đặc san về sửa đổi, bổ sung bộ luật dân sự
12 Tạp chí luật học
ThS. Trần Thị Huệ *
rong thc tin i sng hng ngy,
thit hi v ti sn, tớnh mng, sc
kho, danh d, nhõn phm, uy tớn ca
cụng dõn; ti sn, danh d, uy tớn ca
cỏc t chc xy ra do nhiu nguyờn nhõn
khỏc nhau, cú th l do lc lng t nhiờn
gõy ra (phng tin c gii, sỳc vt, cõy ci,
ng t, nỳi la, bóo lt); cú th do hnh
vi ca con ngi gõy ra, trong ú phn ln l
do hnh vi trỏi phỏp lut ca con ngi gõy
ra. bo v li ớch ca Nh nc, li ớch
ca tp th, quyn v li ớch hp phỏp ca
cụng dõn v cỏc ch th khỏc, B lut dõn s
(BLDS) quy nh trỏch nhim bi thng
thit hi vi t cỏch l ch nh dõn s c
lp nhm khụi phc li nhng li ớch b xõm
phm v bự p nhng thit hi xy ra cho
ngi b thit hi.
BLDS quy nh v bi thng thit hi
tng i y , cú h thng ó úng gúp
mt phn to ln trong vic iu chnh cỏc
quan h phỏp lut dõn s v bi thng thit
hi, bo v quyn v li ớch hp phỏp ca cỏ
nhõn, phỏp nhõn v cỏc ch th khỏc. Cỏc
quy nh ny l c s tt to ỏn ỏp dng
gii quyt tranh chp v bi thng thit hi.
Nhng quy nh ny c bn ó i vo trng
thỏi vn ng n nh, phự hp vi ũi hi
khỏch quan t ra trong thc tin cuc sng v
giao lu dõn s, ó phỏt huy c hiu qu
iu chnh cỏc quan h v bi thng thit hi.
Song cỏc quy nh v bi thng thit hi
ngoi hp ng cũn cú nhng im cha rừ,
cha y , cũn thiu cht ch. Vỡ vy, cn
phi sa i, b sung cho phự hp vi iu
kin kinh t, xó hi hin nay.
1. Phn nhng quy nh chung
Theo quy nh ti iu 609 BLDS thỡ
mt ngi cú li c ý hay vụ ý nu gõy thit
hi thỡ phi bi thng thit hi. Khi xỏc nh
mt ngi cú li, phi l mt ngi bit hoc
phi bit hnh vi ca mỡnh cú th gõy ra thit
hi. Tuy iu 609 BLDS khụng quy nh th
no l li c ý v vụ ý gõy thit hi nhng
khon 2 iu 309 BLDS ó quy nh vn
ny i vi trng hp c ý gõy thit hi v
vụ ý gõy thit hi.
lm c s cho vic xỏc nh mc bi
thng trong trng hp ngi gõy thit hi
cú li vụ ý m gõy thit hi quỏ ln hoc
trng hp nhiu ngi cựng gõy thit hi
hoc l ngi b thit hi cựng cú li (theo
iu 620, 621, 610 BLDS thỡ khi xỏc nh
mc bi thng u phi da vo mc
li). Bi th trong BLDS cn quy nh c th
v mc li vụ ý nh v li vụ ý nng. Vic
quy nh ny l ht sc cn thit, bi vỡ mt
ngi vụ ý nng gõy thit hi thỡ khụng nờn
t ra vn gim mc bi thng theo quy
nh ti khon 2 iu 610 BLDS. Bn thõn
ThS T
T
* Ging viờn chớnh Khoa lut dõn s
Trng i hc lut H Ni
đặc san về sửa đổi, bổ sung bộ luật dân sự
Tạp chí luật học 13
ngi gõy thit hi hon ton cú kh nng
thy trc mc hu qu cú th xy ra dự
mong mun hoc khụng mong mun nhng
mc cho thit hi xy ra.
iu 610 BLDS quy nh cỏc nguyờn tc
bi thng thit hi trong ú khon 2 quy
nh nguyờn tc xem xột mc li v kh
nng kinh t trc mt v lõu di ca ngi
gõy ra thit hi gim mc bi thng.
Khỏi nim "thit hi quỏ ln" cũn l khỏi
nim m. Vic c th hoỏ thit hi quỏ ln
l bao nhiờu cho mi trng hp hay tu
tng trng hp khng nh cú quỏ ln
hay khụng so vi kh nng kinh t ca tng
ch th gõy thit hi Hin nay, cha cú
quy nh c th. Vỡ th thc t cho thy khi
ỏp dng phỏp lut gii quyt cỏc tranh
chp loi ny, c quan bo v phỏp lut ó
xem xột da vo tng trng hp c th
trong mi liờn h vi iu kin sng trong
khụng gian v thi gian nht nh. iu ú
ũi hi cú s chu ỏo, cụng bng, tn tu v
y trỏch nhim trong cụng vic ca ngi
lm cụng tỏc xột x. Tuy nhiờn, thc trng ny
vn ũi hi phi cú quy nh chun ti thiu
- ti a m bo s thng nht trong
ng li xột x ca to ỏn.
Khon 3 iu 610 quy nh v vic thay
i mc bi thng.
Thay i mc bi thng l vic to ỏn
hoc c quan nh nc cú thm quyn khỏc
n nh li mc bi thng khụng cũn phự
hp trong mt s trng hp c th.
Vic khụng cũn phự hp v mc bi
thng cú th do:
+ Thc t phỏt sinh nhng iu kin mi
(ngi c bi thng ó tr li thu nhp
bỡnh thng, ngi phi bi thng quỏ khú
khn v kinh t);
+ Giỏ c th trng khụng cũn phự hp
vi thc t;
+ Sc kho b gim sỳt hoc hi phc so
vi thi im to ỏn n nh mc bi thng.
Khi gii quyt thay i mc bi thng
dự tng hay xung s khụng d dng i vi
ngi c yờu cu thay i mc bi thng
(ngi gõy thit hi cng nh ngi b thit
hi), vỡ vic chng minh s gp rt nhiu khú
khn. Cú thay i c hay khụng? thay i
theo hng no? Vo thi im no thỡ cú th
yờu cu thay i mc bi thng.
Thụng thng, yờu cu thay i phỏt sinh
khi phỏn quyt ca to ỏn cha cú hiu lc
phỏp lut nhng nu bn ỏn ó cú hiu lc
phỏp lut v cỏc bờn ó thi hnh bn ỏn hoc
ó thi hnh tho thun trong quyt nh ho
gii ca to ỏn thỡ cú thay i mc bi
thng c khụng? Do vy, vn bn phỏp
lut hng dn v thi im yờu cu thay i
mc bi thng thit hi cng cn phi quy
nh vic thay i mc bi thng c t
ra khi mc bi thng ó n nh khụng cũn
phự hp. Vn ny cú ý kin cho rng ch
c ỏp dng trong trng hp bi thng
theo nh kỡ hng thỏng hoc hng quý m
khụng th ỏp dng trong trng hp mt ln
(bi thng ton b mt ln). Bi vỡ, bi
thng mt ln l cú th khc phc c
ngay hu qu vo thi im thc hin bi
thng. Bi th, yờu cu thay i khụng cũn
ỏp ng, mc ớch bi thng khụng cũn ý
ngha. Song thc t cú nhiu trng hp sc
kho ca ngi b thit hi ngy cng xu i,
t l thng tt ngy cng tng lờn, h ri vo
®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù
14 T¹p chÝ luËt häc
hoàn cảnh khó khăn thêm và như vậy thì hậu
quả vẫn chưa được khắc phục. Họ phải được
quyền yêu cầu thay đổi mức bồi thường khi
có lí do chính đáng.
2. Xác định thiệt hại
Xác định thiệt hại vào thời điểm xét xử
sơ thẩm hay vào thời điểm gây ra thiệt hại
chưa được pháp luật quy định. Xác định thiệt
hại vào thời điểm nào là rất quan trọng, vì tại
hai thời điểm kể trên mức thiệt hại có thể bị
thay đổi do sự biến động của giá cả thị
trường. Theo chúng tôi, thiệt hại phải được
xác định vào thời điểm xảy ra thiệt hại, vì tại
thời điểm này quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị thiệt hại đã bị xâm phạm.
Vấn đề bồi thường khoản tiền cấp dưỡng,
về nguyên tắc người gây thiệt hại chỉ phải bồi
thường khoản tiền này khi người bị thiệt hại
đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bằng thu
nhập của mình đối với người được cấp
dưỡng. Những căn cứ để tính khoản tiền này
được tính cụ thể như thế nào? Được bồi
thường theo tháng, theo quý, theo năm hay
bồi thường một lần?… Đặc biệt là việc xác
định mức cấp dưỡng, đây là vấn đề khó khăn,
phức tạp trong hoạt động xét xử của toà án
khi giải quyết về bồi thường thiệt hại do sức
khoẻ, tính mạng bị xâm phạm. Theo chúng
tôi, khi xác định mức cấp dưỡng phải dựa
trên mức thực tế của những người mà người
bị thiệt hại phải cấp dưỡng đang được hưởng.
Đồng thời, dựa vào khoản chênh lệch giữa
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại và chi
phí cần thiết tối thiểu của bản thân người ấy
hàng tháng (không quá 50% mức lương tối
thiểu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng).
Về khoản tiền cấp dưỡng, khoản 2 Điều
613 đã xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút của người bị thiệt hại là khoản
tiền mà người gây thiệt hại phải bồi thường.
Tiếp đến khoản 3 Điều 613 lại quy định rằng
người gây thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng. Việc quy định của hai
khoản trên đây tại Điều 613 đã buộc người
gây thiệt hại phải bồi thường đến hai lần cho
một thiệt hại xảy ra trên thực tế, bởi lẽ một
người khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho
người mình có nghĩa vụ cấp dưỡng thì mức
cấp dưỡng phải lấy trong thu nhập của người
đó. Điều này không phù hợp với nguyên tắc
“gây thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường
bấy nhiêu”. Thực tế này đòi hỏi cần có sự cân
nhắc và sửa đổi Điều 613 theo hướng khoản
cấp dưỡng phải được xác định trong thu nhập
bị mất đã được xác định của người gây thiệt
hại (không vượt qua phạm vi thu nhập của
họ), để đảm bảo tính công bằng cho các chủ
thể trong quan hệ này.
Trường hợp nào người gây thiệt hại phải
bồi thường khoản tiền cấp dưỡng:
Khoản 3 Điều 613 và khoản 3 Điều 614
BLDS đều quy định tiền cấp dưỡng cho
những người mà người bị thiệt hại có nghĩa
vụ cấp dưỡng. Theo nội dung quy định này
thì phải hiểu người gây thiệt hại phải có
nghĩa vụ cấp dưỡng cho tất cả những người
mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng,
cho dù trên thực tế họ có thực hiện nghĩa vụ
đó hay không. Nếu vậy, điều đó thực sự
không hợp lí bởi những lí do sau đây:
- Có nhiều trường hợp người bị thiệt hại
không có thu nhập (học sinh, sinh viên…) mà
khi không có thu nhập thì không thể xác định
®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 15
thu nhập bị mất. Vì vậy, vấn đề khôi phục sẽ
không được đặt ra;
- Tuy người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng đối với những người được cấp dưỡng
nhưng trên thực tế họ lại không thực hiện
nghĩa vụ này. Trong khi đó, người gây thiệt
hại bị buộc phải thực hiện nghĩa vụ này thì
hoàn toàn không hợp lí.
Với thực tế này, pháp luật cần quy định
người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường khoản
tiền khi người bị thiệt hại có thu nhập và đang
thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bằng thu nhập
của mình đối với người được cấp dưỡng và
chỉ những người thực tế bị mất khoản cấp
dưỡng khi người bị thiệt hại mất khả năng lao
động hoặc chết thì người gây thiệt hại mới có
nghĩa vụ cấp dưỡng. Giải quyết theo hướng
này mới bảo đảm được quyền lợi chính đáng
của các chủ thể. Việc xác định chính xác thiệt
hại không chỉ đảm bảo quyền lợi cho người
bị thiệt hại mà còn đảm bảo cho cả người gây
thiệt hại (vì thiệt hại xảy ra thường nằm
ngoài mong muốn của họ).
Thời hạn được bồi thường, hiện nay, tại
Điều 616 BLDS chỉ mới quy định thời hạn
được hưởng bồi thường cho trường hợp
người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao
động mà không quy định thời hạn được
hưởng bồi thường cho người bị thiệt hại mất
một phần khả năng lao động. Có rất nhiều
trường hợp người bị thiệt hại có tổn hại vĩnh
viễn về sức khoẻ và không thể phục hồi, họ
không hẳn bị tàn phế hoàn toàn nhưng tổn hại
đó vẫn ảnh hưởng rất lớn tới khả năng lao
động và thu nhập của họ. Trường hợp này
pháp luật chưa có quy định cụ thể nên trong
thực tiễn xét xử vẫn phải dựa trên tinh thần
của Thông tư số 173/UBTP ngày 23/3/1972
của Toà án nhân dân tối cao xác định trong
khoảng thời gian xác định là 3 năm (trong
trường hợp đặc biệt là 5 năm). Để bảo vệ
quyền lợi cho người bị thiệt hại trong trường
hợp này, chúng tôi thấy cần thiết luật phải
quy định thời hạn được hưởng bồi thường
của họ đến hết độ tuổi lao động theo quy định
của Bộ luật lao động Việt Nam.
Trên thực tế, nghĩa vụ cấp dưỡng được
thực hiện qua hai phương thức:
+ Cấp dưỡng một lần: Thực hiện phương
thức này sẽ đảm bảo được tính kịp thời,
nhanh chóng toàn bộ thiệt hại nhưng bên
cạnh đó có những khó khăn nhất định vì
cùng một lúc người gây thiệt hại phải bồi
thường khoản tiền quá lớn dẫn đến việc thi
hành án rất khó khăn, thậm chí không thể thi
hành được.
+ Cấp dưỡng định kì: Đây là phương thức
người gây thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng theo từng thời hạn nhất định.
Phương thức này sẽ tạo điều kiện cho người
có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện nghĩa vụ tốt
hơn. Đặc biệt trong những trường hợp người
phải cấp dưỡng không có khả năng về kinh
tế. Ngược lại, phương thức này gây ra một số
khó khăn cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng
như thời gian đi lại, chi phí phương tiền tàu
xe… của người gây thiệt hại khi hai bên chủ
thể trong quan hệ có nơi cư trú cách nhau quá
xa. Hiện nay, có toà án giải quyết theo
phương thức bồi thường một lần, có toà án lại
giải quyết theo phương thức cấp dưỡng định
kì theo tháng hoặc theo quý và tách từng
phần tương ứng với từng người được hưởng.
Chúng tôi cho rằng văn bản hướng dẫn cần
®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù
16 T¹p chÝ luËt häc
quy định theo hướng này.
Điều 618 quy định bồi thường thiệt hại
trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình
thế cấp thiết. Nếu nguyên nhân đưa đến hành
vi gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ
chính đáng chỉ có thể do con người chủ động
gây ra thì nguyên nhân đưa đến tình thế cấp
thiết có thể do hành vi trái pháp luật của con
người gây ra, có thể do yếu tố tự nhiên gây ra
như động đất, lũ lụt , bão tố, cháy rừng.
Hành vi gây thiệt hại chỉ được coi là tình
thế cấp thiết khi đáp ứng được ba yêu cầu sau:
+ Hành vi của một người được thực hiện
trong trường hợp nguy hiểm đang xảy ra
hoặc sẽ xảy ra ngay tức khắc đe doạ trực tiếp
đến lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập
thể, của cá nhân.
+ Với mục đích ngăn chặn khắc phục
thiệt hại cũng như bảo vệ lợi ích lớn hơn,
pháp luật yêu cầu thiệt hại xảy ra phải nhỏ
hơn thiệt hại cần ngăn chặn. Không được
phép dùng tính mạng, sức khoẻ người khác
để ngăn chặn thiệt hại đang xảy ra hoặc sẽ
xảy ra ngay tức khắc.
+ Biện pháp gây thiệt hại là biện pháp
duy nhất cuối cùng. Có nghĩa là trong trường
hợp còn có những biện pháp khác không cần
gây thiệt hại mà vẫn bảo vệ được lợi ích lớn
hơn và hành vi đã thực hiện không phải là
biện pháp tối ưu, cuối cùng thì không được
coi là tình thế cấp thiết.
Như vậy, nếu có cơ sở để xác định thiệt
hại xảy ra do phải hành động trong tình thế
cấp thiết thì người gây thiệt hại không phải
bồi thường (khoản 1 Điều 618 BLDS).
Ngược lại, nếu hành vi gây thiệt vượt quá yêu
cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt
hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại
(khoản 2 Điều 618 BLDS).
Nếu hành vi gây hại được coi là tình thế
cấp thiết thì dễ dàng xác định trách nhiệm bồi
thường thuộc về ai “người đã gây ra tình thế
cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi
thường cho người bị thiệt hại” (khoản 3 Điều
618 BLDS) nhưng sẽ không đơn giản khi xác
định trách nhiệm bồi thường của hành vi gây
hại lại vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết
(thiệt hại gây ra lớn hơn thiệt hại cần ngăn
chặn). Đặc biệt trong trường hợp người nào
đó gây ra tình thế cấp thiết buộc người khác
phải hành động để bảo vệ lợi ích đang bị đe
doạ trực tiếp nhưng người này đã hành động
vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết nên
phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Khoản 3 Điều 618 BLDS chỉ quy định:
“… người gây hại phải bồi thường cho người
bị thiệt hại” mà không quy định cụ thể việc
bồi thường như thế nào trong trường hợp cụ
thể trên đây. Việc quy định như vậy dẫn đến
có nhiều cách hiểu khác nhau:
Thứ nhất, quy định này được hiểu là
người có hành vi gây thiệt hại vượt quá yêu
cầu của tình thế cấp thiết phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại (tức là cả phần thiệt hại phải
hi sinh để ngăn ngừa thiệt hại lớn hơn cộng
với phần thiệt hại vượt quá), nếu vậy thì
người gây ra tình thế cấp thiết không phải
gánh chịu một hậu quả pháp lí nào cả.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường của
người gây ra tình thế cấp thiết và người gây
hại vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là
trách nhiệm liên đới. Vì cho rằng hậu quả xảy
ra là thống nhất.
Thứ ba, người gây hại do vượt quá yêu
cầu của tình thế cấp thiết chỉ phải bồi thường
phần vượt quá phần lợi ích cần hi sinh để bảo
®Æc san vÒ söa ®æi, bæ sung bé luËt d©n sù
T¹p chÝ luËt häc 17
vệ lợi ích lớn hơn. Phần lợi ích cần hi sinh
thuộc trách nhiệm bồi thường của người gây
ra tình thế cấp thiết.
Chúng tôi cho rằng cách hiểu thứ ba hợp lí
hơn, vì lợi ích cần hi sinh là lợi ích tất yếu bị
thiệt hại trong tình thế cấp thiết để bảo vệ lợi
ích lớn hơn. Do đó, phần này phải thuộc trách
nhiệm của người gây ra tình thế cấp thiết (tất
nhiên trường hợp này chỉ áp dụng đối với
nguồn phát sinh tình thế cấp thiết là do hành vi
trái pháp luật của con người gây ra).
Điều 627 BLDS quy định bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Hiểu được bản chất của nguồn nguy hiểm cao
độ là điều kiện đầu tiên để xác định trách
nhiệm bồi thường - chủ thể bồi thường, điều
kiện phát sinh… trong chế độ trách nhiệm do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để hiểu và
xác định được các yếu tố trong loại trách
nhiệm này cần thiết phải đưa ra khái niệm
chung về nguồn nguy hiểm cao độ.
Nguồn nguy hiểm cao độ là những thiết
bị máy móc, các loại hoá chất, thú dữ… luôn
chứa đựng, tiềm ẩn những nguy hiểm khách
quan những nguy cơ gây thiệt hại lớn, bất
ngờ cho những người xung quanh mà trong
quá trình chiếm hữu, sử dụng, khai thác con
người không thể kiểm soát được một cách
tuyệt đối. Như vậy, nguồn nguy hiểm cao độ
có hai đặc điểm sau:
- Hoạt động của nó gây ra nguy hiểm đối
với những người xung quanh;
- Con người không thể kiểm soát được
một cách tuyệt đối quá trình hoạt động thì sẽ
bị coi là nguồn nguy hiểm cao độ và áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra nếu chúng gây thiệt
hại trong quá trình hoạt động;
Theo quy định tại Điều 627 BLDS thì khi
có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra, việc bồi thường được xác định như sau:
- Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ
phải bồi thường (nếu nguồn nguy hiểm gây ra
thiệt hại trong thời gian đang do mình chiếm
hữu, sử dụng);
- Người đang chiếm hữu, sử dụng hợp
pháp nguồn nguy hiểm mà nguồn nguy hiểm
gây ra thiệt hại thì người đó phải bồi thường;
- Nguồn nguy hiểm cao độ đang bị chiếm
hữu trái pháp luật gây thiệt hại thì người đang
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy
hiểm cao độ phải bồi thường.
Để có thể xác định được chính xác chủ
thể chịu trách nhiệm thì cần quy định cụ thể
hơn theo hướng:
- Chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại
khi họ đang trực tiếp quản lí, kiểm soát
nguồn nguy hiểm cao độ, khi họ uỷ quyền
cho người khác chiếm hữu, sử dụng vì lợi ích
của họ, khi họ giao cho người lao động chiếm
hữu, quản lí, sử dụng theo nghĩa vụ lao động;
- Người được chủ sở hữu giao cho chiếm
hữu, sử dụng thông qua hợp đồng dân sự có
hiệu lực pháp luật khi họ đang thực tế quản
lí, sử dụng;
- Đồng chủ sở hữu đối với nguồn nguy
hiểm cao độ cũng phải bồi thường nếu nguồn
nguy hiểm cao độ hoạt động gây ra thiệt hại;
- Người được chủ sở hữu giao cho
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao
độ, sau đó nguồn nguy hiềm này chuyển
giao trái pháp luật cho người thứ ba nếu
trong thời gian đó nguồn nguy hiểm cao độ
gây thiệt hại thì phải liên đới chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại./.