Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

quyền của bị can trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT KHÓA 37
(NIÊN KHÓA: 2011-2015)

Đề tài:

QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn :

Sinh viên thực hiện:

ThS. Thạch Huôn

Thạch Thị Huỳnh Mai

Bộ môn: Luật Thương Mại

MSSV: 5115728
Lớp: Luật Tư Pháp 1 K37

Cần Thơ, tháng 11 năm 2014


LỜI CẢM ƠN
---------Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cha, mẹ của em đã nuôi dưỡng, dạy dỗ,
và động viên em trong cuộc sống và lo cho em ăn học đến ngày hôm nay. Em cũng
xin chân thành cảm ơn đến quý thầy, quý cô Khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ


đã truyền đạt những kiến thức quý báo cho em, góp phần để em hoàn thành luận văn
này. Và hơn hết em xin cảm ơn thầy Thạch Huôn, người đã tận tình hướng dẫn, giúp
đỡ em trong suốt quá trình làm luận văn và cũng giúp cho em có thêm nhiều kiến
thức để em hoàn thành tốt bài luận văn của mình. Bên cạnh đó, em cũng xin cảm ơn
đến các tác giả của những bài viết, giáo trình, sách, báo, tạp chí chuyên ngành mà em
đã sử dụng làm tài liệu trong quá trình nghiên cứu.
Em xin chân thành cảm ơn!

Cần Thơ, ngày…tháng….năm 2014
Sinh viên thực hiện

Thạch Thị Huỳnh Mai


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
---------…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………….

Cần Thơ, ngày…..tháng…..năm 2014
Giảng viên hướng dẫn

Ths.Thạch Huôn


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
---------…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………..………………………………………………………….
…..…………………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………

Cần Thơ, ngày….tháng….năm 2014
Giảng viên phản biện


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN

---------…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………....

Cần thơ, ngày….tháng….năm 2014
Giảng viên phản biện


Danh mục các từ viết tắt

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
BLHS: Bộ luật hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
VKS: Viện kiểm sát
CQĐT: Cơ quan điều tra
LTNBTCNN: Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước



Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................................2
3. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................2
4. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................................2
5. Bố cục đề tài ................................................................................................................2

CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ ..................................................................................... 3
1.1 Các khái niệm liên quan ...........................................................................................3

1.1.1 Quyền con người ....................................................................................... 3
1.1.2 Quyền công dân ........................................................................................ 5
1.1.3 Bị can........................................................................................................ 6
1.1.4 Quyền của bị can ...................................................................................... 7
1.2 Quá trình phát triển quyền của bị can trong tố tụng hình sự .................................8

1.2.1 Giai đoạn năm 1945 – 1988 ...................................................................... 9
1.2.2 Giai đoạn năm 1988-2003 ....................................................................... 10
1.2.3 Giai đoạn 2003 đến nay .......................................................................... 13
1.3 Nguyên tắc trong tố tụng hình sự liên quan đến quyền của bị can ....................... 15

1.3.1 Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa ...................................... 16
1.3.2 Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân ............. 18
1.3.3 Không ai bị xem là có tội khi chưa có bản án kết tội của toàn án đã có hiệu
lực pháp luật .................................................................................................... 19
1.3.4 Xác định sự thật của vụ án ...................................................................... 21

1.3.5 Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo................ 23
1.4 Ý nghĩa của quyền của bị can, quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình
sự ............................................................................................................................. 25

1.4.1 Quyền của bị can trong tố tụng hình sự ................................................... 25
1.4.2 Nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự ............................................... 26
1.4.3 Ý nghĩa của quyền của bị can trong tố tụng hình sự ................................ 28

GVHD: Th.s Thạch Huôn

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam

CHƯƠNG 2:QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM ..............................................................................................................29
2.1 Nội dung quyền của bị can trong tố tụng hình sự ................................................. 29

2.1.1 Được biết mình bị khởi tố về tội gì .......................................................... 29
2.1.2 Được giải thích về quyền và nghĩa vụ...................................................... 30
2.1.3 Trình bày lời khai.................................................................................... 31
2.1.4 Đưa ra tài liệu và đồ vật yêu cầu............................................................. 32
2.1.5 Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa ........................................... 33
2.1.6 Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch… .............................................................................................................. 34
2.1.7 Được nhận các quyết định liên quan ....................................................... 35
2.1.8 Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm quyền .......... 36
2.2 Chủ thể đảm bảo quyền của bị can trong tố tụng hình sự .................................... 37


2.2.1
2.2.2
2.2.3
2.2.4

Hội đồng xét xử ....................................................................................... 37
Cơ quan điều tra ..................................................................................... 39
Viện kiểm sát nhân dân ........................................................................... 40
Các cơ quan liên quan khác .................................................................... 42

2.3 Cơ chế xử lý vi phạm và bồi thường thiệt hại cho bị can ...................................... 43

2.3.1 Hành vi vi phạm quyền của bị can ........................................................... 43
2.3.2 Xử lý vi phạm .......................................................................................... 44
2.3.3 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ............................................................ 45
2.4 Thực trạng và giải pháp hoàn thiện các quy định về quyền của bị can trong tố
tụng hình sự ............................................................................................................ 46

2.4.1 Thực tiễn áp dụng ................................................................................... 46
2.4.1.1 Thực tiễn áp dụng ở Việt Nam ..................................................................... 46
2.4.1.2 Thực tiễn áp dụng ở một số quốc gia khác trên thế giới ............................... 49

2.4.2 Hạn chế khi áp dụng pháp luật trong việc thực hiện quyền của bị can .... 50
2.4.3 Giải pháp hoàn thiện............................................................................... 54

KẾT LUẬN ...................................................................................................58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Th.s Thạch Huôn


SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên Thế giới, Đại hội đồng liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới
về quyền con người. Tuyên ngôn được coi như thước đo chung cho mọi dân tộc, mọi
quốc gia, tổ chức, cá nhân cần đạt tới, cũng như sử dụng trong việc đánh giá sự tôn
trọng và thực hiện các quyền con người. Trong Tuyên ngôn, toàn thế giới thống nhất
nhấn mạnh rằng: “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật
bảo vệ như nhau không có bất cứ sự phân biệt nào”. Sự nhấn mạnh này được các
quốc gia trên toàn thế giới nỗ lực thực hiện. Việt Nam cũng không nằm ngoài các
quốc gia tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, luôn đảm bảo cho mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, không có sự phân biệt nào.
Trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, việc đảm bảo quyền của những người
tham gia tố tụng được bình đẳng và được pháp luật bảo vệ cũng được Nhà nước ta tôn
trọng và thực hiện đặc biệt là bị can. Bởi vì, Bị can cũng được coi như là chủ thể
chính trong tố tụng hình sự và là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ phụ
thuộc rất nhiều vào việc tuân thủ đúng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Và trên thực tế quyền và lợi ích này rất hay bị xâm phạm. Thực tiễn khởi tố, điều tra,
truy tố trong những năm qua cho thấy vẫn còn nhiều trường hợp vi phạm quyền của
bị can trong quá trình tiến hành tố tụng, gây hậu quả vi phạm quyền con người, quyền
công dân của bị can nghiêm trọng, dẫn đến oan, sai người vô tội.
Vì vậy mà việc bảo vệ và đảm bảo thực hiện tốt quyền của bị can cũng hết sức
cần thiết và có vai trò rất quan trọng và cấp thiết hiện nay trong việc thực hiện nhiệm
vụ của Bộ luật tố tụng hình sự là chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát
hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Và trong việc thực hiện nhiệm

vụ xây dựng Nhà nước ta cũng như trong công cuộc cải cách tư pháp. Với lý do trên,
người viết đã chọn đề tài “QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM” và cho rằng đây là một yêu cầu khách quan và cần thiết, có ý nghĩa cả
về mặt lý luận và thực tiễn cần được quan tâm.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền của bị can, thực tiễn áp dụng
các quy định đó để tìm ra những bất cập, hạn chế, những khó khăn, vướng mắc, trong
quá trình thực thi pháp luật về quyền của bị can sau đó kiến nghị một số giải pháp
hoàn thiện các quy định của BLTTHS hiện hành về quyền của bị can nhằm đảm bảo
thực hiện tốt hơn quyền của bị can và nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố
GVHD: Th.S Thạch Huôn

1

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
tụng trong việc thực hiện quy định về quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt
Nam. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền của bị can.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài khái quát chung về quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam và
quy định của pháp luật về quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam kèm theo
thực trạng áp dụng quyền của bị can hiện nay. Nội dung đề tài tập trung vào phân tích
quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay. Tìm ra những hạn chế và
đưa ra giải pháp hoàn thiện quy định về quyền của bị can trong pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam. Đảm bảo thực hiện tốt quyền của bị can của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng.
4. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài này, người viết thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng phương
pháp phân tích luật viết. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp thu thập tài liệu, phương
pháp liệt kê, so sánh, phương pháp thống kê….để thực hiện nội dung. Đồng thời
người viết cũng tham khảo các công trình nghiên cứu, bình luận và sưu tầm các tài
liệu có liên quan để làm rõ vấn đề.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn còn có
phần nội dung được cơ cấu thành 2 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền của bị can trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

2

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1. Quyền con người
Kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập (năm 1945), quyền con người đã được
quy định cụ thể trong hàng trăm văn kiện pháp luật quốc tế, trở thành một hệ thống
tiêu chuẩn pháp lý toàn cầu đòi hỏi mọi quốc gia trong đó có Việt Nam, tôn trọng và
thực hiện. Quyền con người là một thực thể tồn tại trong xã hội, để tồn tại và phát
triển được trong xã hội loài người phải trải qua những giai đoạn lịch sử hình thành lâu

dài. Trong mỗi giai đoạn hình thành và phát triển con người phải đấu tranh nhằm lấy
lại quyền lợi vốn có thuộc về mình, một quyền cơ bản mà bất kỳ một cá nhân nào
trong xã hội đều có được – quyền con người.
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định
nghĩa khác nhau (Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về
quyền con người đã được công bố). Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ
nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm
các thuộc tính của quyền con người.
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự
nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn
phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người: “Quyền con người là những đảm
bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những
hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự cho phép và tự
do cơ bản của con người”.1 Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm
pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental
freedoms) của con người.
Ngoài ra quyền con người cũng được quy định trong các Công ước và Điều ước
quốc tế. Cụ thể, quyền con người được quy định trong bản Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền (1948); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966). Quyền
con người là một quyền bất khả xâm phạm, quyền không thể tước bỏ, quyền tự do
ngôn luận, tự do tín ngưỡng mà cả thế giới đều quan tâm đến, mọi người được sinh ra
đều có bình đẳng, việc tôn trọng và ghi nhận các giá trị quyền con người cần phải

1 Dẫn theo: Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.41.

GVHD: Th.S Thạch Huôn


3

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
được thực hiện một cách toàn diện để đảm bảo các quyền cơ bản của con người được
phát huy hết khả năng của nó, một quyền mà tất cả mọi cá nhân trên thế giới đều
được hưởng và thực hiện nó một cách chính đáng.
Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn,
theo đó, quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên
của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã
hội…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này
mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên (natural rights).
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ
quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung,
quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và
khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác
định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những
chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với
con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong
gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ
các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho dù cách nhìn nhận có
những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con người là những giá trị cao
cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử.
1.1.2. Quyền công dân
Khái niệm quyền công dân ra đời từ rất lâu trong lịch sử, được sử dụng rộng rãi
trong xã hội tư sản. Cách mạng tư sản đã đưa con người từ địa vị những thần dân trở

thành những công dân và pháp điển hóa các quyền tự nhiên của con người dưới hình
thức các quyền công dân. Trong sách báo pháp lý, khái niệm “quyền công dân” là
khái niệm cùng hàng với khái niệm quyền con người. So với khái niệm quyền con
người, khái niệm quyền công dân mang tính xác định hơn, gắn liền với mỗi quốc gia,
được pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Và do gắn với đặc thù của mỗi quốc gia
mà nội dung, số lượng, chất lượng của quyền công dân ở mỗi quốc gia thường không
giống nhau.
Như vậy, về bản chất các quyền công dân chính là những quyền con người được
các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình. Tuy nhiên, quyền công
dân không phải là hình thức cuối cùng và toàn diện của quyền con người. Quyền
công dân là tập hợp những quyền tự nhiên được pháp luật của mỗi nước ghi nhận và
bảo đảm, nhưng chủ yếu dành cho những người của nước đó. Không phải ai cũng
được hưởng các quyền công dân của một quốc gia nhất định, và không phải hệ thống
GVHD: Th.S Thạch Huôn

4

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
quyền công dân của mọi quốc gia đều giống hệt nhau, cũng như đều hoàn toàn tương
thích với hệ thống các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người.
Ở nhiều gốc độ, quyền con người là khái niệm rộng hơn quyền công dân. Về tính
chất, quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước
mà còn thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Về phạm
vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, chủ thể của quyền con người
là tất cả các thành viên của gia đình nhân loại, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc
tịch….Một cá nhân, ngoại trừ những người không có quốc tịch, về danh nghĩa đồng
thời là chủ thể của cả hai loại quyền con người và quyền công dân, tuy nhiên sự thụ

hưởng hai loại quyền này chỉ được thể hiện trong một số hoàn cảnh đặc biệt. Ví dụ,
một người nước ngoài sẽ không được hưởng một số quyền công dân đặc thù, chẳng
hạn như quyền bầu cử, ứng cử….Tuy nhiên, người đó vẫn được hưởng các quyền con
người phổ biến áp dụng cho mọi thành viên của nhân loại trong mọi hoàn cảnh, cụ thể
như quyền sống, quyền tự do….
1.1.3. Bị can
Khái niệm về bị can được quy định lần đầu trong BLTTHS năm 1988 và được sử
dụng lại nguyên văn trong BLTTHS năm 2003: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình
sự”. Quy định này được hiểu rằng, khi một người được cho là đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và có
đủ căn cứ để khởi tố hình sự thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định khởi
tố hình sự và lúc đó họ trở thành bị can.
Bị can là người mà cơ quan điều tra có đủ căn cứ xác định rằng đã thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm nên đã ra quyết định khởi
tố bị can.2 Bị can cũng được xem là người bị tình nghi như người bị tạm giữ nhưng ở
mức độ tình nghi cao hơn. Bởi vì bị can tham gia tố tụng tương đối đầy đủ hơn người
bị tạm giữ, có sự tham gia của Cơ quan điều tra (hỏi cung bị can) và Viện kiểm sát
(truy tố bị can bằng bản cáo trạng). Cụ thể ở giai đoạn truy tố Viện kiểm sát sẽ dựa
trên bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra chuyển sang thì Viện kiểm sát xem xét
ra quyết định truy tố hoặc không truy tố bị can.
Từ góc độ áp dụng các biện pháp cưỡng chế, bị can có thể bị áp dụng các biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc hơn so với người bị tạm giữ. Bị can có thể bị tạm giam
hoặc các biện pháp ngăn chặn khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặc tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm bị can có thể bị truy nã nếu bỏ trốn, bị can bị hỏi
cung chứ không phải là lấy lời khai.

2 Khoản 1 Điều 126 BLTTHS 2003.

GVHD: Th.S Thạch Huôn


5

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
Từ góc độ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, bị can là người đã
bị buộc tội vì có căn cứ xác định là đã thực hiện tội phạm, bị can là người dễ có nguy
cơ bị xâm phạm các quyền tự do dân chủ, nhất là các quyền bất khả xâm phạm về
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm như truy bức, dùng nhục hình trong điều
tra, hỏi cung bị can.
Từ góc độ xác định địa vị tố tụng, do khả năng có thể bị áp dụng nhiều biện pháp
cưỡng chế tố tụng hình sự, bị can được quy định có nhiều quyền tố tụng hơn, trách
nhiệm tố tụng cũng được nới rộng hơn để làm cơ sở pháp lý cho bị can bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình so với người bị tạm giữ.
Bị can không phải là người có tội họ chỉ là những người nghi thực hiện tội phạm
chứ không phải là người có tội vì chỉ khi có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật ở Điều 9 BLTTHS năm 2003 và ở Điều 72 Hiến pháp năm 1992 đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã quy định. Bác
bỏ việc nghi thực hiện tội phạm hoặc bảo vệ mình trước khả năng bị xâm phạm các
quyền, lợi ích hợp pháp trong quá trình tố tụng hình sự giải quyết vụ án. Ví dụ khi
chính thức bị buộc tội, bị can hoàn toàn có quyền tự mình hoặc nhờ người khác sử
dụng tất cả các biện pháp mà BLTTHS quy định để bào chữa, tìm tài liệu, chứng cứ,
để chứng minh cho bản thân mình.
1.1.4. Quyền của bị can
Quyền con người trong tố tụng hình sự là quyền pháp lý của cá nhân, công dân
hay nói chính xác hơn là quyền của bị can do đang ở vào tình thế bất lợi vì có hành vi
vi phạm pháp luật hình sự hoặc đang bị tình nghi phạm tội, nên thông qua pháp luật,
nhà nước trao cho họ những quyền pháp lý nhất định, những quyền pháp lý, thường
được quy định trong Hiến pháp và luật để giúp họ có công cụ tự bảo vệ hoặc nhờ

người khác bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, tránh các nguy cơ xâm phạm không
đúng pháp luật từ phía các cơ quan hoặc cá nhân đang thực thi pháp luật.
Để đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong xã hội nói chung, các bản
Hiến pháp của nước ta đều đã có nhiều điều khoản nhấn mạnh quyền công dân trong
đó không thể không kể đến quyền của bị can trong tố tụng hình sự. Quyền của bị can
trong tố tụng hình sự là những quy định của pháp luật cho phép bị can được hưởng
thụ, vận dụng, thực hiện… để bảo vệ bản thân trong hoạt động tố tụng hình sự.
Quyền của bị can được pháp luật bảo vệ và tạo điều kiện cho bị can thực hiện tốt
những quyền mà bị can có được. Nếu cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự mà vi phạm, cản trở, nghiêm cấm bị can thực hiện
những quyền này để bảo vệ bản thân sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Cho dù
có đủ căn cứ để xác định họ đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng không phải vì thế
mà cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng coi họ và đối xử với họ như
GVHD: Th.S Thạch Huôn

6

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
người đã có tội vì suy cho cùng thì họ vẫn chỉ là những người bị nghi thực hiện tội
phạm bởi một lý do duy nhất là: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.”.3
Mặc dù bị can có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì họ là những người bị
nghi là thực hiện tội phạm, nhưng với tư cách là một chủ thể của hoạt động tố tụng
hình sự, họ luôn được pháp luật tạo cho mọi khả năng để bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của mình. BLTTHS năm 2003 và các văn bản pháp luật khác đã quy định
đầy đủ các quyền của bị can trong tố tụng hình sự, cụ thể ở Điều 49 khoản 2
BLTTHS năm 2003.4 Vì thế bị can vẫn còn có một số quyền công dân được pháp luật

bảo vệ. Việc vi phạm quyền của bị can, do bất cứ cơ quan nào thực hiện và ở bất cứ
giai đoạn tố tụng nào đều là vi phạm luật tố tụng hình sự và việc vi phạm này có thể
dẫn đến việc vi phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, bất khả xâm phạm về
nhà ở, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của bị can, làm oan người vô tội,….quy
phạm quyền con người và quyền công dân mà pháp luật bảo vệ.
1.2. Quá trình phát triển quyền của bị can trong tố tụng hình sự
Quyền của bị can trước năm 1945 chưa được chú trọng và cũng không được quan
tâm vì trong giai đoạn này đất nước đang trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc, cuộc
sống của người dân Việt Nam đang rất khổ cực. Quyền con người, quyền công dân
cũng không được chú trọng. Tuy nhiên đến năm 1945 Cách mạng tháng tám thành
công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Quyền con người, quyền công
dân cũng được chú trọng, Hiến pháp 1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta quan
tâm đến quyền con người, quyền công dân trong đó có quyền của bị can cũng được
quan tâm điển hình là BLTTHS năm 1988 ra đời đã quy định cho bị can một số
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự. Và về sau các bản hiến pháp mới và BLTTHS
mới cũng được hình thành và ngày càng quan tâm đến quyền của bị can trong tố tụng
hình sự. Vì vậy người viết đã chia giai đoạn quá trình phát triển quyền của bị can
trong tố tụng hình sự theo sự ra đời của các bản Hiến pháp và BLTTHS như sau:
1.2.1. Giai đoạn năm 1945 – 1988
Ngày 02/09/1945 Cách mạng tháng tám thành công và Nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, là Nhà nước dân chủ nhân dân, mặc dù còn non trẻ và tình hình đối

3 Điều 9 BLTTHS năm 2003.
4 “Được biết mình bị khởi tố về tội gì; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; đưa ra tài liệu,
đồ vật, yêu cầu; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của
bộ luật này; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng,
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra;
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy
định của bộ luật này; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng”.


GVHD: Th.S Thạch Huôn

7

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
nội cũng như đối ngoại cực kỳ phức tạp, Nhà nước đã quan tâm đến việc bảo vệ
quyền tự do, dân chủ của công dân nói chung và trong xét xử của Tòa án nói riêng.
Ngày 13/09/1945 Chính phủ lâm thời ra Sắc lệnh số 33/SL về thành lập Tòa án Cơ quan xét xử đầu tiên của Nhà nước ta. Ngày 29/03/1946 Chính phủ lâm thời ra
Sắc lệnh số 46 bảo đảm quyền tự do cá nhân. Sắc lệnh quy định ngoài trường hợp
phạm khinh tội hay trọng tội quả tang, việc bắt người phải có lệnh bằng văn bản của
Thẩm phán viên; việc giam cứu, gia hạn giam cứu người phạm tội do Tòa án quyết
định; quy định về thời hạn giam cứu…. Việc bảo đảm quyền con người cũng được
quy định tương đối cụ thể tại Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 tổ chức các Tòa án và
các ngạch Thẩm phán.
Đến ngày 09/11/1946 Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
được Quốc hội thông qua (Hiến pháp 1946). Những tư tưởng cơ bản về bảo vệ quyền
tự do, dân chủ công dân trong xét xử vụ án hình sự đã được quy định. Hiến pháp
khẳng định tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham
gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình,5 và
tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt
Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách
trái pháp luật.6
Khi Hiến pháp 1959 ra đời (Ngày 31/12/1959), một lần nữa tiếp tục khẳng định
các nguyên tắc quan trọng về bảo đảm quyền con người liên quan đến hoạt động xét
xử của Tòa án như mọi công dân bình đẳng trước pháp luật; quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, nhà ở, thư tín; nguyên tắc xét xử công khai, Tòa án xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật; bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo….Ở đây, Hiến pháp năm
1959 có một số bổ sung rất quan trọng như quy định quyền khiếu nại, tố cáo của công
dân7 mà Hiến pháp 1946 không có.
Đến Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp thứ ba của nước ta đã có những quy định hệ
thống, cụ thể và tương đối hoàn chỉnh về đảm bảo quyền con người liên quan đến
hoạt động xét xử vụ án hình sự. Ngoài việc quy định các quyền cơ bản của công dân
như quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở,
quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm và tài sản, quyền về
bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, quyền khiếu nại, tố cáo…Hiến pháp còn quy định
các bảo đảm cũng như trách nhiệm trong việc bảo đảm thực hiện các quyền đó của
công dân.

5 Điều 7 Hiến pháp 1946.
6 Điều 11 Hiến pháp 1946.
7 Điều 29 Hiến pháp 1959.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

8

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
Như vậy, vấn đề đảm bảo quyền con người luôn luôn được coi trọng qua các bản
Hiến pháp cũng như các văn bản pháp luật khác, nội dung càng cụ thể hơn, hoàn
chỉnh hơn, thể hiện mối quan hệ sâu sắc giữa Nhà nước và công dân trong việc ban
hành và chấp hành pháp luật, mà ở đó quyền và lợi ích của công dân không thể bị
xâm phạm được, trong mọi lĩnh vực cũng như trong tố tụng hình sự, nó là cơ sở cho
sự ra đời Bộ luật tố tụng hình sự 1988 bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể tố tụng trong

đó có quyền của bị can. Để hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng ở nước ta và quan
tâm hơn đến quyền của bị can.
1.2.2. Giai đoạn năm 1988-2003
BLTTHS năm 1988 của Nhà nước ta được Quốc Hội thông qua ngày 28/06/1988
và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989. Bằng việc ban hành Bộ luật này, lần đầu
tiên pháp luật tố tụng hình sự được pháp điển hóa hệ thống trong một văn bản thống
nhất. Cùng với các chế định khác, việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình
sự được quy định trong BLTTHS năm 1988 tương đối đầy đủ, toàn diện và hệ thống
thể hiện qua các điểm:
- Các nguyên tắc tố tụng đảm bảo quyền con người luôn chiếm vị trí quan trọng
đó là tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân ở Điều 3 BLTTHS năm
1988. Nguyên tắc này cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự của
nhà nước ta, đáp ứng yêu cầu bảo đảm đầy đủ các quyền dân chủ cơ bản của công
dân đã được Hiến pháp quy định. Đó là quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự
và nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện
thoại, điện tín.
Trong khi tiến hành điều tra, xét xử và thi hành án, cán bộ điều tra, xét xử và cán
bộ quản lý trại giam, trại cải tạo cần phải đối xử với bị can như đối với một con
người, một công dân trong xã hội, nghiêm cấm mọi hành vi trái pháp luật như dọa
dẫm, truy bức, nhục hình để bắt bị can nhận tội,…v.v. Nguyên tắc này, đề cao vai trò
và trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc điều tra cũng như xét
xử phải đảm bảo được quyền cơ bản của công dân.
- Bên cạnh đó, nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp
luật “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, thành phần địa vị xã
hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.8 Nhà nước phải đảm bảo
cho công dân được hưởng những quyền và thực hiện những nghĩa vụ tố tụng do luật
định bảo vệ quyền và lợi ích của mình.


8 Điều 4 BLTTHS năm 1988.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

9

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
- Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án.9 Tòa án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất có quyền phán
xử một người có tội bằng bản án hoặc quyết định kết tội có hiệu lực pháp luật theo
trình tự, thủ tục quy định. Người phạm tội chỉ phải chịu hình phạt và các hậu quả
pháp lý khác khi bản án, quyết định đó của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Nguyên tắc
này thể hiện vai trò trung tâm, đặc biệt quan trọng của Tòa án trong việc bảo đảm
quyền con người;
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.10 Đây là một nguyên tắc
rất quan trọng trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con người. Khẳng định bị
can có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Đồng thời nguyên tắc cũng
quy định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm cho bị can thực hiện
quyền bào chữa như giải thích cho họ quyền bào chữa, tạo điều kiện cho bị can nhờ
người bào chữa, yêu cầu cử người bào chữa trong trường hợp quy định, tạo điều kiện
cho người bào chữa thực hiện quyền tố tụng.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.11 Đảm bảo cho công dân có quyền khiếu nại,
tố cáo những hành vi, hoặc việc làm không đúng pháp luật của cơ quan hoặc người
tiến hành tố tụng trong quá trình xử lý vụ án. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những
người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng. Đối với người tiến hành tố tụng,
BLTTHS 1988 quy định những trường hợp từ chối hoặc bị thay đổi để đảm bảo cho

họ thực hiện nhiệm vụ tố tụng một cách vô tư, khách quan.
Tóm lại, so với các văn bản pháp luật tố tụng hình sự trước đây, BLTTHS 1988
đã có một bước phát triển lớn liên quan đến việc tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do,
dân chủ của công dân. Mặc dù quyền của bị can vẫn chưa thật đầy đủ, nhất là quyền
tố tụng của công dân; khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, các thủ tục tố tụng chưa
thể hiện đầy đủ cơ chế tố tụng và bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân, quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Nhưng ở thời điểm này có thể nói các
quy định của pháp luật tương đối hoàn chỉnh hơn so với thời kỳ trước đây, quyền và
lợi ích của con người cũng được bảo đảm và được pháp luật bảo vệ.
1.2.3. Giai đoạn 2003 đến nay
Qua gần 15 năm thi hành với 3 lần sửa đổi, bổ sung, BLTTHS năm 1988 đã là
một trong những căn cứ pháp lý giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tiến
hành các hoạt động của mình một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ góp phần vào
việc bảo đảm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
9 Điều 10 BLTTHS năm 1988.
10 Điều 12 BLTTHS năm 1988.
11 Điều 24 BLTTHS năm 1988.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

10

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên,
trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước trên tất cả các lĩnh vực trong đó có
cải cách tư pháp, BLTTHS 1988 đã không còn phù hợp nữa và bộc lộ những hạn chế
nhất định. Trước tình hình đó, Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ tư đã thông qua

BLTTHS 2003, Bộ luật có hiệu lực thi hành từ 01/07/2004.
BLTTHS quy định một số quyền công dân cho những người tham gia tố tụng
trong đó có quyền của bị can, quy định tại khoản 2 Điều 49 BLTTHS 2003. BLTTHS
2003 góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.
Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định mọi công dân
trong điều kiện bình thường được pháp luật tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản và
không ai được xâm phạm các quyền tự do cơ bản đó. Xuất phát từ quy định của Hiến
pháp, BLTTHS 2003 quy định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng
hình sự với nội dung quy định mọi hành vi của các chủ thể trong quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự phải được thực hiện theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự12 trên cơ sở thực hiện các nguyên tắc về bảo đảm các quyền
và lợi ích cơ bản của công dân.
Bên cạnh đó BLTTHS 2003 còn quy định chặt chẽ và đầy đủ một số nguyên tắc
đảm bảo quyền con người, quyền công dân như nguyên tắc không ai bị coi là có tội
khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật13 nguyên tắc này còn
được quy định trong hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Hiến
pháp năm 2013.14 Những quy định này cho thấy quyền công dân của những người bị
nghi là thực hiện tội phạm trong đó có quyền của bị can được bảo vệ. Ngoài nguyên
tắc này BLTTHS còn quy định nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và nguyên tắc
đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.15
Ngoài BLTTHS 2003 còn một số văn bản pháp luật khác quy định những quyền
lợi cho những người bị nghi là thực hiện tội phạm. Trong đó có quyền của bị can ở
Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ nhất “ những quy định chung” của bộ luật tố tụng hình sự cũng quy
định ở phần II về việc bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo.

12 Điều 3 BLTTHS 2003.

13 Điều 9 BLTTHS 2003.
14 Điều 72 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001và Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
15 Điều 10 và Điều 11 BLTTHS 2003.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

11

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
Và Hiến pháp 2013 được thông qua tại kỳ họp thứ sáu – Quốc hội khóa XIII có
hiệu lực từ ngày 01/01/2014 đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính
trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Trong Hiến pháp 2013 quy định về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân sau chương quy định về
chế độ chính trị. Đây cũng là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con
người trong Hiến pháp. Hiến pháp mới đã mở rộng phạm vi các đối tượng được đảm
bảo quyền bào chữa, không chỉ bị cáo mới có quyền bào chữa như các bản Hiến pháp
cũ quy định, mà ngay từ khi một người bị bắt, đã phát sinh quyền tự bào chữa, hoặc
nhờ luật sư bào chữa đối với họ, được đảm bảo bởi đạo luật có giá trị pháp lý cao
nhất là Hiến pháp. Tại Điều 49 BLTTHS cũng quy định bị can có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa. Đồng thời được cụ thể hóa tại Điều 4 Thông tư
70/TT-BCA ngày 10/10/2011 về đảm bảo quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự.
Tóm lại, Hiện nay quyền con người, quyền công dân được đảm bảo và chú trọng
nhiều hơn vì vậy việc quy định các quyền con người và quyền cơ bản của công dân
được nhà nước ta quy định chặt chẽ và hoàn thiện hơn trong đó có quyền của bị can
trong tố tụng hình sự.
1.3. Nguyên tắc trong tố tụng hình sự liên quan đến quyền của bị can

Pháp luật tố tụng hình sự có vị trí rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền con
người thông qua việc “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội”, hướng tới mục đích “góp phần bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi ý thức tuân
theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Do vậy, công việc xây dựng
và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự phải tuân theo nguyên tắc trong tố tụng. Các
nguyên tắc ấy được cụ thể hóa trong BLTTHS 2003, liên quan đến bảo đảm quyền
con người cũng như quyền của bị can trong tố tụng hình sự.
1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa16 là nguyên tắc quan trọng trong sinh hoạt
xã hội, trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, của các tổ chức xã hội,
của những người có chức vụ quyền hạn và của công dân. Đây là nguyên tắc Hiến
định vì nguyên tắc này được quy định ở Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2001 và Hiến pháp 201317 được hiểu là việc thường xuyên, nhất quán trong việc

16 Điều 3 BLTTHS năm 2003.
17 Điều 12 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Điều 8 Hiến pháp năm 2013.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

12

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
tuân thủ và chấp hành các quy định của pháp luật. Trong pháp luật tố tụng hình sự,
nguyên tắc này được cụ thể hóa trong việc xác lập trật tự, tiến trình giải quyết vụ án

hình sự.
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được luật điều chỉnh
chặt chẽ, cụ thể và các quy định của pháp luật phải được mọi tổ chức, công dân tuân
thủ một cách triệt để và nghiêm minh: Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là tư tưởng
chỉ đạo được quán triệt trong toàn bộ quá trình nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp
luật tố tụng hình sự. Nguyên tắc này có ý nghĩa đảm bảo cho việc tiến hành giải quyết
vụ án nhanh chóng, chính xác, có hiệu quả đồng thời đảm bảo các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Nội dung của nguyên tắc pháp chế trong tố tụng hình sự được thể hiện như sau:
Các hoạt động tố tụng, trình tự thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng, quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng và của các cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội và công dân phải được quy định trong luật tố tụng hình sự một
cách cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tế; mục đích giải quyết vụ án theo hướng phát
hiện nhanh chóng, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội chỉ có thể đạt được khi có sự
chấp hành một cách tự nguyện, triệt để pháp luật tố tụng hình sự của các chủ thể.
Để đảm bảo quyền con người thông qua nguyên tắc này trong quá trình tiến hành
các hoạt động tố tụng hình sự. Các Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành
tố tụng phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Ví
dụ, trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì chỉ được áp dụng những biện
pháp mà pháp luật quy định và cho phép để tiến hành các hoạt động của mình nhằm
xác định tội phạm và người phạm tội phải theo đúng trình tự thủ tục nhất định, cũng
như thuộc chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của những người có thẩm quyền khi áp
dụng các biện pháp đó theo quy định của pháp luật18 như thẩm quyền ra lệnh bắt bị
can tạm giam. Còn những người không thuộc thẩm quyền không được áp dụng, nhằm
tránh tình trạng bị chồng chéo về chức năng, thẩm quyền hoặc việc lạm dụng quyền
hạn, chức vụ của những người tiến hành tố tụng trong việc bắt, giam giữ người trái
pháp luật khi áp dụng biện pháp ngăn chặn, gây khó khăn và làm ảnh hưởng quyền
con người của người bị bắt, giam giữ.

Theo nguyên tắc thì quyền con người cũng được đảm bảo khi tham gia tố tụng,
pháp luật đã quy định cho bị can có các quyền và nghĩa vụ để bảo vệ mình khi lợi ích
của họ bị xâm phạm. Vì nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự

18 Khoản 1 Điều 80 BLTTHS 2003.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

13

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
đòi hỏi các quyền tố tụng của bị can phải được triệt để tôn trọng cũng như nghĩa vụ tố
tụng của bị can phải tuân thủ khi tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự, nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can. Bên cạnh đó nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa quy định trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc giải
thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị can. Từ những quy định trên
cho thấy nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo được quyền con người nói
chung và quyền của bị can nói riêng trong tố tụng hình sự.
Như vậy, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho hoạt động tố tụng
theo đúng quy định của pháp luật góp phần cho cuộc đấu tranh chống tội phạm được
kiên quyết, triệt để, kịp thời, bảo đảm giáo dục kẻ phạm tội, đồng thời ngăn chặn việc
làm oan người vô tội. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được ghi nhận là nguyên
tắc cơ bản của tố tụng hình sự, nguyên tắc này không chỉ định hướng cho hoạt động
tố tụng hình sự mà còn định hướng cho việc xây dựng pháp luật trong thực tiễn.
1.3.2. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân19 bảo đảm không
một công dân nào bị xâm phạm tới quyền và các lợi ích hợp pháp của mình. Nội dung

của nguyên tắc này được thể hiện là việc tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, khi tiến hành tố tụng.
Các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ được áp dụng các biện
pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra thu thập chứng cứ khi có những chứng cứ và
trong giới hạn quy định của luật tố tụng hình sự và thường xuyên kiểm tra, kiểm sát
tính hợp pháp, hợp lý của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra
thu thập chứng cứ, nếu phát hiện thấy có vi phạm pháp luật phải hủy bỏ ngay các
quyết định đó.
Khi những căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp thu thập chứng cứ
không còn hoặc không cần thiết thì các cơ quan và người có thẩm quyền phải kịp thời
hủy bỏ hoặc thay thế quyết định áp dụng các biện pháp đó, Tôn trọng và bảo vệ
quyền cơ bản của công dân là nguyên tắc có tính chất bao trùm, xuyên suốt trong mọi
hoạt động tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm
đảm bảo không một công dân nào bị xâm hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp.20
Theo quy định của nguyên tắc này, thì quyền con người cũng như quyền công dân
của bị can sẽ được đảm bảo vì pháp luật quy định, những người tiến hành tố tụng
không chỉ tôn trọng mà còn phải bảo vệ các quyền con người, quyền công dân của họ,

19 Điều 4 BLTTHS năm 2003.
20 Nguyễn ngọc chí – Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự - Tạp chí khoa học ĐHQGHN,
kinh tế - luật 23 ((2007) 64-80).

GVHD: Th.S Thạch Huôn

14

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam

phải đảm bảo để họ thực hiện đầy đủ các quyền mà pháp luật quy định khi tham gia
tố tụng, hoặc khi có vi phạm trong tố tụng như:
Bị can tham gia tố tụng trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn mà không
đúng trình tự, thủ tục hoặc giam giữ người quá thời hạn, bức cung, nhục hình trong
việc lấy lời khai, hay có những hành vi, thái độ ảnh hưởng đến quyền lợi của người
tham gia tố tụng, đã vi phạm thủ tục tố tụng thì phải thường xuyên kiểm tra, chủ động
thay đổi người tiến hành tố tụng, hủy bỏ hoặc thay đổi các biện pháp ngăn chặn, các
quyết định tố tụng trái pháp luật, xử lý người vi phạm, bồi thường thiệt hại v.v… Đây
là trách nhiệm của cơ quan, những người tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo quyền con
người, quyền của bị can.
1.3.3. Không ai bị xem là có tội khi chưa có bản án kết tội của toàn án đã có
hiệu lực pháp luật
Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.21 Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng trong tố tụng
hình sự được ghi nhận tại Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và bây
giờ nó được ghi nhận ở Hiến pháp 2013 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.22
Theo đó, BLTTHS nước ta quy định đó là một nguyên tắc dân chủ của tố tụng
hình sự. Nguyên tắc này có ý nghĩa pháp lý và đạo lý sâu sắc hình thành trên cơ sở là
nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo đó một người luôn được coi là không có tội nếu
chưa bị kết án bằng bản án kết tội của Tòa án và bản án đó chưa có hiệu lực pháp
luật. Nội dung của nguyên tắc này là một người chỉ bị coi là có tội và bị áp dụng hình
phạt khi Tòa án đã xem xét. Đánh giá chứng cứ chính thức tại phiên tòa và có đủ cơ
sở để kết luận hành vi của họ đã cấu thành tội phạm theo những quy định của luật
hình sự bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Khi chưa có bản án kết tội đã có
hiệu lực pháp luật thì một người chưa bị coi là có tội và không được đối xử với họ
như là người có tội.
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho họ trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án để
chứng minh họ không có tội hoặc để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và trách nhiệm

pháp lý nói chung. Theo nguyên tắc này thì những người này, họ vẫn phải chịu một
số biện pháp cưỡng chế nhất định, nhưng không ai được xem là có tội và không chịu
bất kỳ một hình phạt nào khi chưa có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

21 Điều 9 BLTTHS năm 2003.
22 Điều 72 Hiến Pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

15

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
Trong hệ thống cơ quan nhà nước thì Tòa án có chức năng xét xử về hình sự mà
nội dung của nó là đánh giá các chứng cứ một cách chính thức tại phiên tòa để ra
những phán quyết về sự việc phạm tội và hành vi phạm tội. Đồng thời, quyết định áp
dụng hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ của hành vi do người phạm tội thực
hiện. Vì vậy, một người chỉ bị coi là có tội và bị áp dụng hình phạt khi Tòa án đã xem
xét, đánh giá chính thức tại phiên tòa và có đủ cơ sở để kết luận hành vi của họ đã cấu
thành tội phạm theo các Điều, Khoản của Bộ luật hình sự bằng bản án có hiệu lực
pháp luật. Việc quy định nguyên tắc này trong luật tố tụng hình sự đã khắc phục được
sự định kiến của các Cơ quan tiến hành tố tụng đối với bị can. Hiện nay, còn không ít
người cho rằng, một người bị khởi tố, đã bị bắt tạm giam là có tội nên mọi người đối
xử với họ với thái độ khinh miệt, xa lánh, thậm chí những người thân của họ cũng
khinh rẽ, hắt hủi, sau một thời gian tiến hành điều tra, cơ quan điều tra chứng minh là
họ không có hành vi phạm tội, họ được trả tự do nhưng khi trở về với gia đình và xã
hội vẫn bị mặc cảm.
Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội không chỉ ngăn chặn sự phân biệt đối

xử của Cơ quan tiến hành tố tụng mà còn có ý nghĩa đặc biệt là xóa sự mặc cảm của
gia đình và xã hội khi họ được Tòa án tuyên vô tội nhằm đảm bảo quyền con người
của họ, đây là quyền con người luôn được pháp luật bảo vệ. Quyền con người còn
được thể hiện ngay trong nội dung của Điều luật “không ai bị coi là có tội” và “phải
chịu hình phạt” tức là những người phạm tội, trong quá trình xét xử mặc dù đã có bản
án kết tội của Tòa án nhưng chưa có hiệu lực thi hành, họ chưa phải chịu hình phạt thì
không bị coi là có tội, để họ không bị phân biệt đối xử trong lúc chờ bản án của Tòa
án có hiệu lực pháp luật, trong thời gian đó họ bị tạm giam không phải mặc áo phạm
nhân, đồng thời đề cao trách nhiệm, nhận thức của những người tiến hành tố tụng
phải đảm bảo cho họ có được những quyền đó khi tham gia tố tụng, có như vậy quyền
và lợi ích hợp pháp của họ cũng như quyền con người mới được bảo đảm.
1.3.4. Xác định sự thật của vụ án
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án23 là việc xác định sự thật của vụ án là tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự và là mục đích
của quá trình giải quyết vụ án hình sự, thể hiện bản chất của quá trình chứng minh tội
phạm. Xác định sự thật của vụ án cũng tức là bảo đảm cho việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm.
Xác định sự thật của vụ án hình sự còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết

23 Điều 10 BLTTHS năm 2003 quy định: “ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện
pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ
xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các Cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can,
bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

16

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai



Quyền của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam
các biện pháp tư pháp, giải quyết trách nhiệm dân sự và những vấn đề khác có liên
quan.
Vì vậy nó cũng là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, theo đó cơ quan tiến
hành tố tụng phải xác định toàn bộ diễn tiến của sự việc phạm tội đã xảy ra một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác, làm rõ những chứng cứ buộc tội và
chứng cứ gỡ tội…..Như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng không được quyền áp dụng
các biện pháp cưỡng chế tố tụng hay các biện pháp chế tài hình sự khi vụ việc chưa
có căn cứ rõ ràng được chứng minh. Trách nhiệm xác định sự thật của vụ án thuộc về
cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Theo quy định của nguyên tắc này, trong quá trình tiến hành tố tụng, các Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự
thật của vụ án. Việc áp dụng các biện pháp đó để đảm bảo quyền con người trong
trường hợp này thì, các biện pháp hợp pháp đó là các biện pháp do BLTTHS quy
định, bao gồm các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ và
các biện pháp khác do pháp luật quy định. Khi thực hiện các biện pháp ngăn chặn này
sẽ làm ảnh hưởng tới các quyền cơ bản của con người do vậy, các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án phải nghiêm chỉnh tuân thủ các quy định của pháp luật về việc
áp dụng các biện pháp đó, không được sử dụng các biện pháp bất hợp pháp để tiến
hành làm rõ vụ án có như vậy thì quyền con người mới được đảm bảo.
Để xác định sự thật của vụ án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải
chứng minh một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các vấn đề. Tức là phải xem
xét vấn đề một cách đúng đắn, toàn diện với sự tồn tại của nó, không phụ thuộc vào
yếu tố chủ quan của con người, không được suy diễn trong quá trình xác định sự thật
sẽ vi phạm nghiêm trọng tính khách quan của nguyên tắc này, làm ảnh hưởng đến
quyền con người của bị can, để quyền con người được đảm bảo thì những người tiến
hành tố tụng cần phải thu thập các nguồn thông tin, chứng cứ liên quan đến vụ án hay

tiến hành các hoạt động khác một cách đầy đủ để xác định sự thật vụ án. Các Cơ quan
tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, xác định sự thật vụ án.
Bởi vì các Cơ quan tiến hành tố tụng được Nhà nước thành lập và giao quyền áp
dụng các biện pháp do BLTTHS quy định mới có điều kiện để xác định sự thật khách
quan của vụ án. Do vậy, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các Cơ quan tiến
hành tố tụng. Việc quy định trách nhiệm như vậy để đảm bảo việc xử lý vụ án được
công minh, không để lọt tội phạm, trừng phạt thích đáng những người có hành vi
phạm tội đồng thời không làm oan người vô tội. Có như vậy, các quyền cơ bản của bị
can được đảm bảo khi tham gia tố tụng.
GVHD: Th.S Thạch Huôn

17

SVTH: Thạch Thị Huỳnh Mai


×