặt quyền lợi người dân lên trên, nhà
nước phải vì dân mà phục vụ. Dịch vụ hành chính công do các cơ quan hành

chính nhà nước đảm nhiệm. Trong một số trường hợp, các tổ chức cá nhân có thể
được thực hiện việc cung ứng này nhưng phải có sự ủy quyền của các cơ quan
hành chính nhà nước và phải tuân theo những quy định của pháp luật. Như vậy,
dịch vụ hành chính công là một dịch vụ cơ bản, không thể thiếu của dịch vụ
công, hơn nữa lại thể hiện trực tiếp nhất vai trò phục vụ của nhà nước trước công
dân.
2.2 Dịch vụ sự nghiệp công là loại dịch vụ cung cấp các hàng hóa dịch vụ
về giáo dục- đào tạo, chăm sóc sức khỏe, văn hóa tinh thần,…do các tổ chức sự
nghiệp cung ứng, không thu tiến hoặc có thu tiền một phần nhưng không vì mục
tiêu lợi nhuận. Là một dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người và do
các tổ chức chuyên ngành có chuyên môn sâu cung cấp như bệnh viện, trường
học,…Các hàng hóa cung cấp chủ yếu là hàng hóa phi hiện vật. Nếu dịch vụ
hành chính chỉ có thể thu lệ phí mang tính chất ước lệ, thể hiện quyền uy của nhà
nước hoặc đối với một số dịch vụ có chi phí phát sinh cần phải thu phú để bù đắp
thì đối với dịch vụ sự nghiệp do nhà nước cung cấp có thể chia thành các nhóm
bao gồm dịch vụ tối thiểu cung cấp cho đại đa số người dân và nhóm có thu tiền
nhưng không hoàn toàn theo giá cả thị trường. Dịch vụ sự nghiệp thường tập
trung vào các lĩnh vực như giáo dục đào tạo, văn hóa nghệ thuật, y tế, thể dục thể
thao, việc làm,…
2.3. Dịch vụ công ích là hoạt động cung cấp các hàng hóa dịch vụ có tính
chất kinh tế đáp ứng nhu cầu vật chất thiết yếu cho sinh hoạt người dân, nó gắn
5


liền với việc cung ứng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật cơ bản. Dịch vụ công ích có vai
trò quan trọng đối với xã hội. Chất lượng của dịch vụ công ích là một trong
những yếu tố thể hiện chất lượng cuộc sống của mỗi quốc gia. Đây là loại hình
dịch vụ công chịu ảnh hưởng ít nhiều về vai trò điều tiết của nhà nước, đồng thời
là loại dịch vụ công có khả năng thu hút sự tham gia của nhiều thành phần kinh
tế nhất. Các hàng hóa cung cấp là các hàng hóa vật chất thường do doanh nghiệp

thực hiện, nguồn tài chính được huy động từ sự đóng góp trực tiếp của người dân
hoặc từ các tổ chức kinh doanh nhưng chất lượng, sự giá cả thì chịu sự điều tiết
của Nhà nước để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng và tạo điều kiện cạnh tranh
giữa các đơn vị cung ứng. Các loại dịch vụ công ích được các chính phủ quan
tâm thực hiện gồm vệ sinh môi trường, cấp nước sạch, vận tải công cộng đô thị,
cấp điện sinh hoạt và chiếu sáng công cộng, bưu chính, chăm sóc công viên, cây
xanh,….
III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ
3.1 Yêu cầu khách quan:
- Do yêu cầu phát triển chung của đời sống kinh tế xã hội: trong sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ kỹ thuật, nền kinh tế thị trường và xu
hướng dân chủ hóa đời sống xã hội đã buộc Nhà nước ở các quốc gia trên thế
giới một mặt nâng cao trách nhiệm quản lý xã hội, một mặt phải thu hút sự tham
gia mạnh mẽ của người dân vào công tác quản lý nhà nước. Đây là một động lực
thúc đẩy tiến trình cải cảch hành chính nhằm tiến tới xây dựng một nền hành
chính hiện đại, hướng tới hiệu quả phục vụ, đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội và
công dân. Xã hội hóa dịch vụ công không chỉ diễn ra ở các nước đang phát triển
mà hiện nay đó là một xu hướng tất yếu của các quốc gia trên thế giới.
- Do đặc điểm của nền kinh tế thị trường: một đặc điểm quan trọng của
nền kinh tế thị trường là hướng sự chú ý tới khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng, trong khi đó khu vực tư nhân là khu vực linh hoạt hơn khu vực
nhà nước trong cung ứng dịch vụ về thời gian, giá cả, phương thức thanh toán,…
cũng như phương thức quản lý như tuyển dụng, trả lương, huy động các nguồn
tài chính,…Vì vậy, sự mở rộng tham gia của các chủ thể khác ngoài nhà nước
trong việc cung ứng dịch vụ công nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của
dịch vụ, thỏa mãn nhu cầu cao nhất của khách hàng.
- Sự thay đổi tương quan giữa khu vực công với khu vực tư trong việc
cung ứng dịch vụ công cũng cần có sự thay đổi về hình thức cung cấp các dịch
vụ công. Sự thay đổi này thường do:


6


+ Sự phát triển ngày càng cao của khoa học và công nghệ dẫn đến khu
vực tư có khả năng tiếp nhận một số dịch vụ trước đây chỉ thuộc về nhà nước
như công nghệ thông tin, phương tiện tính toán, đo lường, phương tiện kiểm tra,
giám sát,….
+ Mức sống của người dân ngày càng cao đòi hỏi sự phục vụ ngày càng
cao cả về chất lượng lẫn khối lượng dịch vụ.
+ Sự kém hiệu quả của khu vực công so với với khu vực tư như khu vực
công chỉ chú ý đến việc cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của người cung ứng chú
không phải người thụ hưởng dịch vụ; chỉ chú ý đầu vào chứ không chú ý đến
hiệu quả; cung cấp cho khách hàng cái mà họ có chứ không phải cái mà họ cần
và có thể lựa chọn; thiếu sự gắn kết giữa người cung ứng dịch vụ và người dân,
….
3.2 Yêu cầu chủ quan:
- Tiết kiệm ngân sách: xã hội, đặc biệt xã hội đô thị ngày càng phát triển
dẫn đến việc ngày càng có nhiều vấn đề phức tạp phát sinh, trong khi ngân sách
nhà nước thì có hạn; Mặt khác, đời sống người dân đô thị ngày càng cao, ngày
càng có nhiều người có đủ điều kiện cung ứng những dịch vụ thuộc về Nhà
nước. Chính vì thế cần phải có sự huy động sự tham gia của cá nhân và tổ chức
ngoài nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công ở đô thị.
- Năng lực bộ máy cung cấp dịch vụ: người dân ở đô thị với sự phát triển
ngày càng cao về nhận thức và nhu cầu; trong khi khả năng cung cấp dịch vụ của
bộ máy nhà nước thì có hạn cả về chất lượng và khối lượng dịch vụ cung ứng.
Nhằm cung ứng cho xã hội các dịch vụ có chất lượng nhưng giá cả hợp lý, yêu
cầu phải có sự tham gia của các chủ thể khác trong xã hội.
- Yêu cầu nâng cao tính cạnh tranh và chuyên nghiệp của khu vực công:
trong tình hình hiện nay, việc nhà nước là chủ thể duy nhất cung cấp dịch vụ
công đã tạo ra tình trạng độc quyền trong một số ngành và lĩnh vực. Hệ quả là

các ngành và lĩnh vực kém phát triển do không có tính cạnh tranh, tính chuyên
nghiệp của đội ngũ thực hiện cung ứng dịch vụ kém. Xã hội hóa là hình thức để
nâng cao tính cạnh tranh và chuyên nghiệp, chất lượng dịch vụ của khu vực
công.
- Bảo đảm tính công khai và minh bạch: ngoài việc nâng cao chất lượng
và số lượng dịch vụ công, việc mở rộng sự tham gia của người dân trong việc
cung ứng dịch vụ công còn tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thực hiện việc
giám sát, kiểm tra việc thực hiện chức năng này của nhà nước, đảm bảo tính
công khai minh bạch; hạn chế tình trạng quan liêu, cửa quyền, hách dịch như
thực tế hiện nay.
7


Từ những lý do khách quan và chủ quan nêu trên, việc xã hội hóa dịch vụ
công ở đô thị là một tất yếu khách quan trong quá trình cải cách hành chính
nhằm hướng đến xây dựng chính quyền đô thị tại các đô thị lớn hiện nay.

CHƯƠNG II

8


THỰC TRẠNG VIỆC XÃ HỘI HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ
TRONG THỜI GIAN QUA
---------Trong những năm qua, cùng với những chủ trương và định hướng đúng
đắn của Đảng và Nhà nước ta và những nỗ lực của các cấp chính quyền địa
phương trong việc trong việc xã hội hóa dịch vụ công ở đô thị đã mang lại một
số kết quả đáng ghi nhận như sau:
I. DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG
Tính đến nay, việc xã hội hóa dịch vụ hành chính công đã được thực hiện

trong lĩnh vực công chứng, chứng thực; đăng kiểm xe cơ giới; dịch vụ bổ trợ tư
pháp. Tuy nhiên, dưới góc độ một bài tiểu luận, xin chỉ nêu thực trạng về việc xã
hội hóa trong lĩnh vực công chứng. Sự ra đời của Luật công chứng (1/7/2007) đã
đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc thực hiện xã hội hóa dịch vụ hành
chính công trong lĩnh vực công chứng, chứng thực . Ngay sau khi Luật Công
chứng đi vào thực tiễn cuộc sống, 36/63 tỉnh, thành đã cho phép thành lập các
Văn phòng công chứng xã hội hoá (hay còn gọi là công chứng tư hoặc văn phòng
công chứng ngoài ngân sách). Tính đến tháng 4/2009, theo số liệu của Bộ Tư
pháp, cả nước có 450 công chứng viên nhà nước hoạt động trong 130 Phòng
Công chứng của Nhà nước và hơn 100 Công chứng viên không phải là công
chức nhà nước hoạt động ở gần 60 Văn phòng công chứng xã hội hoá được
thành lập ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Thanh Hoá, Ninh Bình. Nhìn chung, sự ra đời của các Văn phòng công chứng xã
hội hoá bước đầu hoạt động có hiệu quả, góp phần giảm tải cho các Phòng Công
chứng nhà nước và nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu công chứng
của xã hội công dân hiện đại. Đặc biệt, điều mà người dân ở các đô thị hài lòng
nhất về văn phòng ngoài ngân sách là thái độ phục vụ, tiếp đón niềm nở và
phong cách làm việc chuyên nghiệp của đội ngũ công chứng viên ở đây, cái mà
họ không nhận được từ văn phòng công chứng nhà nước. Điều này đã ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động của văn phòng công chức nhà nước. Từ 1/7/2007, xã,
phường được giao thêm nhiệm vụ chứng thực những giấy tờ, chứng chỉ, văn bản
có bản gốc đi kèm. Thời điểm đầu, trung bình mỗi ngày tại đây sao y bản chính
khoảng 100 văn bản. Sau khi việc xã hội hóa công chứng ra đời, số lượng này
chỉ còn khoảng một nửa. Hay như thực tế tại Phòng Công chứng Nhà nước số 1
trên phố Bà Triệu, Hà Nội vào ngày thứ ba đầu tuần nhưng cũng chỉ có hơn 10
khách hàng, khác với tình trạng chen lấn, xô đẩy, quá tải trước đây. Qua đó có
thể thấy sự ra đời của văn phòng công chứng xã hội hóa phần nào đã giảm bớt sự
9



quá tải ở các văn phòng công chứng nhà nước, giúp người dân có nhiều lựa chọn
hơn trong việc thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình, gia tăng tính cạnh tranh
trong lĩnh vực công chứng, từ đó nâng cao chất lượng phục vụ người dân; đồng
thời khẳng định đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, trước những mặt tích cực mà công chứng xã hội hóa mang lại
thì vẫn còn tồn tại những nhược điểm, bất cập mà trong thời gian tới nếu không
có sự điều chỉnh kịp thời của các cơ quan chức năng thì những văn phòng công
chứng tư sẽ trở thành nỗi lo của xã hội và sẽ đi ngược với chủ trương đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta. Cụ thể:
- Một số văn phòng công chứng chưa thực hiện đúng hoặc chưa thực hiện
đầy đủ các quy định của Luật Công chứng (như niêm yết, đăng bố cáo thành lập,
mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp…) và pháp luật về lao động, thuế, tài
chính, thống kê. Vẫn còn tình trạng một số văn bản công chứng chưa bảo đảm
chặt chẽ; hồ sơ công chứng vẫn còn thiếu một số giấy tờ có liên quan.
- Văn phòng công chứng tư vì lý do lợi nhuận đã bất chấp các quy định
của pháp luật, ví dụ việc công chứng các giấy tờ làm giả theo yêu cầu của người
công chứng hay việc công chứng ngoài trụ sở. Theo quy định của pháp luật, việc
thực hiện công chứng ngoài trụ sở chỉ được thực hiện trong những trường hợp
đặc biệt nhưng vì lợi nhuận các văn phòng công chứng tư đã thực hiện việc phục
vụ khách hàng mọi lúc, mọi nơi dẫn đến việc mất an toàn pháp lý vì các văn
phòng công chứng thường cử các nhân viên (chứ không phải công chứng viên) đi
lấy chữ ký người yêu cầu công chứng. Do đó, sẽ khó bảo đảm toàn vẹn các yêu
cầu như xác định chính xác nhân thân của người yêu cầu công chứng; năng lực
hành vi dân sự của người yêu cầu công chứng, cũng như tính chính xác của giấy
tờ gốc chứng minh quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản mang ra giao dịch...
- Chưa có mạng thông tin liên kết giữa văn phòng công chứng công và văn
phòng công chứng tư, vì thế các văn phòng công chứng không thể xác định tài
sản đã giao dịch chưa. Nếu kẻ xấu dùng giấy tờ giả đã công chứng bán tài sản gì
đó thì người mua bị thiệt.
- Các công chứng viên không phải công chức nhà nước còn thiếu kinh

nghiệm, thiếu kiến thức về pháp luật nên dẫn đến nhiều trường hợp công chứng
sai quy định. Đặc biệt trong điều kiện hệ thống văn bản pháp luật còn nhiều
chồng chéo, bất cập như hiện nay, nếu không có kinh nghiệm sẽ rất khó thực
hiện theo yêu cầu, quy định pháp luật.
II. DỊCH VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG
10


Có thể nói, trong ba loại hình dịch vụ công, thì các loại hình dịch vụ sự
nghiệp công được thực hiện xã hội hóa mạnh nhất trong lĩnh vực y tế, giáo dục,
văn hóa thể thao, việc làm và an sinh xã hội, nghệ thuật, khoa học công nghệ…
Thực hiện Nghị quyết số 90-NQ/CP của Chính phủ ngày 21/8/1997 về thực hiện
chủ trương xã hội hội hóa về hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và Nghị định 73NĐ/CP ngày 19/8/1999 về quy định chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với
hoạt động các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục. Tính đến nay, số lượng đơn vị, tổ
chức cung ứng các dịch vụ trong ba lĩnh vực trên đã không ngừng tăng lên.
Trong lĩnh vực giáo dục, ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng liên
tục từ 15,5% năm 2001 lên 20% năm 2007. Trong năm 2007, khoảng 25% tổng
chi phí của xã hội cho học tập là đóng góp của người dân. Bên cạnh đó, cũng đã
huy động được sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội
và đầu tư nước ngoài. Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển.
Vào năm học 2007-2008, cả nước có gần 6.000 cơ sở giáo dục mầm non, 95
trường tiểu học, 33 trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ thông, 308
cơ sở dạy nghề, 72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại
học là các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở
giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng. Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh,
sinh viên ngoài công lập là 15,6%, trong đó tỷ lệ học sinh phổ thông là 9%; học
sinh trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%; học nghề là 31,2%; sinh viên cao đẳng,
đại học là 11,8%.
Đối với lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay
trên toàn Việt Nam có 876 bệnh viện, 75 khu điều dưỡng phục hồi chức năng,

trên 1000 phòng khám đa khoa và nhà hộ sinh khu vực. Bên cạnh các cơ sở y tế
Nhà nước đã bắt đầu hình thành một hệ thống y tế tư nhân bao gồm 19.895 cơ sở
hành nghề y, 14.048 cơ sở hành nghề dược, 7.015 cơ sở hành nghề y học cổ
truyền, 5 bệnh viện tư có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần làm giảm bớt sự
quá tải ở các bệnh viện Nhà nước.
Nhìn chung, không chỉ riêng ở ba lĩnh vực trên, mà trong các lĩnh vực
khác như khoa học công nghệ, lao động xã hội cũng đều tăng lên về số lượng
cũng như chất lượng. Hơn 10 năm thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc
cung ứng dịch vụ sự nghiệp công đã thu được những kết quả quan trọng: tiềm
năng và nguồn lực to lớn của xã hội bước đầu được phát huy; khu vực ngoài
công lập phát triển với những loại hình và phương thức hoạt động mới, đa dạng
và phong phú; khu vực công lập đã bắt đầu đổi mới theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

11


Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện xã hội hoá dịch vụ sự nghiệp công
cũng đã bộc lộ một số hạn chế như: tốc độ xã hội hóa còn chậm so với tiềm
năng; mức độ phát triển xã hội hóa không đồng đều giữa các vùng, miền, đô thị,
phần lớn tập trung ở các đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà
Nội. Thêm vào đó, công tác quản lý còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chưa phù
hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; các cơ sở công lập trong
lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa vẫn áp dụng cơ chế quản lý như các cơ quan
hành chính, chưa phát huy được tính năng động, tự chủ, trách nhiệm; đối với các
cơ sở công lập, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu,
chất lượng hiệu quả hoạt động chưa cao, còn có những biểu hiện tiêu cực vì chạy
theo lợi nhuận.
III. DỊCH VỤ CÔNG ÍCH:
Có thể đưa ra hiện trạng một số dịch vụ công ích chủ yếu được thực hiện

xã hội hóa như:
3.1. Dịch vụ vệ sinh môi trường: trong lĩnh vực này công đoạn được xã hội
hóa nhiều nhất là các hoạt động thu gom rác và vận chuyển rác thải đến bãi tập
trung thông qua các mô hình như tổ thu gom rác dân lập do phường tự quản tại
Hà Nội và Thành phố Hổ Chí Minh; hợp tác xã vệ sinh môi trường, công ty cổ
phần dịch vụ môi trường, công ty tư nhân,…
3.2. Dịch vụ giao thông công cộng đô thị: có thể nói trong lĩnh vực này
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đầu tiên thực hiện việc xã hội hóa hoạt động
vận tải hành khách công cộng, đến nay có 95% doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế ngoài nhà nước đảm nhận việc cung ứng loại hình dịch vụ này. Riêng đối
với Hà Nội, mặc dù đến năm 2002 lãnh đạo Thành phố mới có chủ trương thực
hiện xã hội hóa nhưng đến nay hiệu quả hoạt động của xe buýt công cộng có
phần nổi trội hơn Thành phố Hồ Chí Minh.
3.3. Dịch vụ cung cấp nước sạch: đây là một dịch vụ đang ngày là yêu cầu
bức thiết không những ở đô thị mà ngay cả ở vùng nông thôn và miền núi. Tuy
nhiên, Nhà nước mới chỉ đảm bảo được hệ thống cung cấp nước sạch chủ yếu
cho các thành phố , đô thị với khoảng gần 70% dân cư. Cả nước hiện có 67
doanh nghiệp cấp nước hoạt động theo mô hình doanh nghiệp công ích cung cấp
nước sinh hoạt cho hầu hết dân cư đô thị và nền kinh tế quốc dân. Thực hiện chủ
trương xã hội hóa dịch vụ cung cấp nước sạch nhằm chung tay với nhà nước đưa
nước sạch vào từng hộ dân, các công ty, tổ chức đã và đang có nhiều công trình,
dự án thiết thực. Ví dụ như tháng 6/2010, Công ty Coca - Cola đã khánh thành
các công trình thuộc dự án “Nước sạch cho cộng đồng” tại một số trường học và
12


khu dân cư ở quận Thủ Đức, TPHCM, mang lại nguồn lợi trực tiếp cho hơn
5.000 người dân. Dự kiến trong thời gian tới, công ty tiếp tục đầu tư 100.000
USD để thực hiện dự án với việc hỗ trợ lắp đặt đường ống cấp nước nối từ
đường ống chính vào hẻm nhỏ, lắp đồng hồ nước cho hộ nghèo và thực hiện các

công trình hệ thống nước sạch cho trường học (gồm giếng khoan, hệ thống xử lý
nước sinh hoạt, bồn chứa nước, bồn rửa tay inox…).
Nhìn chung, việc thực hiện xã hội hóa dịch vụ công ích đã mang lại nhiều
kết quả khả quan như: thu hút và giải quyết việc làm cho hàng ngàn đối tượng
lao động, đặc biệt là lao động phổ thông của các địa phương; góp phần giảm các
tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn; huy động nguồn vốn đầu tư xã
hội, giảm gánh nặng cho ngân sách; chất lượng dịch vụ được nâng lên rõ rệt. Tuy
nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong công tác xã hội hóa dịch vụ công ích như:
cơ chế, chính sách quản lý còn thiếu và chưa hoàn thiện, gây nhiều khó khăn,
lúng túng cho các đơn vị thực hiện và cho sự quản lý của địa phương; một số
chính sách ưu đãi đối hoạt động công ích nhà nước nhưng có trường hợp chưa
thể áp dụng đối với các doanh nghiệp ngoài nhà nước khi tham gia xã hội hóa;
nhiều lao động trong các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích bị dôi dư
khi tham gia xã hội hóa,…
Từ thực trạng trên, có thể rút ra được những nguyên nhân chủ yếu của
những mặt tồn tại, hạn chế trong việc xã hội hóa các lĩnh vực dịch vụ công là do:
- Các cấp chính quyền địa phương và toàn xã hội chưa nhận thức đầy đủ
về chủ trương xã hội hóa, xem xã hội hóa chỉ là biện pháp huy động sự đóng góp
của dân trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp chứ không phải xã hội hóa là sự
tiến tới tất yếu trong xây dựng chính quyền đô thị; trong việc cải cách hành chính
nhằm xây dựng nền hành chính hiện đại. Tư duy, thói quen bao cấp vẫn còn khá
phổ biến. Nhiều lĩnh vực, việc thực hiện xã hội hóa còn mang tính tự phát, chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội.
- Công tác quản lý, chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước còn bị động,
chậm đổi mới, lúng túng. Còn thiếu nhiều cơ chế, quy định, chế độ chính sách
đặc thù để tạo hành lang pháp lý, khuyến khích các mặt tích cực và ngăn chặn
các mặt tiêu cực trong công tác phát triển xã hội hóa trên các lĩnh vực dịch vụ
công. Công tác kiểm tra, giám sát còn yếu, chưa kiểm soát được chất lượng sản
phẩm, dịch vụ của các dịch vụ xã hội hóa.
Như vậy để chủ trương xã hội hóa dịch vụ công của Đảng được thực hiện

một cách có hiệu quả, trong thời gian tới cần có những biện pháp nhằm khắc

13


phục, hạn chế được những mặt còn hạn chế, yếu kém trong việc quản lý cũng
như thực hiện tiến trình xã hội hóa.

CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XÃ HỘI
HÓA DỊCH VỤ CÔNG Ở ĐÔ THỊ TRONG THỜI GIAN TỚI
--------------I. PHƯƠNG HƯỚNG
14


1.1. Quan điểm của Đảng:
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã đưa ra quan điểm:
+ Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công
cộng cụ thể là phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ
công cộng, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của
các đơn vị công lập và huy động mạnh mọi nguồn lực của xã hội. Nhà nước tiếp
tục tăng nguồn lực, đầu tư tập trung cơ sở vật chất- kỹ thuật để nâng cao phúc lợi
chung cho toàn xã hội... Quan tâm vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo, vùng đồng
bảo dân tộc thiểu số. Từng bước chuyển các cơ sở công lập dịch vụ công cộng
đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang
cơ chế tự chủ, không bao cấp tràn lan và không vì mục tiêu lợi nhuận. Công khai
mức phí tại các cơ sở dịch vụ công lập và ngoài công lập. Thúc đẩy các cơ sở
công lập và ngoài công lập về dịch vụ công cộng cả về quy mô và chất lượng.
+ Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ
công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo

việc làm, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá - thông tin, thể dục thể thao. Xây dựng hệ
thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.
+ Tăng nguồn lực đầu tư của nhà nước để phát triển các lĩnh vực xã hội và
thực hiện các mục tiêu xã hội, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá, coi đây là một
chính sách có tính chiến lược, nhằm huy động mọi nguồn lực, trí tuệ của các
thành phần kinh tế, của các tổ chức xã hội, của mọi người.
+ Phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân
được chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ
sở, hệ thống các chính sách bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân.
Đổi mới cơ chế khám, chữa bệnh. Nhà nước tăng đầu tư, nâng cao mức và chất
lượng chăm sóc sức khoẻ cơ bản cho toàn dân, quan tâm nhiều hơn nữa cho các
đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và vùng sâu, vùng xa, hộ nghèo.
Chú trọng phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa
dạng, các dịch vụ y tế ngoài công lập. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực y tế.
1.2. Định hướng:
1.2.1 Định hướng chung:
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của Chính phủ, bộ,
ngành và chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, tổ chức cung ứng từng
loại dịch vụ công. Định rõ những dịch vụ công nào các cơ quan nhà nước phải
trực tiếp cung ứng, dịch vụ nào cần phải chuyển cho các hội, tổ chức phi chính
15


phủ, tư nhân thực hiện và những dịch vụ công nào có thể chuyển sang khu vực
thị trường.
- Hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách quản lý và cung ứng dịch vụ
công trên cơ sở phân biệt rõ tổ chức và hoạt động dịch vụ công với quản lý nhà
nước và quản lý sản xuất kinh doanh. Xác lập cơ chế quản lý và tổ chức cung

ứng phù hợp với đặc điểm, tính chất của mỗi loại dịch vụ. Quy định rõ trách
nhiệm, mục tiêu, nội dung hoạt động, đồng thời bảo đảm quyền tự chủ của các tổ
chức cung ứng dịch vụ công.
- Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống các tổ chức cung ứng dịch vụ công theo
yêu cầu nâng cao chất lượng và hiệu quả của mạng lưới dịch vụ công trong cả
nước, trong từng vùng, từng lĩnh vực, từng địa phương. Tổ chức mạng lưới cung
ứng dịch vụ công không nhất thiết phụ thuộc vào phạm vi địa giới hành chính mà
có thể theo từng khu vực, từng vùng dân cư, tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất
của dịch vụ và nhu cầu của người dân. Phát triển mạnh các cơ sở cung ứng dịch
vụ công ngoài công lập.
- Đổi mới phương thức cung ứng dịch vụ công phù hợp với đặc điểm tính
chất của từng loại dịch vụ công và đối tượng thụ hưởng, mỗi khu vực, địa
phương, bảo đảm phục vụ thuận lợi nhất cho người dân.
- Xây dựng cơ chế hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận cho từng loại
hình tổ chức cung ứng dịch vụ công.
- Phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp trong lĩnh vực cung ứng dịch
vụ công; đổi mới cơ chế quản lý tài chính- ngân sách đối với lĩnh vực dịch vụ
công.
- Cơ cấu lại chi tiêu ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực dịch vụ công
theo hướng tập trung đầu tư thích đáng cho việc cung ứng các dịch vụ cơ bản,
thiết yếu nhất; đáp ứng các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia; phục vụ
người dân vùng khó khăn, miền núi, hỗ trợ người nghèo, đối tượng chính sách.
- Xây dựng hệ thống các công cụ, cơ chế kiểm tra, giám sát của Nhà nước
và nhân dân đối với hoạt động của đơn vị cung ứng dịch vụ công. Phát huy vai
trò của đoàn thể nhân dân, tổ chức quần chúng, nhất là các hội nghề nghiệp trong
các hoạt động cung ứng dịch vụ công.
1.2.2. Định hướng đối với từng lĩnh vực:
1.2.2.1 Dịch vụ sự nghiệp công:
- Thực hiện xã hội hóa nhằm hai mục tiêu lớn: thứ nhất phát huy tiềm
năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp

giáo dục, văn hóa, y tế, khoa học; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội đặc biệt
16


là các đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục, y
tế, khoa học, văn hóa ở mức độ ngày càng cao.
- Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh việc hoàn thiện
chính sách; tăng nguồn lực đầu tư, đồng thời đổi mới mục tiêu, phương thức, cơ
cấu và nguồn vốn đầu tư; tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình
quốc gia phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao; hỗ trợ các vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; ưu tiên các đối tượng chính sách và trợ
giúp người nghèo trên cơ sở đổi mới chế độ miễn, giảm phí theo hướng công
khai, hợp lý và cấp trực tiếp tới đối tượng hưởng thụ.
- Chuyển các cơ sở công lập đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang
tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích không
bao cấp tràn lan, không nhằm lợi nhuận: có đầy đủ quyền tự chủ về tổ chức và
quản lý; thực hiện đúng mục tiêu và nhiệm vụ; hoạch toán đầy đủ chi phí, cân
đối thu chi…; thường xuyên nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ, sản phẩm;
bảo đảm quyền lợi và cơ hội tiếp cận bình đẳng của người thụ hưởng.
- Đổi mới chế độ thu phí đi đôi với việc thực hiện tốt chính sách ưu đãi
các đối tượng chính sách và trợ giúp người nghèo. Mức phí quy định theo
nguyên tắc đủ trang trải cho chi phí cần thiết, có tích lũy để đầu tư phát triển và
xóa bỏ mọi khoản thu khác. Người thụ hưởng có quyền lựa chọn cơ sở cung ứng
dịch vụ phù hợp với từng lĩnh vực.
- Mỗi cơ sở ngoài công lập có thể hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận
hoặc theo cơ chế lợi nhuận. Theo cơ chế phi lợi nhuận thì ngoài phần được dùng
để bảo đảm lợi ích hợp lý của các nhà đầu tư, phần để tham gia thực hiện các
chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, trợ giúp người nghèo, lợi nhuận chủ
yếu được dùng để đầu tư phát triển. Theo cơ chế lợi nhuận thì lợi nhuận có thể
được chia cho các cá nhân và phải chịu thuế. Nhà nước khuyến khích phát triển

các cơ sở phi lợi nhuận.
- Tiến hành chuyển một số cơ sở thuộc loại hình công lập sang loại hình
ngoài công lập để tập thể hoặc cá nhân quản lý và hoàn trả vốn cho Nhà nước.
- Khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức phù hợp
với quy hoạch phát triển, yêu cầu và đặc điểm của từng lĩnh vực. Các nhà đầu tư
được bảo đảm lợi ích hợp pháp về vật chất và tinh thần.
- Nhà nước tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện luật
pháp; phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, đặc biệt là các hội
nghề nghiệp trong việc giám sát các hoạt động dịch vụ
- Nhà nước tạo môi trường phát triển, môi trường cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng theo luật pháp để thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập phát
17


triển cả về quy mô và chất lượng, xây dựng các cơ sở đạt trình độ tiên tiến trong
ku vực và trên thế giới.
1.2.2.2. Dịch vụ công ích:
- Rà soát, xác định rõ những hàng hóa dịch vụ công ích mà Nhà nước phải
chịu trách nhiệm theo nguyên tắc “Nhà nước chỉ làm những gì mà xã hội không
thể làm hoặc không muốn làm”
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển đối với lĩnh vực dịch vụ công
ích phù hợp với từng loại dịch vụ công ích, từng địa phương.
- Đổi mới phương thức tổ chức thực hiện và quản lý phù hợp với đặc thù
của các loại sản phẩm, dịch vụ công ích
- Đẩy mạnh xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công ích theo hướng phát
huy các nguồn lực trong nhân dân tham gia cung ứng dịch vụ công ích, giảm dần
đầu tư của Nhà nước.
- Phân cấp mạnh cho cho chính quyền địa phương các cấp trong việc thực
hiện nhiệm vụ quản lý và cung ứng dịch vụ công ích, xác định rõ trách nhiệm
của mỗi cấp chính quyền trong việc quản lý và cung ứng dịch vụ công ích.

- Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức cung ứng
dịch vụ công ích. Xác định và xây dựng cơ chế quy định quyền lợi và nghĩa vụ
đối với các đơn vị tham gia cung ứng dịch vụ công ích.
- Thực hiện cơ chế đặt hàng cho doanh nghiệp tham gia thực hiện qua hình
thức đấu thầu.
- Xây dựng hệ thống đánh giá, kiểm soát chất lượng sản phẩm dịch vụ
công ích đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đồi với các
dịch vụ công ích.
II. CÁC GIẢI PHÁP
Trong thời gian tới, nhằm đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công ở đô thị cần:
- Tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền địa
phương cũng như các tổ chức, cá nhân về chủ trương, mục tiêu của xã hội hóa
dịch vụ công.
- Tiếp tục hoàn thiện các quy định về mô hình, quy mô, quy chế thành lập,
quản lý hoạt động của cơ sở ngoài công lập cung ứng dịch vụ công, kể cả các dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài như FDI, dự án BOT,…Giảm bớt thủ tục xin
thành lập các cơ sở ngoài công lập, có quy định cụ thể, hướng dẫn chi tiết điều
kiện thành lập, điều kiện hành nghề đối với các đơn vị này. Cụ thể:

18


+ Phân biệt rõ cơ chế hoạt động của hai loại hình lợi nhuận và phi lợi
nhuận, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong từng lĩnh vực.
+ Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy đồng thời ban hành và
thực hiện các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho các cơ sở ngoài công lập cung
ứng dịch vụ công phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng loại hình. Ví dụ như
chính sách miễn giảm thuế, cho thuê đất dài hạn,…
+ Tiếp tục mở rộng quy mô các cơ sở ngoài công lập trên cơ sở thành lập
mới và chuyển một số cơ sở công lập sang dân lập hoặc tư thục theo quy hoạch,

kế hoạch phát triển và định hướng ưu tiên phù hợp với từng lĩnh vực và hình
thức hoạt động.
+ Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước theo hướng cải cách thủ tục hành
chính, đồng thời tách bạch giữa quản lý nhà nước, quản lý hành chính ra khỏi
quản lý kinh doanh. Loại bỏ sự can thiệp quá sạu của cơ quan quản lý nhà nước
vào nội bộ cơ sở cung ứng dịch vụ công.

KEÁT LUAÄN
Nền hành chính hiện đại với xu hướng cải cách thu nhỏ vai trò của
Nhà nước, chuyển dần từ quản lý sang quản trị theo hướng phục vụ và hiệu
quả. Chính vì thế nếu không có nhận thức, tư duy đúng đắn và thống nhất
về dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công thì khó có thể đạt được mục
tiêu đã đề ra đối với công cuộc cải cách hành chính cũng như phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu cuối cùng là
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
19


Ngày nay, tốc độ đô thị hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ không chỉ
riêng ở Việt Nam mà trên tất cả các nước trên thế giới. Đó là một xu hướng
tất yếu mà một xã hội hiện đại phát triển phải trải qua. Điều đó có nghĩa
mọi hoạt động trên các lĩnh vực chủ yếu xảy ra ở các đô thị. Mặt khác, mức
sống và nhu cầu người dân ở đô thị không ngừng tăng cao, do đó việc xã
hội hóa dịch vụ công ở đô thị là một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, làm thế
nào để chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước ta được thực hiện
đúng đắn, sâu rộng trong toàn xã hội thì cần phải có sự thống nhất về nhận
thức và hành động trong bộ máy chính quyền cũng như các cá nhân, tổ
chức trong và ngoài nước tham gia việc xã hội hóa, từ đó sự tham gia đóng
góp của xã hội trong việc cung ứng dịch vụ công mới đạt được kết quả như
mong muốn, đáp ứng được nhu cầu của xã hội công dân.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Học viện hành chính quốc gia, Gíao trình quản lý nhà nước về đô
thị, Nxb giáo dục, Hà nội, 2005.

2.

Trường Đại học kinh tế quốc dân, Giáo trình quản lý đô thị, Nxb
thống kê, Hà nội, 2003

3.

TS. Chu Văn Thành (chủ biên), Dịch vụ công đổi mới quản lý và
tổ chức cung ứng ở Việt Nam hiện nay , Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2007.

4.

Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (ĐH VI, VII,
VIII, IX, X), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
20


-------------------

21




×