Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 81 trang )

hu

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2011 - 2015

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CHO QUYỀN
LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG DO HÀNG HÓA KÉM CHẤT
LƯỢNG GÂY RA

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Ths. TĂNG THANH PHƯƠNG
Bộ môn: Luật Tư pháp
Khoa Luật - ĐHCT

NÉANG KIM CHUA
MSSV: 5115784
Lớp: Luật Tư pháp K37

Cần Thơ,Tháng 11 - 2014


LỜI CẢM ƠN

Học – là một bước khởi đầu mới cho cuộc đời.


“Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy” người viết đã thấm thía câu nói đó sau
khi gia nhập quá trình học tập tại Trường Đại học Cần Thơ. Người viết đã gặp và quen
rất nhiều bạn bè trong và ngoài tỉnh với nhiều nền văn hóa khác nhau. Tại đây, người
viết ngoài gặp gỡ bạn bè mà còn học tập được rất nhiều điều hay, lẽ phải từ giảng viên
của trường Đại học Cần Thơ. Đó là điều mà sau này người viết không bao giờ quên.
Người viết muốn gửi lời cảm ơn đến Cha Mẹ đã có công sinh thành và ủng hộ người
viết học tập nên người trong suốt mười mấy năm qua , Người không quản công khó
nhọc để tạo điều kiện thuận lợi cho người viết được cấp sách đến trường dù hoàn cảnh
gia đình khó khăn như thế nào.
Cảm ơn các bậc Thầy, Cô tại trường Đại học Cần Thơ đã và đang giảng dạy. Nhờ
Người – Cha mẹ thứ hai – mà người viết có được kiến thức rộng về xã hội để sau này
vận dụng những kiến thức bổ ích phục vụ lợi ích cho người mọi xung quanh và lớn
hơn thế nữa là cho đất nước.
Đặc biệt, người viết xin gửi lời cảm ơn đến Cô Tăng Thanh Phương – Bộ môn Luật
Tư pháp, trong suốt thời gian qua Cô đã chỉ dạy một cách tận tình và là người trực tiếp
hướng dẫn cho người viết hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp.
Bên cạnh đó, người viết cũng xin cảm ơn đến tất cả các bạn đã từng đồng hành, động
viên người viết trong suốt suốt quá trình học tập.
Trong quá trình hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp của mình, dù người viết đã cố
gắng hoàn thành thật tốt nhưng, chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất
định. Người viết, sau bài viết này, người viết mong muốn nhận được sự giúp đỡ và
đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ........................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 3

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 4
5. Kết cấu đề tài ....................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CHO QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG DO
HÀNG HÓA KÉM CHẤT LƯỢNG GÂY RA .......................................................... 5
1.1.Những vấn đề cơ bản về hàng hóa kém chất lượng ở Việt Nam ..................... 5
1.1.1. Khái niệm chất lượng................................................................................... 5
1.1.2. Đặc điểm của chất lượng ............................................................................. 5
1.1.3. Khái niệm ...................................................................................................... 6
1.1.3.1. Khái niệm về hàng hóa kém chất lượng .................................................. 6
1.1.3.2. Khái niệm về hàng hóa khuyết tật ........................................................... 7
1.2. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho quyền lợi người
tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra........................................................ 8
1.2.1. Nhận diện về người tiêu dùng và các chế định đặc thù về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dùng ................ 8
1.2.2. Nhận diện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho
người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra ......................................... 9
1.2.2.1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. ............ 9
1.2.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.......... 10
1.2.4. Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và ngoài
hợp đồng. ............................................................................................................... 11
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển về chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng cho quyền lợi người tiêu dùng ....................................................................... 13
1.3.1. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dùng từ năm 1985 đến năm 1999 ............ 13
1.3.2. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
quyền lợi người tiêu dùng từ 1999 đến nay ....................................................... 14
1.4. Sơ lược pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi
người tiêu dùng của một số quốc gia trên thế giới ............................................... 16



1.4.1. Pháp luật của nước Mỹ .............................................................................. 16
1.4.2. Pháp luật của Đài Loan ............................................................................. 17
1.5. Ý nghĩa các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây
ra ............................................................................................................................... 18
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG CHO QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG DO HÀNG HÓA KÉM CHẤT
LƯỢNG GÂY RA ....................................................................................................... 20
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho
quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra.......................... 20
2.1.1. Có thiệt hại xảy ra ...................................................................................... 21
2.1.1.1. Thiệt hại về vật chất ............................................................................... 21
2.1.1.2. Thiệt hại về tinh thần ............................................................................. 23
2.1.2. Phải có hành vi trái pháp luật ................................................................... 24
2.1.3. Hành vi gây thiệt hại của cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh có lỗi.
................................................................................................................................ 25
2.1.3.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp có lỗi ........................................ 25
2.1.3.2. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp không có lỗi. ............................ 26
2.1.4. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại trên thực tế xảy
ra ............................................................................................................................ 27
2.2. Chủ thể trong quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra 29
2.2.1. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ....................................... 29
2.2.2. Chủ thể được bồi thường thiệt hại............................................................ 30
2.3. Xác định bồi thường thiệt hại cho quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa
kém chất lượng gây ra ............................................................................................. 31
2.3.1. Thiêt hại về tài sản ..................................................................................... 31
2.3.2. Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe .............................................................. 32
2.3.2.1. Xác định thiệt hại về sức khỏe ............................................................... 33

2.3.2.2. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm ..................................................... 34
2.4. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vi phạm quyền lợi người
tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra...................................................... 36
2.4.1. Bồi thường toàn bộ cho những thiệt hại của người tiêu dùng ............... 36
2.4.2. Bồi thường kịp thời cho những thiệt hại của người tiêu dùng............... 37


2.4.3. Nguyên tắc thỏa thuận trong việc bồi thường thiệt hại .......................... 38
2.5. Chế định được miễn bồi thường thiệt hại ...................................................... 39
2.5.1. Trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ... 39
2.5.2. Các trường hợp không phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vi
phạm ...................................................................................................................... 41
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CHO QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG DO
HÀNG HÓA KÉM CHẤT LƯỢNG GÂY RA VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ...... 43
3.1. Những thành tựu đạt được của pháp luật Việt Nam. ................................... 43
3.2. Những khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .................... 48
3.3. Thực trạng về quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây
ra hiện nay tại Việt Nam ......................................................................................... 49
3.3.1. Thực trạng về các quy định của pháp luật trong việc quản lý người tiêu
dùng. ...................................................................................................................... 49
3.3.1.1. Do sự bất cập trong cơ chế quản lý nhà nước...................................... 49
3.3.1.2. Do luật chưa hoàn thiện, đồng bộ ......................................................... 50
3.3.2. Thực trạng tâm lý người tiêu dùng khi sử dụng phải hàng hóa kém chất
lượng ...................................................................................................................... 51
3.3.2.1. Do sự “tiếp tay” của người tiêu dùng ................................................... 52
3.3.2.2. Do người tiêu dùng ngại động chạm đến việc kiện cáo. ....................... 52
3.3.3. Thực trạng hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của hệ thống
Tòa án .................................................................................................................... 54
3.3.4. Thực trạng trong việc xác định thiệt hại cho quyền lợi người tiêu dùng

do hàng hóa kém chất lượng gây ra ................................................................... 55
3.3.5. Thực trạng xác định chủ thể bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng
do hàng hóa kém chất lượng gây ra ................................................................... 56
3.4. Giải pháp hoàn thiện của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất
lượng gây ra…………………………………………………………………..…57
3.4.1. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật cho người
tiêu dùng…………………………………………………………………...……57
3.4.2. Một số giải pháp nâng cao các cơ quan quản lý nhà nước trong việc
quản lý người tiêu dùng ....................................................................................... 59


3.4.3. Sửa đổi, bổ sung các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cho
quyền lợi người tiêu dùng .................................................................................... 62
3.4.4. Hoàn thiện khi xác định thiệt hại cho người tiêu dùng. ......................... 63
3.5. Một số thực trạng nạn hàng hóa kém chất lượng ở Việt Nam ..................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 71


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển đột
phá. Các doanh nghiệp kinh doanh được chủ động sản xuất, kinh doanh, và tự do cạnh
tranh. Tuy nhiên để đảm bảo sự phát triển nền kinh tế thị trường có sự định hướng xã
hội chủ nghĩa của nhà nước thì chúng ta đã xây dựng một hệ thống pháp luật tạo hành
lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động và là cơ sở để nhà nước tiến hành hoạt
động quản lý. Sự phát triển kinh tế thể hiện qua hàng hóa, dịch vụ ngày càng cao, được

cung cấp đầy đủ, đa dạng hơn và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Đó là
một thuận lợi rất lớn cho người tiêu dùng có thể lựa chọn hàng hóa, dịch vụ thích hợp
với nhu cầu của mình. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó người tiêu dùng gặp
phải rất nhiều khó khăn việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ thích hợp với nhu cầu của
việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng của mình. Bởi sự đa
dạng của chủng loại hàng hóa, dịch vụ đòi hỏi người tiêu dùng phải có những kiến
thức tiêu dùng nhất định; ngoài ra một số loại hàng hóa, dịch vụ còn đòi hỏi phải có
kiến thức chuyên sâu mới có thể thẩm định về chất lượng của chúng và sự quản lý,
kiểm định chặt chẽ của nhà nước. Điều này thì không phải mọi người tiêu dùng đều có
thể đáp ứng, mặt khác điều kiện của nước ta - xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp khi
bước sang phát triển theo nền kinh tế thị trường nên kĩ năng quản lý còn yếu kém. Lợi
dụng điều đó, nhiều nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã chạy theo lợi nhuận
mà không tuân thủ các quy định của nhà nước trong quá trình sản xuất và cung ứng ra
thị trường để cung cấp cho người tiêu dùng những hàng hóa không đảm bảo về chất
lượng sản phẩm và gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Vì vậy, nhu cầu cần có một hệ
thống pháp luật để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và phương pháp để xử
lý những hành vi trái pháp luật đối với những doanh nghiệp lợi dụng tình thế để vi
phạm pháp luật nói riêng và đó là một nhu cầu cấp bách tồn tại song song với sự phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường thì thị trường do người tiêu dùng điều tiết, vì vậy
người tiêu dùng đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định chính sách kinh
tế, xã hội…Người tiêu dùng là đối tượng được mọi hoạt động hướng tới đặc biệt là
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Và ngày nay, vai trò của người tiêu dùng chưa được
quan tâm đúng mức và nó đang bị xâm phạm một cách nghiêm trọng ở mọi lúc mọi
nơi, mọi lĩnh vực và đặc biệt là trong thực phẩm; vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm
đang là vấn đề gây bức xúc cho người tiêu dùng, đặc biệt là về hàng hóa kém chất
lượng - mà người viết đang làm đề tài nghiên cứu - đã làm đau đầu các nhà quản lý. Vì
lợi nhuận trước mắt mà nhiều cá nhân, tổ chức, sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương


1

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
đã sản xuất, nhập khẩu hàng hóa, hàng hóa khuyết tật và thực phẩm không an toàn
xâm hại không nhỏ đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người tiêu dùng. Trong khi sự
quản lý của nhà nước còn yếu kém nên dẫn tới tình trạng tình hình các sản phẩm
không đủ chất lượng tràn lan trên thị trường và không chỉ ở các cửa hàng nhỏ lẻ mà
trong cả các siêu thị; số ca ngộ độc thực phẩm do sử dụng hàng hóa không đảm bảo
chất lượng; các bệnh truyền lây do thực phẩm không an toàn ngày càng tăng…
Bên cạnh đó, không chỉ vì chất lượng sản phẩm làm ảnh hưởng tới người tiêu dùng mà
ngày nay, thông qua các quy định của hợp đồng đối với người tiêu dùng cũng bị vi
phạm nghiêm trọng. Đặc biệt là vi phạm ngoài hợp đồng. Bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng là một chế định quan trọng trong Bộ luật dân sự. Theo quy định tại Điều 281
Bộ luật dân sự năm 2005 thì một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là
sự kiện “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các
quy định tại chương XXI, Phần thứ ba Bộ luật dân sự “trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng”. Sự kiện gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân hay pháp nhân đối
với NTD khi sản phẩm của họ bị gọi là kém chất lượng. Trong trường hợp này, trách
nhiệm được gọi là nghĩa vụ, bổn phận của người gây thiệt hại phải bồi thường cho
người thiệt hại vì sản phẩm của họ. Nhà làm luật trong trường hợp này đã đồng nghĩa
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với “nghĩa vụ phát sinh do hành vi
trái pháp luật”.
Vấn đề đặt ra là, trong điều kiện như vậy phải có các biện pháp hữu hiệu để
ngăn chặn những hành vi trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh
hàng hóa đối với người tiêu dùng và tìm ra giải pháp tốt nhất về các trường hợp phát

sinh nghĩa vụ của các doanh nghiệp đối với người tiêu dùng khi xảy ra thiệt hại để bồi
thường ngoài hợp đồng. Biện pháp hiện tại hữu hiệu nhất để bảo vệ người tiêu dùng và
những phát sinh ngoài ý muốn của họ về nạn hàng hóa kém chất lượng vẫn là pháp
luật. Căn cứ vào thực tế và ý thức chủ động để nắm tình thế chủ động thì Nhà nước ta
đã xây dựng hệ thống pháp luật khá hoàn thiện để bảo vệ được người tiêu dùng khi
khách thể của họ bị một chủ thể như hàng hóa kém chất lượng xâm phạm. Theo quy
định của pháp luật hiện hành, các yêu cầu đòi bồi thường của người tiêu dùng sẽ được
giải quyết ngay cả trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng khi quyền lợi của người tiêu
dùng bị xâm hại do việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ không đúng chất lượng, khuyết tật
của nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa. Tuy nhiên quy định pháp luật về bồi thường
thiệt hại cho người tiêu dùng ngoài hợp đồng rất chung chung và còn nhiều bất cập.
Hơn nữa việc bồi thường thiệt hại từ các nhà doanh nghiệp còn rất nhiều hạn chế, một
số doanh nghiệp vì uy tín thì họ đền bù cho người tiêu dùng chỉ với phương thức là hỗ
trợ nhưng phần lớn thì lại chay lì khi bồi thường cho người tiêu dùng. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

2

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra” không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý
nghĩa thực tiễn rất lớn. Qua đó, người viết muốn đóng góp một phần nhỏ đề tài nghiên
cứu vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật để hạn chế sự vi phạm các hành vi
trái pháp luật về người tiêu dùng.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi của đề tài “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi

người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra” là một đề tài hẹp của bồi thường
thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Ở đây, người viết chỉ tập trung phân
tích và làm rõ các nội dung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho
người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra dựa trên nền tảng lý luận về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại dùng.
Trong đó, người viết tập trung nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề chính liên
quan tới chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho người tiêu dùng như: Nghĩa
vụ bồi thường của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh gây thiệt hại cho người
tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra; căn cứ phát sinh thiệt hại theo quy định
của Bộ luật dân sự năm 2005 và theo Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08
tháng 07 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp
dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng và các quy định của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007; Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Ngoài ra, người viết cũng phân tích những bất
cập, vướng mắc đang tồn tại trên thực tế của quy định này kể từ khi được ban hành đến
hiện tại.
3. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng cho quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra; cơ sở để
người tiêu dùng buộc các nhà doanh nghiệp chịu trách nhiệm trước pháp luật do hành
vi của mình làm ra; vai trò của cơ quan nhà nước trong quản lý bảo vệ người tiêu
dùng…
Đánh giá, phân tích hiện trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho
quyền lợi người tiêu dùng và tình trạng quy định ngoài hợp đồng về hàng hóa kém
chất lượng của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Qua đó, đưa ra một số phương hướng cụ thể để hoàn thiện các quy định của pháp luật
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vi phạm quyền lợi người tiêu
dùng.
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương


3

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người viết đã sử dụng phương pháp so sánh, phân
tích, tổng hợp và thống kê.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài mục lục; Lời nói đầu; Danh mục tài liệu tham khảo và phần Kết luận của
bài viết được bố cụ như sau:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho
quyền quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra.
Chương 2: Cơ sở pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho
quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho
quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra và hướng hoàn thiện.

GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

4

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG

THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CHO QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG DO
HÀNG HÓA KÉM CHẤT LƯỢNG GÂY RA
1.1.Những vấn đề cơ bản về hàng hóa kém chất lượng ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm chất lượng
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường xuyên tiếp cận và nói nhiều các thuật
ngữ “chất lượng”, “chất lượng sản phẩm”, “chất lượng cao”,v.v…Mỗi quan điểm đều
có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau nhằm thúc đẩy kkhoa học quản lý
chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Để hiểu rõ về khái niệm chất lượng sản phẩm trước tiên ta phải làm rõ khái niệm “chất
lượng”, có rất nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng do các nhà nghiên cứu tiếp
cận với những góc độ khác nhau.
Theo tổ chức kiểm tra chấ lượng Châu Âu (EOQC) thì “Chất lượng là mức phù hợp
của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng.”
Theo tiêu chuẩn Astraylia (AS1057 – 1985) thì “Chất lượng là sự phù hợp với mục
đích”.
Từ khi tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO đã ra định nghĩa ISO 9000 – 1994 (TCVN
5814 – 1994) thì các cuộc tranh cãi lắng xuống và nhiều nước chấp nhận định nghĩa
này: “Chất lượng là một tập hợp các tính chất và đặc trưng của sản phẩm tạo ra cho
nó khả năng thỏa mãn nhu cầu đã được nêu ra hoặc còn tiềm ẩn”.
Qua đó, do sản phẩm, hàng hóa phát triển theo khuynh hướng thị trường hóa thì khái
niệm về chất lượng sản phẩm cũng được đề cập và tồn tại trong pháp luật Việt Nam.
Khái niệm về chất lượng sản phẩm quy định trong Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa
năm 2007 của Việt Nam thì: “Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là mức độ của các đặc
tính của sản phẩm, hàng hóa đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy
chuẩn kỹ thuật tương ứng.”
1.1.2. Đặc điểm của chất lượng
Từ định nghĩa trên ta rút ra một số đặc điểm sau đây của khái niệm chất lượng:
Thư nhất, chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu. Nếu một sản phầm vì lý do
nào đó mà không được nhu cầu chấp nhận thì phải bị coi là có chất lượng kém, cho dù
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương


5

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
trình độ công nghệ để chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây là một kết luận
then chốt và là cơ sở để các nhà chất lượng định ra chính sách, chiến lược kinh doanh
của mình.
Thứ hai, do chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn luôn biến
động nên chất lượng cũng luôn luôn biến động theo thời gian, không gian, điều kiện sử
dụng.
Thứ ba, khi đánh giá chất lượng của một đối tượng, ta phi xét và chỉ xét đến mọi đặc
tính của đối tượng có liên quan đến sự thỏa mãn những nhu cầu cụ thể. Các nhu cầu
này không chỉ từ phía khách hàng mà còn từ các bên có liên quan, ví dụ như các yêu
cầu mang tính pháp chế, nhu cầu của cộng đồng xã hội.
Thứ tư, nhu cầu có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các qui định, tiêu chuẩn nhưng
cũng có những nhu cầu không thể miêu tả rõ ràng, người sử dụng chỉ có thể cảm nhận
chúng, hoặc có khi chỉ phát hiện được trong chúng trong quá trình sử dụng.
Thứ năm, chất lượng không phi chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hóa mà ta vẫn
hiểu hàng ngày. Chất lượng có thể áp dụng cho một hệ thống, một quá trình.
Khái niệm chất lượng trên đây được gọi là chất lượng theo nghĩa hẹp. Rõ ràng khi nói
đến chất lượng chúng ta không thể bỏ qua các yếu tố giá cả và dịch vụ sau khi bán, vấn
đề giao hàng đúng lúc, đúng thời hạn đó là những yếu tố mà khách hàng nào cũng
quan tâm sau khi thấy sản phẩm mà họ định mua thỏa mãn nhu cầu của họ.
1.1.3. Khái niệm
1.1.3.1. Khái niệm về hàng hóa kém chất lượng
Khái niệm về hàng hóa kém chất lượng không được quy định trong luật, kể cả

luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Mà thông qua đó, theo Khoản 5 Điều 3 Luật
Chất lượng sản phẩm năm 2007 thì chỉ quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa có
nghĩa là: “Mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hóa đáp ứng được yêu cầu
trong tiêu chuẩn được công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”. Nghĩa là, các
nhà luật gia đã quy định một mức tiêu chuẩn cho sản phẩm, hàng hóa và chỉ thuộc vào
mức độ đó thì sản phẩm, hàng hóa mới đủ chất lượng để lưu hành trên thị trường. Một
hàng hóa không có các thuộc tính trên thì không đầy đủ chất lượng, nhưng cũng không
thể gọi hẳn là kém chất lượng.
Theo đại từ điển Tiếng Việt thì “kém” là một tính từ có nghĩa là nó đạt ở dưới
mức trung bình. Vậy “hàng hóa kém chất lượng” nghĩa là, sản phẩm, hàng hóa ở đây
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

6

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
chất lượng đạt dưới mức trung bình tiêu chuẩn do Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa
đã đề ra. Chất lượng của hàng hoá không được bảo đảm an toàn trong một trạng thái
nào đó mà thuộc tính của hàng hóa đó cần. Khi người tiêu dùng sử dụng phải hàng hóa
kém chất lượng có thể gây ra những biến chứng, thay đổi trong cơ thể và xảy ra một
thiệt hại nhất định nào đó cho chính người tiêu dùng.
Vậy, hàng hóa kém chất lượng được hiểu là những hàng hóa, sản phẩm có chất lượng
thấp hơn mức trung bình tiêu chuẩn chất lượng mà nhà nước đã đề ra. Bản thân những
hàng hóa này có chứa tiềm ẩn một mối nguy hiểm cụ thể tùy thuộc vào mức độ thuộc
tính của chính hàng hóa đó. Thông qua đó, nó sẽ gây ra những thiệt hại cho người tiêu
dùng như về tài sản, sức khỏe, tính mạng.
1.1.3.2. Khái niệm về hàng hóa khuyết tật

Tại Việt Nam và các nước trên thế giới, khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất,
chế biến, vận chuyển và lưu trữ là loại khuyết tật dễ xảy ra. Các dạng khuyết tật này có
thể diễn ra đối với mọi loại hàng hóa, từ hàng tiêu dùng cho đến những hàng hóa xa xỉ
phẩm như ô tô, điện thoại, xe máy... Nhiều khuyết tật ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử
dụng hàng hóa của người tiêu dùng như các lỗi kỹ thuật liên quan đến phanh, dầu động
cơ của xe máy, ô tô... Một số khuyết tật có thể không trực tiếp ảnh hưởng tới tính
mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng nhưng có thể gây ra những tâm lý lo ngại
cho người tiêu dùng, ví dụ như hiện tượng đóng cặn xảy ra đối với nước mắm Miwon
Hải Ngư hoặc tiếng kêu lạ trên vành bánh sau xe Liberty trong thời gian vừa qua. Điều
quan trọng đối với các tổ chức, cá nhân là ngay khi phát hiện hoặc nhận được thông tin
do khách hàng cung cấp về bất kỳ sự không hài lòng nào liên quan đến hàng hóa thì
cần tiến hành các chương trình kiểm tra. Nếu phát hiện khuyết tật và khuyết tật này
xảy ra trên phạm vi nhiều sản phẩm thì cần ngay lập tức dừng việc cung cấp hàng hóa
có khuyết tật ra thị trường và kịp thời thông báo về khuyết tật này tới người tiêu dùng.
Tùy theo phạm vi thị trường phân phối tổ chức, cá nhân cũng cần thông báo rộng rãi
tới người tiêu dùng về cách thức mà tổ chức, cá nhân khắc phục khuyết tật đó.
Khái niệm về hàng hóa có khuyết tật theo Luật bảo vệ người tiêu dùng thì: “Hàng hóa
có khuyết tật là hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, có khả năng
gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả trường hợp
hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật hiện hành
nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hóa được cung cấp cho
người tiêu dùng”.
Cũng giống như hàng hóa kém chất lượng, hàng hóa có khuyết tật được hiểu là sản
phẩm gây ra sự thiếu an toàn (nguy hiểm) một cách bất hợp lý trong điều kiện sử dụng
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

7

SVTH: Néang Kim Chua



Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
bình thường, không đáp ứng được yêu cầu mà một người sử dụng mong đợi, không
phù hợp với những tiêu chuẩn thiết kế ban đầu, sản xuất hàng hóa. Khái niệm của hàng
hóa khuyết tật bao quát hơn và bao trùm lấy cả hàng hóa kém chất lượng. Được gọi là
hàng hóa có khuyết tật khi hàng hóa đó có mối nguy hại mà không thể phát hiện được
với khoa học công nghệ ngay tại thời điểm đó.
Hàng hóa có khuyết tật có ba loại cơ bản: khuyết tật do thiết kế; khuyết tật do sản xuất;
khuyết tật do không cảnh báo sự nguy hiểm, không cảnh báo sự an toàn.
Về trách nhiệm, thì trách nhiệm đối với sản phẩm do mình tạo ra rõ ràng đã được quy
định trong pháp luật về chất lượng sản phẩm và không thể nào là đối tượng trực tiếp
của Luật bảo vệ người tiêu dùng. Vấn đề ở đây, trên thực tế người tiêu dùng thường
không thiết lập quan hệ pháp lý trực tiếp với nhà sản xuất mà khi sản phẩm, hàng hóa
đến được tay người tiêu dùng đã trải qua nhiều khâu của hệ thống pháp luật phân phối,
đặc biệt là những hàng hóa nhập khẩu. Điều này đã dẫn đến tình trạng là người cung
cấp sản phẩm, hàng hóa cần phải chịu trách nhiệm về khuyết tật mà sản phẩm không
chính anh ta tạo ra. Ở đây tính chất ngoại lệ được thể hiện ở chỗ:
Một là, khi xác định trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp sản phẩm, hàng hóa, yếu tố
lỗi sẽ không được đặt ra. Kể cả khi nhà cung cấp chứng minh là lỗi khuyết tật thuộc về
nhà sản xuất thì cũng chỉ là để xác định trách nhiệm bồi hoàn trong các chuỗi quan hệ
trước, không liên quan đế các quan hệ tiêu dùng. Nhưng, thiệt hại do hàng hóa kém
chất lượng gây ra, khi xác định một chế định pháp lý nào đó thì lỗi là yếu tố được đặt
ra phối hợp cùng với hành vi trái pháp luật của cá nhân, tổ chức sản xuất để xác định
thiệt hại đã gây ra cho người tiêu dùng. Yếu tố lỗi được đặt ra trong cả hai trường hợp
đó là lỗi cố ý và lỗi vô ý cho dù nhà sản xuất cố ý hay không cố ý, thì khi người tiêu
dùng bị thiệt hại do hàng hóa của họ thì họ bắt buộc phải bồi thường thiệt hại.
Hai là, học thuyết chủ đạo về nghĩa vụ chứng minh đều cho rằng, người nào có yêu
cầu trước Tòa thì người đó có nghĩa vụ chứng minh. Trong khi tại đây, nghĩa vụ chứng
minh lỗi lại thuộc về bên bị “cáo buộc”.

1.2. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho quyền lợi người
tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra
1.2.1. Nhận diện về người tiêu dùng và các chế định đặc thù về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dùng
Người tiêu dùng Theo từ điển Tiếng Việt thì “Tiêu dùng là sử dụng của cải vật
chất phục vụ cho sản xuất và đời sống”. Vậy người tiêu dùng là những người sử dụng
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

8

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
của cải vật chất để phục vụ vào sản xuất, đời sống của họ để thỏa mãn nhu cầu cần
thiết về tinh thần lẫn vật chất.
Theo Điều 1 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì “Người tiêu dùng là
người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân,
hộ gia đình và tổ chức”. Như vậy, khái niệm theo Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng
thì phạm vi chủ thể ở đây có sự thu hẹp hơn, rõ ràng hơn do quy định về mục đích tiêu
dùng hàng hóa chỉ là áp dụng với trường hợp tiêu dùng cho sinh hoạt hàng ngày của
họ chứ không dùng để tham gia vào mục đích sản xuất kinh doanh.
Thuật ngữ người tiêu dùng cũng được pháp luật của nhiều nước trên thế giới đề cập tới
nhưng mỗi nước đều có cách nhìn nhận riêng về thuật ngữ này. Cụ thể:
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Liên Xô cũ định nghĩa người tiêu dùng là
Công dân sử dụng, mua đặt hàng hoặc có ý định mua sắm sản phẩm để sử dụng riêng.
Như vậy với việc định nghĩa trên, người tiêu dùng chỉ được sử dụng với nghĩa rất hẹp,
chưa tính đến những người sử dụng các dịch vụ. Nhung do bối cảnh lịch sử mà việc
đáp úng những nhu cầu của người dân ở giai đoạn này mới ở mức tối thiểu, mặt khác

các loại hình dịch vụ chưa có điều kiện phát triển nên việc xác định như vậy đã phù
hợp với hoàn cảnh lúc đó của lịch sử.
Theo Luật tiêu dùng của Cộng hòa Pháp thì người tiêu dùng được hiểu không một chủ
doanh nghiệp, tức là thể nhân mua các sản phẩm và dùng các dịch vụ không nhằm mục
đích hoạt động nghề nghiệp, kiếm lợi nhuận để phục vụ cho gia đình hoặc bản
thân.Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Đài Loan thì “Người tiêu dùng
là người tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vì mục đích tiêu
dùng” (Khoản 1, Điều 2, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Đài Loan).
1.2.2. Nhận diện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho
người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây ra
1.2.2.1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của
pháp luật thế giới cũng như pháp luật Việt Nam. Kế thừa những quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, pháp luật dân
sự ngày nay đã có ngững quy định khá chi tiết về vấn đề này, cụ thể tại Điều 307 về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và chương XXI về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ
khái niệm bồi thường thiệt hại mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc
bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm…
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

9

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý, ta có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý

của mình gây tổn hại cho người khác thì phải bồi thường những tổn thất mà mình gây
ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng chỉ được
xây dựng dưới dạng qua điểm mà chưa được ghi nhận chính thức trong bất cứ một loại
văn bản pháp luật nào. Theo đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được
hiểu là một loại trách nhiệm dân sự theo đó, người có hành vi trái pháp luật dân sự
phải bồi thường cho người thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi chủ thể luật dân sự có
hành vi vi phạm nói chung như xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Ngoài ra, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn phát sinh ngay cả khi hai bên có quan
hệ hợp đồng trong trường hợp gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng hoặc các bên có
quan hệ hợp đồng nhưng thiệt hại xảy ra không liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ
theo hợp đồng.
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 thì, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
còn gọi là trách nhiệm dân sự do hành vi trái pháp luật được quy định tại Điều 604 Bộ
luật Dân sự, cụ thể:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh
dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc của chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả
trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xây dựng
trên nguyên tắc người gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường. Khi một người
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự gây thiệt hại tới tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản … của cá nhân hoặc pháp nhân thì
phải có trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ nhằm
đảm bảo việc đền bù tổn thất đã gây ra mà còn giáo dục mọi người về ý thức tuân thủ

pháp luật, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác. Hậu quả của việc áp dụng trách nhiệm này luôn mang đến những bất lợi
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

10

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
về tài sản cho người gây ra thiệt hại mà họ đã gây ra cho các chủ thể khác, đặc biệt đối
với các hành vi phạm tội với động cơ vụ lợi.
1.2.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Là một loại trách nhiệm dân sự, ngoài những đặc điểm của trách nhiệm dân sự nói
chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có những đặc điểm
riêng như sau:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi thỏa mãn những điều
kiện nhất định do pháp luật quy định, giữa các bên không có quan hệ hợp đồng, thiệt
hại xảy ra không liên quan đến hợp đồng.
- Thiệt hại xảy ra rất đa dạng.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm về tài sản, hậu quả
pháp lý mà người gây thiệt hại phải gánh chịu là hậu quả bất lợi về tài sản.
- Người gây thiệt hại phải bồi thường trong một số trường hợp không có lỗi.
1.2.4. Phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và ngoài hợp
đồng.
Việc phân biệt hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại có ý nghĩa rất lớn về cả
mặt lý luận và thực tiễn vì tùy vào trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trong hay ngoài
hợp đồng mà có cách xác định trách nhiệm của chủ thể phải bồi thường, thủ tục pháp
lý khác nhau khi có sự vi phạm xảy ra…Để phân biệt hai hình thức đó ta dựa vào các

tiêu chí sau:
Một là về định nghĩa: trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là trách
nhiệm dân sự phát sinh trong trường hợp một bên do không thực hiện, thực hiện không
đúng, không đầy đủ các điều khoản đã tự nguyện cam kết trong hợp đồng mà gây thiệt
hại cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. Có nghĩa là nó phát sinh dưới tác động
trực tiếp của quy phạm pháp luật, không có sự dự liệu hay thỏa thuận trước của các
chủ thể.
Từ định nghĩa trên ta có thể phân biệt hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại này ở
các đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất và cơ bản nhất là ý chí của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ
này. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thì các chủ thể có
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

11

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
quan hệ với nhau qua một hợp đồng, các chủ thể này đã dự liệu và thỏa thuận trước về
những thiệt hại và mức độ bồi thường thiệt hại các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ bồi thường (Điều 401 Bộ luật dân sự 1999, Điều 402 Bộ luật dân sự 2005). Còn đối
với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì giữa các chủ thể của quan hệ
pháp luật đó chưa hề có quan hệ hợp đồng với nhau hoặc nếu có quan hệ thông qua
một hợp đồng thì nội dung của hợp đồng này không liên quan đến thiệt hại phát sinh
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở đây. Việc xảy ra thiệt hại là ngoài ý chí của các
chủ thể, vì vậy hai bên chỉ đặt ra vấn đề thỏa thuận về bồi thường thiệt hại và mức bồi
thường thiệt hại khi sự kiện gây thiệt hại đã xảy ra. Đây là đặc điểm có tính kiên quyết
đến các đặc điểm khác của hai hình thức bồi thường thiệt hại này. Ví dụ: Chị A là chủ

của một cửa hàng đông lạnh. Cửa hàng chị luôn cam kết với mọi khách hàng là bán
hàng hóa đảm bảo chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm. Bà B là một khách hàng
quen của cửa hàng chị A, tin tưởng vào uy tín của chị. Ngày 06/9/2014 bà B đã mua 1
kg tôm sú đông lạnh tại cửa hàng chị A. Bà B đem về nhà chế biến và cho cả nhà ăn.
Ai cũng khen tôm ngon và sau khi ăn khoản 15 phút cả gia đình đều có dấu hiệu ói,
tiêu chảy của ngộ độc thực phẩm và phải vào bệnh viện cấp cứu. Xét nghiệm cho thấy
gia đình bà B ăn phải thực phẩm bị biến chất và nhiễm khuẩn. Khi đó phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do chị A bảo quản tôm không tốt, để quá
hạn sử dụng dẫn đến gây thiệt hại cho gia đình bà B. Do đó chị A phải có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại toàn bộ về chi phí: viện phí, tiền thuốc…để chữa trị cho gia đình
bà B. Qua ví dụ này ta thấy giữa bà B và chị A trước đó đã có hợp đồng mua bán
nhưng trong hợp đồng không có điều khoản thỏa thuận về việc BTH do thực phẩm
không đảm bảo chất lượng gây ra nhưng trách nhiệm bồi thường thiệt hại này đã được
Điều 630 Bộ luật dân sự quy định. Vì vậy giữa bà B và chị A phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Việc định mức
bồi thường thiệt hại của các chủ thể chỉ phát sinh sau khi có sự kiện thiệt hại xảy ra.
Người tiêu dùng mất tiền để mua những hàng hóa không đảm bảo chất lượng thậm chí
còn gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của họ. Nên, qua ví dụ này người viết
muốn đề cập đến tình trạng nạn sản xuất hàng hóa kém chất lượng và sự nguy hại của
nó đến sức khỏe người tiêu dùng, gây thiệt hại đến ngân sách của nhà nước. Đây là
một tình trạng đáng báo động do các nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm không tuân
thủ đến quy định của pháp luật, nhìn thấy rõ tác hại của việc sản phẩm của mình
nhưng vẫn cố ý do “chạy đua” theo lợi nhuận. Vì vậy, nhà nước cần tạo ra khung pháp
lý cao hon, chặt chẽ hơn và những biện pháp kiểm tra nghiêm ngặt các cơ sở sản xuất,
kinh doanh hàng hóa này để đảm bảo cung cấp cho người tiêu dùng những thực phẩm
đảm bảo an toàn. Bên cạnh đó, chúng ta cần có những biện pháp tích cực, phổ biến và
truyền thống như chương trình giáo dục cho người tiêu dùng các kiến thức cần thiết về
tiêu dùng trên các thị trường cạnh tranh không lành mạnh như hiện nay.

GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương


12

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
Thứ hai, trong trường hợp thiệt hại do nhiều người gây ra thì xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại liên đới hay riêng lẽ từ đó ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại. Đối với trường hợp do vi phạm hợp đồng thì chỉ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới khi trước đó các chủ thể trong hợp đồng này đã
phải có thỏa thuận trước với nhau sẽ liên đới hay không liên đới về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, và điều này phải được ghi nhận trong hợp đồng. Còn trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì không nhất thiết các chủ thể này phải có
sự thỏa thuận thống nhất từ trước mà chỉ cần có sự thống nhất của các chủ thể này về
mặt hành vi hoặc hậu quả xảy ra hoặc đồng thời có sự thống nhất cả hai yếu tố này.
Thứ ba, lỗi là yếu tố quan trọng nhất của cả hai loại hợp đồng nhưng đồng thời nó
cũng có những điểm khác biệt: Ta thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng có thể phát sinh cả trong trường hợp chủ thể bồi thường thiệt hại ở đây
không cần có lỗi, tức là việc gây thiệt hại có thể do hành vi của người khác nếu các
bên trong hợp đồng có sự thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có thiệt
hại xảy ra; còn trách nhiệm nhiệm thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
ngoài hợp đồng chỉ xuất hiện khi chủ thể gây thiệt hại lỗi.
Thứ tư, chúng ta có thể phân biệt được hai hình thức này đó là thời điểm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đông thì thời điểm xác định nghĩa vụ và thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là khác nhau (thời điểm phát sinh nghĩa vụ là thời điểm hợp đồng có
hiệu lực, còn thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là thời điểm xảy ra
sự vi phạm các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng và gây thiệt hại cho chủ thể

kia); còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì hai thời điểm này
dường như xuất hiện đồng thời. Khi quyền lợi của người tiêu dùng bị xâm phạm và
dẫn đến có thiệt hại xảy ra trên thực tế thì phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh đã có hành vi xâm hại đó.
Ngoài ra, còn có một số điểm khác biệt khác giữa hai hình thức này đó là mức
tiền bồi thường, hình thức bồi thường…chẳng hạn đối với trường hợp vi phạm hợp
đồng ngoài tiền bồi thường thiệt hại hai bên còn có thể quy định mức tiền phạt vi phạm
mà không cần căn cứ vào thiệt hại thực tế xảy ra, còn đối với trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng thì không có cá chế định này.

GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

13

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển về chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng cho quyền lợi người tiêu dùng
1.3.1. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dùng từ năm 1985 đến năm 1999
Do hoàn cảnh đặc biệt của nước ta thời kì này vừa mới trải qua hai cuộc chiến
tranh và bị tàn phá nặng nề, đất nước mới bắt đầu tái thiệt hại trên mọi lĩnh vực, do đó
kinh tế còn rất nhiều khó khăn, mọi nhu cầu của người dân mới được đáp ứng ở mức
tối thiểu nên việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và xác định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng nói riêng hầu như chưa được đề cập tới và
được quan tâm đúng mức. Các quy định về xử lý các hành vi vi phạm pháp luật gây
phương hại cho người tiêu dùng chủ yếu được điều chỉnh bởi các quy định hành chính

hoặc hình sự; chẳng hạn trong Bộ luật hình sự năm 1985 một số hành vi vi phạm pháp
luật, có thể gây phương hại đến cho người tiêu dùng như tội làm hàng giả (Điều 167),
tội lừa dối khách hàng (Điều 170), tội lưu hành sản phẩm kém phẩm chất (Điều 177).
Đây là các hành vi xâm phạm đến các quyền lợi của người tiêu dùng và có thể gây
thiệt hại cho họ nhưng dưới gốc độ luật hình sự thì các hành vi này phải ở một mức độ
nhất định gây thiệt hại lớn cho xã hội về kinh tế… và chủ thể thực hiện các hành vi
này phải chịu trách nhiệm hình sự trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng do hàng hóa kém chất lượng gây ra chưa được đề cập tới. Một số văn bản
pháp luật đề cập tới vấn đề người tiêu dùng nói chung và quy định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong giai đoạn này là: Hiến pháp 1992 với Điều 28, Điều 74; Pháp
lệnh số 49/1991/PL - UBTVQH ngày 02/02/1991 quy định về chất lượng hàng hóa;
Pháp lệnh số 43 - LCT/HĐND của Hội đồng nhân dân nhà nước ban hành ngày
16/07/1990 về đo lường; Nghị định số 140 - HĐBT ngày 25/04/1991 quy định về kiểm
tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả; Bộ luật Dân sự 1995 với Điều 310 - Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và Điều 623 trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, Luật thương mại năm 1997… Nhìn chung,
các quy định của pháp luật thời kỳ này về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng còn tản mạn, vừa thiếu vừa yếu, chưa đáp ứng
được yêu cầu. Mặt khác với sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế mở cửa, đặc biệt
là nền kinh tế hội nhập quốc tế hiện nay thì nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng
được nâng cao, đáp ứng đa dạng hơn nhưng nó cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ gây thiệt
hại cho người tiêu dùng hơn do cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì
vậy mà đòi hỏi phải xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
nói chung và bồi thường thiệt hại người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng nói
riêng.
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

14


SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
1.3.2. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
quyền lợi người tiêu dùng từ 1999 đến nay
Trước sự đòi hỏi của xã hội, pháp luật nước ta đã có một số điều chỉnh để phù
hợp và đặc biệt đó là sự ra đời của Pháp lệnh 13/1999/PL - UBTVQH10 Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng. Đây là văn bản pháp lý thể hiện tập trung nhất các quy định của
pháp luật về bảo vệ các quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng đã được thế gới thừa
nhận trong đó có quyền được bồi hoàn, bồi thường thiệt hại và tương ứng với quyền
đó là trách nhiệm bồi thường của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh do vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng. Quyền được bồi hoàn, quyền được bồi thường và khiếu nại
đòi bồi hoàn, bồi thường của người tiêu dùng được Pháp lệnh này ghi nhận tại Điều 9
và Điều 22:
Điều 9
Người tiêu dùng có quyền đòi bồi hoàn, bồi thường thiệt hại khi hàng hoá, dịch vụ
không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã
giao kết; khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật đối với việc sản xuất,
kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng,
số lượng và việc thông tin, quảng cáo sai sự thật.
Điều 22
Người tiêu dùng trực tiếp hoặc thông qua đại diện để thực hiện việc khiếu nại, yêu cầu
bồi hoàn, bồi thường đối với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
đã gây thiệt hại cho mình theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà sản xuất, kinh doanh được quy định tại
Điều 17, Điều 26, Điều 28 của Pháp lệnh này. Pháp lệnh được hướng dẫn thi hành bởi
Nghị định số 69/2001/NĐ-CP, sau đó được thay thế bằng Nghị định số 55/2008/NĐ CP với các điều luật hướng dẫn chi tiết các quyền và trách nhiệm này là Điều 4, Điều
9, Điều 33 và Điều 34.

Ngoài ra còn có một số văn bản pháp lý khác cũng quy định về quyền được bồi
thường của người tiêu dùng và trách nhiệm bồi thường của nhà sản xuất kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ tương ứng với lĩnh vực điều chỉnh của các văn bản này: Pháp lệnh
số 18/1999/PL - UBTVQH10 quy định về chất lượng hàng hóa, vì được thay thế bằng
Luật chất lượng sản phẩm hàng hóa số 05/2007/QH12; Pháp lệnh quảng cáo số
39/2001/PL - UBTVQH; Pháp lệnh số 16/1999/PL - UBTVQH về đo lường sản phẩm;
Luật cạnh tranh năm 2004; Pháp lệnh quảng cáo số 39/2001/PL - UBTVQH10; Pháp
lệnh giá số 40/2002/PL - UBTVQH10; Bộ luật Dân sự năm 2005; Đến nay, thì có
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

15

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn chi tiết một số quy định của Bộ luật dân sự
2005 về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; Nghị định số 132/2008/NĐ – CP ngày
31 tháng 12 năm 2008 Quy định thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm,
hàng hóa; Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 ra đời thay thế cho Pháp
lệnh số 13/1999/UBTVQH10; Nghị định số 99/2011/NĐ – CP nghị định quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ người tiêu dùng…
Với quy định mới này thì hệ thống pháp luật về bồi thường cho người tiêu dùng ngày
càng chặt chẽ hơn, tuy nhiên những quy định này còn mang tính chung chung, tản mạn
ở nhiều văn bản nên gây khó khăn cho công tác áp dụng.
1.4. Sơ lược pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi
người tiêu dùng của một số quốc gia trên thế giới
Vấn đề pháp luật về quyền lợi cho người tiêu dùng được các nước trên thế giới

quan tâm từ rất sớm, tuy nhiên tùy từng quốc gia cụ thể mà hệ thống pháp luật về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng nói riêng có sự khác biệt và cách tiếp cận
vấn đề khác nhau. Và các hệ thống pháp luật dưới đây sẽ được đưa vào nghiên cứu cho
đề ài của em như pháp luật Mỹ, pháp luật của Malaysia về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu
dùng nói riêng để qua đó đối chiếu và hiểu rõ hơn về pháp luật Việt Nam trong việc
quy định về vấn đề này.
1.4.1. Pháp luật của nước Mỹ
Theo pháp Hoa Kỳ: “Luật bảo vệ người tiêu dùng là luật của bang hoặc của liên
bang được ban hành nhằm bảo vệ người tiêu dùng trước những hành vi thương mại
hoặc hoạt động tín dụng không lành mạnh có liên quan đến hàng tiêu dùng, đồng thời
bảo vệ người tiêu dùng trước những hàng hóa nguy hại hoặc hàng giả”.
Vấn đề bảo vệ người tiêu dùng của nước Mỹ đã được đề cập đến trong Luật
“Magnuson Moss” năm 1975. Đây là luật về các bảo đảm và thẩm quyền của ban
thương mại Liên bang; trong đó nêu rõ những yêu cầu đối với những nhà sản xuất và
phân phối cũng như cung cấp cho người tiêu dùng những danh mục chuẩn tối thiểu của
Liên bang; trong đó, nêu rõ những yêu cầu đối với những nhà sản xuất và phân phối
cũng như cung cấp cho người tiêu dùng những danh mục tối thiểu của Liên bang để tự
bảo vệ mình. Luật này quy định nghĩa vụ bồi thường tổn thất hay đền bù, thay thế
hàng hóa của doanh nghiệp khi xảy ra khiếu nại về hàng hóa của người tiêu dùng như
việc cấm các doanh nghiệp đưa ra các điều khoản bảo lưu bất lợi cho người tiêu dùng,
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

16

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do

hang hóa kém chất lượng gây ra
miễn trách nhiệm của doanh nghiệp đối với hàng hóa của mình hay làm giảm đi trách
nhiệm đó. Do vậy doanh nghiệp không thể từ bỏ các đảm bảo tương đương hoặc biến
đổi chúng cho hàng hóa của mình sản xuất hay phân phối.
Pháp luật Hoa Kỳ còn xem xét đến khả năng cần phải quy định trong văn bản quy định
về nghĩa vụ bảo đảm mà người mua phải sử dụng thể thức đó trước khi thưa kiện tại
Tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ còn có một hệ thống các
văn bản quy định khá chi tiết và cụ thể các khái niệm hành vi để người tiêu dùng có
thể tham khảo và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Theo pháp luật Hoa Kỳ thì cơ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thuộc Quốc hội. Một
trong số các cơ quan đó là Ủy ban an toàn sản phẩm tiêu dùng Mỹ. Đây là một cơ quan
Liên bang được thành lập theo Luật an toàn sản phẩm tiêu dùng. Bằng luật này, Quốc
hội giao trách nhiệm cho SPSC “bảo vệ công chúng tránh nguy cơ bị thương hay tử
vong liên quan đến các sản phẩm tiêu dùng”. Không phải tất cả các sản phẩm tiêu
dùng đều thuộc thẩm quyền của SPSC, song cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý hơn
15 ngàn sản phẩm. Nhìn lại hệ thống pháp luật Hoa Kỳ ta thấy pháp luật để bảo vệ
người tiêu dùng của Hoa Kỳ rất cụ thể chi tiết vì vậy quyền lợi của người tiêu dùng
Hoa Kỳ được đảm bảo. Đạt được đều đó, không chỉ vì Hoa Kỳ có một hệ thống pháp
luật hoàn hảo mà còn vì ý thức tiêu dùng của Hoa Kỳ rất cao.
1.4.2. Pháp luật của Đài Loan
Trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Đài Loan xác định, người tiêu
dùng là những người tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ vì
mục đích tiêu dùng; còn các nhà doanh nghiệp tham gia vào quá trình đặt kế hoạch,
chế tạo sản xuất, nhập khẩu hay phân phối hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ. Trong
luật, lợi ích của người tiêu dùng được thể hiện qua chương II – Lợi ích người tiêu
dùng, với các quy định về quyền được bảo vệ về sức khỏe và sự an toàn, qua hợp đồng
hàng loạt, qua mua bán đặc biệt và qua các điều lệ quản lý thông tin tiêu dùng. Tuy
nhiên, trong phạm vi bài viết thì chỉ đề cập tới quyền được bồi hoàn và bồi thường
ngoài hợp đồng nên ở đây chỉ tập trung phân tích các lợi ích của người tiêu dùng thông
qua quyền được bảo vệ sức khỏe, an toàn và các điều lệ cung cấp thông tin. Pháp luật

Đài Loan đã nêu ra các quy định chi tiết về trách nhiệm bảo đảm về sức khỏe, an toàn
cho người tiêu dùng và nếu các doanh nghiệp kinh doanh không đảm bảo các yêu cầu
đó thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại vô hạn định. Tương tự trong quy định
về điều lệ cung cấp thông tin thì Luật bảo vệ người tiêu dùng của Đài Loan cũng yêu
cầu các doanh nghiệp kinh doanh phải cung cấp thông tin trung thực và họ phải chịu
trách nhiệm về các thông tin đã công bố. Chẳng hạn, theo quy định tại Điều 22 Mục 4,
chương II Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan quy định: “Doanh nghiệp kinh
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

17

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra
doanh phải đảm bảo độ chính xác trong nội dung của quảng cáo và nghĩa vụ của họ
đối với khách hàng không nhỏ hơn những gì họ đã tuyên bố trong quảng cáo”. Như
vậy so với các quy định pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam thì các quy
định của pháp luật Đài Loan đã xác định trách nhiệm và mức chịu trách nhiệm bồi
thường của các doanh nghiệp kinh doanh có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại
cho người tiêu dùng là vô hạn định nếu họ không có các biện pháp ngăn chặn khắc
phục. Ngoài ra thủ tục khiếu nại, kiện tụng của người tiêu dùng khi quyền lợi của họ bị
xâm phạm cũng được nêu rõ và được chỉ dẫn bằng các văn bản pháp luật liên quan
đến, đây là điều mà pháp luật Việt Nam chưa làm được chỉ nêu ra ở mức chung chung:
“và các văn bản pháp luật khác có liên quan” gây khó khăn trong quá trình áp dụng.
Theo pháp luật Đài Loan họ ưu tiên hòa giải và các nội dung trong quá trình hòa giải
được giữ kín, khi không hòa giải được thì thủ tục tiến hành tố tụng được nêu ra chi tiết
và cụ thể góp phần thuận tiện cho người tiến hành để đơn tố tụng lên Tòa án đúng cấp
dung thẩm quyền. Các quy định này được nêu cụ thể trong chương V – xử lý các tranh

chấp trong tiêu dùng của Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Đài Loan.
1.5. Ý nghĩa các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dùng do hàng hóa kém chất lượng gây
ra
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng với tư cách là một chế định dân sự
độc lập có một vai trò quan trọng trong toàn bộ hệ thống luật dân sự. Thông qua chế
định này mà các nhà thực thi và áp dụng pháp luật đã có cơ sở để đảm bảo quyền lợi
cho từng cá nhân trong xã hội cũng như cả cộng đồng trước nguy cơ xâm phạm của
các hành vi gây thiệt hại trái pháp luật. Việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là nhằm khôi phục lại các quyền tài sản và các quyền và lợi ích hợp
pháp khác của cá nhân, tổ chức, pháp nhân, nhà nước. Để việc tiến hành bồi thường
thiệt hại được diễn ra thuận lợi và bảo đảm quyền lợi cho chủ thể bị thiệt hại yêu cầu
cần xác định được đúng người có trách nhiệm, có khả năng để thực hiện nghĩa vụ bồi
thường.
Là một loại trách nhiệm pháp lý được áp dụng khi thỏa mãn những điều kiện do pháp
luật quy định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có ý nghĩa pháp lý và ý
nghĩa xã hội sâu sắc, điều đó được thể hiện trên một số phương diện sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp phần bảo
vệ quyền và lợi ích ích hợp pháp của các chủ thể.
Trong các quan hệ xã hội nói chung, giao lưu dân sự nói riêng, chủ thể tham gia nhằm
thỏa mãn những lợi ích vật chất hoặc tinh thần của mình. Để xã hội ngày càng phát
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

18

SVTH: Néang Kim Chua


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cho quyền lợi người tiêu dung do
hang hóa kém chất lượng gây ra

triển, các chủ thể phải tham gia nhiều quan hệ xã hội khác nhau và trong các quan hệ
xã hội mà chủ thể tham gia thì lợi ích luôn là tâm điểm để chủ thể hướng tới. Hiến
pháp và các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý sau Hiến pháp luôn ghi nhận và bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Đó có thể là lợi ích vật chất, thể hiện ở
quyền sở hữu tài sản, nhưng cũng có thể là lợi ích tinh thần, thể hiện ở các quyền nhân
thân được pháp luật bảo vệ. Bằng việc quy định căn cứ phát sinh, nguyên tắc bồi
thường…thì chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có vai trò quan trọng trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các quan hệ xã hội khác
nhau.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp phần đảm
bảo công bằng xã hội.
Nguyên tắc chung của pháp luật là một người phải chịu trách nhiệm về hành vi và hậu
quả do hành vi đó mang lại. Bằng việc buộc người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho người bị thiệt hại, chế định bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Đây cũng là
nguyên tắc, là mục tiêu mà pháp luật đặt ra. Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đã cụ thể hóa và thể hiện rõ nguyên tắc công bằng trong bồi thường thiệt hại.
Theo chế định này, ai gây thiệt hại thì người ấy phải bồi thường, tuy nhiên sẽ có những
trường hợp riêng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại như nguyên tắc giảm mức bồi
thường, bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi…
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp phần răng
đe, giáo dục, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, gây thiệt hại trái
pháp luật nói riêng.
Ngoài mục đích buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm do hành vi vi phạm của mình
gây ra – nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự - chế định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại còn thể hiện ý nghĩa nhân đạo, ý nghĩa sâu sắc. Thông qua chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng cùng với việc vận dụng chế định này để giải quyết các tranh
chấp liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chế định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có ý nghĩa răn đe, giáo dục và phòng
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, hành vi gây thiệt hại trái pháp luật nói

riêng. Ngoài người vi phạm, những người khác cũng sẽ thấy rằng nếu mình có hành vi
gây thiệt hại thì cũng sẽ chịu xử lý của pháp luật.
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có ý nghĩa trong việc tuyên truyền,
giáo dục pháp luật thông qua những biện pháp chế tài nghiêm khắc. Ngoài ra, ý thức
pháp luật của người dân cũng ngày một được nâng cao.
GVHD: TH.S Tăng Thanh Phương

19

SVTH: Néang Kim Chua


×