Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

vai trò của hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 74 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA (2011 – 2015)

ĐỀ TÀI

VAI TRÒ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN
TRONG PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S Mạc Giáng Châu

Lê Thị Tuyết Mai

Bộ môn: Luật Tư pháp

MSSV: 5115816
Lớp: Luật Tư pháp 1 – K37

Cần Thơ, tháng 11/2014


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
MỤC LỤC


LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN VÀ
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM ............................................................................. 4
1.1. Khái quát chung về chế định Hội thẩm nhân dân và phiên tòa hình sự sơ
thẩm ............................................................................................................................ 4
1.1.1. Khái quát chung về chế định Hội thẩm nhân dân.......................................... 4
1.1.1.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân ............................................................... 5
1.1.1.2. Tiêu chuẩn để trở thành Hội thẩm nhân dân ......................................... 7
1.1.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân .................. 8
1.1.2. Khái quát chung về phiên tòa hình sự sơ thẩm ........................................... 11
1.1.2.1. Tội phạm và đặc điểm tội phạm hình sự .............................................. 11
1.1.2.2. Khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm ................................................... 13
1.2. Cơ sở lý luận về vai trò và nguyên tắc xét xử độc lập của Hội thẩm nhân
dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm .................................................................... 15
1.2.1. Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử án hình sự sơ thẩm ................ 15
1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản của việc xét xử án hình sự sơ thẩm ................... 18
1.2.2.1. Nhóm nguyên tắc chung trong xét xử án hình sự ................................. 19
1.2.2.2. Nhóm nguyên tắc có liên quan trực tiếp đến vai trò của Hội thẩm nhân
dân trong xét xử sơ thẩm hình sự ...................................................................... 21
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG PHIÊN TÒA
HÌNH SỰ SƠ THẨM THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ... 26
2.1 Vai trò của hội thẩm trong giai đoạn bắt đầu phiên tòa ................................ 26
2.1.1. Đảm bảo việc xét xử tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật ............. 26
2.1.2. Đảm bảo việc giám sát của Hội thẩm tại phiên tòa ..................................... 28
2.2. Vai trò của hội thẩm nhân dân trong giai đoạn xét hỏi ................................ 30
2.2.1. Đảm bảo việc xét hỏi khách quan, công bằng, chí công vô tư .................... 30
2.2.2. Đảm bảo bảo vệ quyền dân chủ của người bị xét hỏi ................................. 32
2.3. Vai trò của Hội thẩm nhân dân tại giai đoạn tranh luận ............................. 34
2.3.1. Đảm bảo theo sát diễn biến của quá trình tranh luận .................................. 34
2.3.2. Đưa ra ý kiến đối với Chủ tọa phiên tòa trong trường hợp cần trở lại việc

xét hỏi .................................................................................................................... 36

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
2.3.3. Đảm bảo bảo vệ quyền tranh luận bình đẳng của những người tham gia tố
tụng trong tranh luận ............................................................................................. 38
2.4. Vai trò của Hội thẩm nhân dân tại giai đoạn nghị án và tuyên án .............. 41
2.4.1. Đảm bảo giai đoạn nghị án diễn ra đúng pháp luật ..................................... 41
2.4.1.1. Hội thẩn nhân dân tham gia nghị án ngang quyền với Thẩm phán ..... 41
2.4.1.2. Hội thẩm nhân dân tham gia nghị án nhằm bảo vệ quyền dân chủ của
công dân ............................................................................................................ 43
2.4.2. Đảm bảo việc tuyên án là đúng với bản án đã đưa ra tại giai đoạn nghị án 45
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
HỘI THẨM NHÂN DÂN TRONG PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM .............. 49
3.1. Những tồn tại và giải pháp về mặt pháp lí ..................................................... 49
3.1.1. Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong việc xét hỏi tại phiên tòa .................. 49
3.1.1.1. Trình tự xét hỏi ..................................................................................... 49
3.1.1.2. Về xem xét vật chứng và xem xét tại chỗ .............................................. 51
3.1.2. Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong giai đoạn tranh luận tại phiên tòa .... 52
3.1.3. Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong giai đoạn nghị án – tuyên án ............ 53
3.1.3.1. Về quy định trở lại việc xét hỏi và tranh luận ...................................... 53
3.1.3.2. Về tuyên án ........................................................................................... 54
3.2. Những tồn tại về thực tiễn và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Hội
thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm ................................................. 55
3.2.1. Tồn tại thực tiễn về vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự
sơ thẩm................................................................................................................... 55

3.2.2. Nguyên nhân ................................................................................................ 61
3.2.3. Giải pháp nâng cao vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự
sơ thẩm về mặt thực tiễn........................................................................................ 65
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nhà nước pháp quyền đang có xu hướng trở thành quy luật của mọi
Nhà nước. Nói đến Nhà nước pháp quyền là nói đến sự đề cao vai trò của pháp luật
trong việc điều chỉnh mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội. Sự đề cao vai trò của
pháp luật gắn với vai trò của hoạt động tư pháp hay nói cách khác hiệu quả, hiệu lực
của pháp luật là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ thành công
của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền vì tư pháp có vai trò đảm bảo thực hiện tất cả
các đặc trưng của Nhà nước ở mức độ này hay mức độ khác.
Theo Điều 2 Hiến pháp năm 2013 “1. Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền
lực thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dânvà đội ngũ tri thức.3. Quyền lực Nhà nước là sự thống nhất, có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.” Với bản chất là Nhà nước của dân, do dân, vì dân lấy dân làm
gốc, Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng quy định: “Việc xét xử của Tòa án
nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia

theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.”
Trong hoạt động tố tụng dân sự, hành chính mà đặc biệt là tố tụng hình sự ít hay nhiều
quyền con người dễ bị xâm phạm nên sự có mặt của Hội thẩm như vậy là rất cần thiết
để đảm bảo tính dân chủ xã hội chủ nghĩa, đúng với bản chất thực sự của Nhà nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hội thẩm nhân dân đại diện cho nhân dân tham gia xét xử ở Tòa án. Việc tham
gia của Hội thẩm vào hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo đảm khách quan trong
hoạt động tư pháp, đảm bảo được quyền lợi ích của công dân, đồng thời đảm bảo việc
nhân dân tham gia giám sát hoạt động của Nhà nước. Như vậy, ta thấy rằng vai trò của
Hội thẩm nhân dân trong việc xét xử các vụ án nói chung và vụ án hình sự nói riêng là
rất quan trọng. Chính vì những lí lẽ trên mà người viết đã chọn đề tài “Vai trò của Hội
thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm” để làm đề tài luận văn cho mình.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai

1


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài người viết tập trung nghiên cứu những quy
định của pháp luật về Hội thẩm nhân dân để làm rõ khái niệm, nhiệm vụ, quyền hạn
của Hội thẩm nhân dân. Bên cạnh đó người viết còn đề cập đến vai trò của Hội thẩm
nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm là đảm bảo tính dân chủ đại diện trong xét xử
và giám sát việc tuân theo pháp luật cũng như việc bảo vệ quyền công dân trong xét
xử. Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề trên người viết còn làm rõ những tồn tại, vướng
mắc của pháp luật và thực tiễn dối với Hội thẩm nhân dân nhằm đưa ra những giải
pháp để khẳng định vai trò quan trọng của Hội thẩm nhân dân.

3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài chủ yếu làm sáng tỏ những vấn đề về Hội thẩm nhân dân và vai trò của
Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm. Từ đó nhằm tạo ra nhận thức đúng
đắn về vai trò, vị trí của Hội thẩm nhân dân trong xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm.
Tìm hiểu những quy định của pháp luật và thực trạng về Hội thẩm nhân dân để tìm ra
những hạn chế từ đó góp phần đề ra những phương hướng thiết thực nhằm hoàn thiện
quy định của pháp luật về Hội thảm nhân dân, bên cạnh đó cũng góp phần vào việc
nâng cao vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài luận văn này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
phương pháp nghiên cứu trên tài liệu, sách vở; phương pháp nghiên cứu và phân tích
luật viết; phương pháp tổng hợp các thông tin qua sưu tầm một số vụ án, các bài viết,
các văn bản pháp luật có liên quan, một số sách, tạp chí.
5. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu
gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về Hội thẩm nhân dân và phiên tòa hình sự sơ
thẩm
Chương 2: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Chương 3: Thực tiễn và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Hội thẩm nhân dân
trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai

2


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm

Vì thời gian nghiên cứu có hạn, việc tìm tài liệu còn hạn chế, đây cũng là lần
đầu tiên người viết nghiên cứu một đề tài luận văn tốt nghiệp mang tính khoa học. Do
đó, cũng không tránh khỏi những thiếu sót về việc phân tích, tổng hợp các quy định
của pháp luật cũng như những bất cập còn tồn tại trên thực tiễn về vai trò của Hội thẩm
nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm. Người viết rất mong nhận được sự đóng góp
ý kiến đánh giá, phê bình của các Thầy, Cô để luận văn tốt nghiệp được hoàn thiện
hơn.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai

3


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
HỘI THẨM NHÂN DÂN VÀ PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
Cơ sở lí luận là phần cơ bản đầu tiên trong bất kì đề tài nghiên cứu khoa học
nào, qua đó để thấy được những vấn đề chung nhất, khái quát nhất nhằm giúp người
đọc nắm được những phần cơ bản. Vì vậy, nghiên cứu lý luận là một nền tảng vững
chắc có vai trò quan trọng, tạo tiền đề cho việc đưa ra phương hướng giải quyết những
vấn đề cần hoàn thiện về mặt pháp lí cũng như thực tiễn một cách phù hợp nhất. Với đề
tài “Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm”, thì vấn đề đầu
tiên cần đề cập đến là nội dung chung về chế định Hội thẩm nhân dân, những đặc điểm,
nhiệm vụ, quyền hạn cũng như vị trí của Hội Thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử
của Tòa án và nội dung tiếp theo là việc tìm hiểu khái quát chung về phiên tòa hình sự
sơ thẩm. Những vấn đề trên là cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận để nhằm mục đích thấy
rõ vai trò của Hội thẩm nhân dân trong công tác xét xử của Toà án, cùng với những

nguyên tắc cơ bản của việc xét xử án sơ thẩm hình sự, đặc biệt là nguyên tắc Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
1.1. Khái quát chung về chế định Hội thẩm nhân dân và phiên tòa hình sự sơ
thẩm
1.1.1. Khái quát chung về chế định Hội thẩm nhân dân
Trong công tác phòng chống tội phạm Tòa án đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Pháp luật đã quy định cụ thể tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân trong
hệ thống pháp luật như Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002,
sửa đổi bổ sung năm 2011. Sự ra đời của Tòa án do yêu cầu của việc xét xử công bằng
tìm ra lẽ phải giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và xét xử cũng là
chức năng cơ bản của Tòa án nhân dân. Trong Hội đồng xét xử của Toà án thì cần phải
nhắc đến sự cần thiết của các cá nhân cụ thể trong đó. Đối tượng quan trọng không thể
thiếu, được nhắc đến ở đây đó chính là Hội thẩm nhân dân. Ở nước ta từ năm 1945
cùng với sự hình thành của Tòa án nhân dân là sự xuất hiện của chế định Hội thẩm
nhân dân trong công tác xét xử. Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân và sự có mặt của Hội thẩm nhân dân trong xét xử án sơ thẩm đã là một
nguyên tắc hiến định.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai

4


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.1.1.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân
Như chúng ta đều biết, một trong những biểu hiện dân chủ của nền tư pháp kiểu
mới là có đại diện nhân dân vào tham gia việc xét xử của Tòa án. V.I. Lênin đã từng
khẳng định sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền: “Chúng ta phải tự mình

xét xử, toàn thể công dân không trừ một ai đều phải tham gia xét xử và quản lý đất
nước”1.Chế định Hội thẩm nhân dân là một trong những chế định quan trọng của pháp
luật tố tụng hình sự đã được Hiến định, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Pháp lệnh về
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Theo từ điển tiếng Việt: Hội thẩm là đại biểu nhân dân người cùng xử án với Thẩm
phán2. Theo sổ tay thuật ngữ pháp lí thông dụng, Hội thẩm nhân dân là một chức danh
để chỉ những người cùng tham gia với thẩm phán trong Hội đồng xét xử ở Tòa án các
cấp khi tham gia xét xử3. Chế định Hội thẩm nhân dân được ghi nhận lần đầu tiên trong
hệ thống pháp luật nước ta tại Sắc lệnh số 13/SL ngày 24-01-1946 về Tổ chức Tòa án
và các ngạch Thẩm phán với tên gọi Phụ thẩm. Theo đó, ở Tòa án Đệ nhị cấp và Tòa
án thượng thẩm, khi xét xử việc tiểu hình và đại hình đều có Phụ thẩm nhân dân tham
gia. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu của Nhà nước ta, việc tham gia của Phụ thẩm còn hạn
chế, chỉ những vụ án hình sự và tùy từng cấp tòa, Phụ thẩm có thể phát biểu về tội
trạng hoặc hình phạt, còn Thẩm phán tự quyết định khi xét xử các vụ tiểu hình; khi xét
xử các vụ đại hình, Phụ thẩm mới cùng nghị xử với Thẩm phán về tất cả các vấn đề
thuộc về tội trạng và hình phạt; Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm
1946 quy định sự tham gia xét xử của các Phụ thẩm nhân dân như là một nguyên tắc
Hiến định; Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố
tụng tiếp tục ghi nhận nguyên tắc này khi quy định Hội thẩm nhân dân (thay cho phụ
thẩm nhân dân) tham gia xét xử. Trong các bản Hiến pháp nước ta 1959, 1980, 1992,
sự tham gia của Hội thẩm tiếp tục được ghi nhận như là một trong những nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức và hoạt động Tòa án. Các Luật về tổ chức Tòa án nhân dân 1960,
1981, 1992, 2002; Bộ luật tố tụng hình sự 1988, 2003 và các Pháp lệnh khác cũng đều
ghi nhận nguyên tắc này.

1

V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 36, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1977 (tiếng Việt), trang 67-68

2


Viện ngôn ngữ: Từ điển tiếng Việt. Nxb từ điển Bách khoa, năm 2006, trang 420.

3

Nguyễn Duy Lâm (chủ biên): Sổ tay thuật ngữ pháp lí thông dụng, Nxb Giáo dục, năm 2006, trang 177.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai

5


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
Theo pháp luật hiện hành quy định: Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy
định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án4.
Để đảm bảo tính công bằng, bình đẳng của pháp luật, việc xét xử không chỉ có những
người chuyên môn mà còn có đại diện từ phía nhân dân. Hội thẩm nhân dân là một chế
định pháp lý quan trọng trong hệ thống Tòa án nhân dân của nước ta; điều này đã được
quy định trong Hiến pháp năm 2013: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội
thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” và các văn bản luật khác có
liên quan; chẳng hạn như trong Pháp lệnh Thẩm phán và Hội Thẩm Tòa án nhân dân
năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2011 cũng có quy định: “Việc xét xử của Toà án nhân
dân địa phương có Hội thẩm nhân dân tham gia; việc xét xử của Toà án quân sự cấp
quân khu và Toà án quân sự khu vực có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định
của pháp luật tố tụng. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán; Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; Hội thẩm Tòa án nhân
dân ở hệ thống Tòa án nước ta gồm có:
 Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hội

thẩm nhân dân Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là
Hội thẩm nhân dân).
 Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự quân khu và tương đương; Hội thẩm quân
nhân Toà án quân sự khu vực (gọi chung là Hội thẩm quân nhân).5
Như vậy: Hội thẩm nhân dân là những công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc
và chủ nghĩa xã hội, có kiến thức pháp lí, liêm khiết…được bầu để tham gia xét xử tại
Tòa án; luật pháp Việt Nam qua các thời kì từ 1945 đến nay đều xác định địa vị pháp lý
của chế định Hội thẩm nhân dân và từng bước hoàn thiện hơn; điều này là một yêu cầu
tất yếu khách quan thể hiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
của dân, do dân và vì dân.

Xem Khoản 2, Điều 1, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội Thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, sửa đổi bổ sung năm
2011
4

Xem Khoản 2, Điều 2, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, sửa đổi bổ sung năm
2011
5

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai

6


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.1.1.2. Tiêu chuẩn để trở thành Hội thẩm nhân dân
Tiêu chuẩn là một điều được quy định làm căn cứ đánh giá. Theo đó tiêu chuẩn
để trở thành Hội thẩm nhân dân được hiểu là những căn cứ tối thiểu của một cá nhân

cần có mà chỉ khi đạt được đến mức sàn này thì những cá nhân mới có thể có cơ hội trở
thành Hội thẩm. Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân ở nước ta được quy định trong rất
nhiều Điều luật như Điều 37, khoản 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 và Điều 7
Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân 2005. Mà chung nhất, qui
định khái quát nhất là ở khoản 2 Điều 2, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án
nhân dân năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2011, quy định tiêu chuẩn trở thành người
Hội thẩm nhân dân, cụ thể như sau:
 Công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Hội thẩm nhân dân phải là công dân Việt Nam; người có
quốc tịch Việt Nam đã đủ 18 tuổi có năng lực pháp luật của một công dân có nơi cư trú
và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam; người không phải là công dân Việt Nam sẽ không
có đủ tiêu chuẩn để trở thành Hội thẩm. Hội thẩm nhân dân là người thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn liên quan đến quyền lực Nhà nước, quyết định của Hội thẩm nhân dân
ảnh hưởng đến Nhà nước và công dân mà mình đang mang quốc tịch. Ngoài ra muốn
trở thành Hội thẩm phải trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
 Có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực: Phẩm chất đạo đức tốt
được biểu hiện tập trung nhất ở người Hội thẩm là người trọng lẽ phải, công bằng, liêm
khiết và trung thực, với phẩm chất đó sẽ giúp họ vượt lên mọi trở ngại khó khăn khi
tham gia hoạt động xét xử. Quy định này là một mặt lựa chọn tìm kiếm người có đạo
đức tốt, mặt khác đề cao giá trị đạo đức của con người là quan trọng nhất.
 Có kiến thức pháp lí: Theo quy định pháp luật hiện hành thì tiêu chuẩn “có
kiến thức pháp lý” là Hội thẩm nhân dân phải có trình độ hiểu biết pháp luật ở mức độ
nhất định6. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật này thì tiêu chuẩn về kiến thức pháp
lý của Hội thẩm nhân dân chưa được quy định rõ ràng và đầy đủ. Hiện nay do yêu cầu,
nhiệm vụ thì năng lực, trình độ của Hội thẩm ngày càng được nâng cao. Tội phạm ngày
Xem Điểm 2 Mục II Thông tư liên tịch số 01/2004/TANDTC- UBTWMTTQVN của Tòa án nhân dân tối caoỦy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam hướng dẫn về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân
dân
6


GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai

7


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
càng tinh vi, nhiều thủ đoạn trong mọi lĩnh vực đời sống, chính vì vậy khi Hội thẩm
nhân dân có kiến thức pháp lí tốt sẽ nắm rõ các quy định của pháp luật trong các lĩnh
vực sẽ dễ dàng hoàn thành tốt nhiệm vụ đầy trọng trách của mình trước nhân dân.
 Có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu
tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân: Cá nhân
là công dân Việt Nam phải có tinh thần bảo vệ pháp luật của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa được thể hiện triệt để và toàn diện. Cá nhân cần tự giác chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật của Nhà nước, chống lại những tư tưởng phá hoại việc thực hiện pháp luật xã
hội chủ nghĩa. Do chính Hội thẩm nhân dân là người đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện thì yếu tố này không thể thiếu trong tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân.
 Có sức khỏe tốt để hoàn thành nhiệm vụ được giao: Người Hội thẩm nhân
dân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, ngoài thể lực cần thiết, còn bao gồm yếu
tố ngoại hình đó là không có dị tật, dị hình ảnh hưởng đến tư thế hoặc việc thực hiện
nhiệm vụ của Hội thẩm nhân dân. Tuổi của Hội thẩm nhân dân từ 70 tuổi trở xuống đối
với nam và từ 65 tuổi trở xuống đối với nữ 7. Do nhu cầu của công việc của Tòa án,
nhiều áp lực nên đòi hỏi người làm nhiệm vụ phải có sức khỏe tốt.
Để những phán quyết của Tòa án được khách quan trung thực thì những người
đang công tác tại các cơ quan Tòa án, Viện Kiểm sát, Điều tra, Thi hành án và luật sư
thì không giới thiệu để bầu làm Hội thẩm Tòa án nhân dân.
Tóm lại, Hội thẩm nhân dân là những công dân Việt Nam, trung thành với Tổ
quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, liêm khiết, trung thực,
có tinh thần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa được bầu làm nhiệm vụ xét xử ở Tòa án.

Với tinh thần trách nhiệm cao thì Hội thẩm góp phần quan trọng trong công tác xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.1.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân
Nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm là những phạm trù liên quan mật thiết với
nhau, việc quy định những quyền hạn nhằm mục đích để những chủ thể được trao
quyền có thể thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Đồng thời quy định trách nhiệm như là

Xem Khoản 3, Mục II, Thông tư liên tịch số 01/2004/TANDTC- UBTWMTTQVN của Tòa án nhân dân tối cao
- Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam hướng dẫn về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân
dân
7

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai

8


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
một biện pháp chế tài để hạn chế thấp nhất những vi phạm có thể xảy ra trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ.
Hội thẩm Tòa án nhân dân là một công dân, do vậy Hội thẩm Tòa án nhân dân cũng
có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một công dân theo quy định của pháp luật. Với tư
cách là một công dân, họ được làm tất cả những gì pháp luật không cấm, nhưng khi
thực hiện nhiệm vụ xét xử thì họ chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Bên cạnh
đó, Hội thẩm còn có quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm mà pháp luật quy định. Cụ thể
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm được quy định trong các văn bản
như Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002; Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa
án nhân dân năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2011; Quy chế về tổ chức và hoạt động

của Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2005.
Hội thẩm nhân dân là người kiêm nhiệm giữ nhiệm vụ xét xử không chuyên, chịu
sự quản lí của Chánh án Tòa án nhân dân địa phương theo quy chế về tổ chức và hoạt
động của Hội thẩm. Cũng như Thẩm phán “Hội thẩm nhân dân làm nhiệm vụ theo sự
phân công của Chánh án” (Điều 32, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân
dân năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2011). Quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm lúc
này là quan hệ đồng nghiệp trong một đơn vị, gắn bó với nhau trong hoạt động, tác
động qua lại lẫn nhau cùng hướng tới một mục tiêu là chuẩn bị cho việc xét xử thật vô
tư khách quan nhưng phải trên nguyên tắc: “Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật”8. Hội thẩm nhân dân được thực hiện tất cả các quyền và
nghĩa vụ do pháp luật quy định kể từ khi nhận được quyết định phân công xét xử của
Tòa án. Quyền hạn của Hội Thẩm pháp luật quy định “khi xét xử Hội thẩm ngang
quyền với Thẩm phán”, nội hàm của quyền này đã được cụ thể hóa ở các văn bản quy
phạm pháp luật, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán từ khi được mời tham gia Hội
đồng xét xử đến tất cả các giai đoạn và trong mọi thủ tục tố tụng giải quyết vụ án khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán được hiểu là
thẩm quyền pháp lý của các thành viên Hội đồng xét xử ngang nhau, ý kiến của mọi
thành viên Hội đồng xét xử đều được tôn trọng và có tính quyết định như nhau, những
quyền đó được quy định trong các lĩnh vực sau: quyền nghiên cứu hồ sơ, việc nghiên
cứu hồ sơ vụ án giúp tạo điều kiện cho Hội thẩm nhân dân hiểu rõ nội dung vụ án, nắm
bắt được cụ thể các vấn đề đang đòi hỏi được giải quyết giúp cho Hội thẩm có quan
8

Xem thêm Điều 103 Hiến pháp 2013

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai

9



Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
điểm độc lập, khách quan, vô tư và chuẩn bị tốt cho công tác xét xử, qua việc nghiên
cứu hồ sơ, Hội thẩm có cơ sở phát hiện những thiếu sót trong hồ sơ và có đánh giá sơ
bộ về tính xác thực của chứng cứ nếu trường hợp thấy còn thiếu cơ sở pháp lí để tiến
hành đưa vụ án ra xét xử thì có thể đề nghị Thẩm phán ra quyết định phù hợp với pháp
luật, nếu Hội thẩm nhận thấy chứng cứ không có giá trị chứng minh hoặc thiếu tính
chính xác thì chủ động đề nghị Thẩm phán trả hồ sơ điều tra bổ sung, thu thập thêm
chứng cứ; Hội thẩm có quyền từ chối tham gia xét xử nếu thấy sự tham gia của mình là
không khách quan trong khi giải quyết vụ án; trong khi nghị án Hội thẩm có quyền
cùng thảo luận, tranh luận và đưa ra ý kiến quyết định của của mình đối với các vấn đề
của vụ án, những ý kiến khác nhau của các thành viên trong Hội đồng xét xử được ghi
lại một cách trung thực, khách quan trong biên bản nghị án, nếu có ý kiến cần bảo lưu
thì được ghi nhận bằng văn bản riêng và được lưu và trong hồ sơ vụ án.
Hội thẩm phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, giữ bí mật theo quy định của pháp
luật, phải tôn trọng nhân dân chịu sự giám sát của nhân dân. Hội thẩm có nhiệm vụ vận
động giải thích cho nhân dân thực hiện pháp luật, đồng thời đóng vai trò hòa giải viên
nhân dân trong việc giữ gìn trật tự xã hội, văn hóa tại địa phương. Hội thẩm còn phải
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thường xuyên rèn luyện, nâng cao kiến thức, phấn
đấu để luôn đảm bảo những tiêu chuẩn khi được bầu. Trong thời gian Hội thẩm làm
nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án thì cơ quan, tổ chức có Hội thẩm nhân dân
đó không được điều động, phân công Hội thẩm làm việc khác, trừ trường hợp đặc biệt.
Cũng như cán bộ, công chức khác Hội thẩm vẫn phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, kể cả trách nhiệm hình sự.
Điều 295 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi 2009 quy đinh: “Hội thẩm nào ra bản án
mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm; phạm tội gây
hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm; phạm tội gây hậu quả
rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm
năm; người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm

năm.” Mặt khác, theo điều 8 Pháp lệnh Thẩm phán va Hội thẩm Tòa án nhân dân năm
2002, sửa đổi năm 2011 thì: “Thẩm phán, Hội thẩm trong khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Toà án nơi Thẩm phán, Hội thẩm đó thực hiện
nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm phán, Hội thẩm đã gây thiệt
hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án theo quy định của pháp luật”. Quy định này

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 10


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
nhằm nhắc nhở các Hội thẩm phải có tinh thần trách nhiệm, phải thận trọng và cân
nhắc để phán quyết sự việc vì lẽ công bằng chứ không vị nể hay vụ lợi.
“Hội thẩm được bồi dưỡng về nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng kết công tác xét
xử của Toà án. Kinh phí bồi dưỡng về nghiệp vụ cho Hội thẩm được dự toán trong kinh
phí hoạt động của Toà án nhân dân, có sự hỗ trợ của ngân sách địa phương”9. Trình
độ nghiệp vụ của Hội thẩm được nâng cao là điều kiện tiên quyết để Hội thẩm thực
hiện quyền: “Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Đồng thời để tạo điều
kiện cho Hội thẩm khi làm nhiệm vụ, Điều 34 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa
án nhân dân năm 2002, sửa đổi bổ sung 2011 còn có quy định “Hội thẩm được cấp
trang phục, Giấy chứng minh Hội thẩm để làm nhiệm vụ xét xử”.
1.1.2. Khái quát chung về phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.1.2.1. Tội phạm và đặc điểm tội phạm hình sự
Tội phạm là một danh từ diễn tả một hành vi mà con người cho đó là xấu xa, tai hại,
đáng bị lên án và trừng phạt10. Một góc độ khác thuật ngữ pháp lí định nghĩa: Tội phạm
là những hành vi gây nguy hại cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự11. Theo
luật hiện đại, tội phạm được xem là một hành vi vi phạm pháp luật hình sự với tất cả
các dấu hiệu pháp lí của nó. Tội phạm là hành vi nguy hiểm nhất trong tất cả các hành
vi, vi phạm pháp luật nói chung.

Ở nước ta, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng Hòa ra đời, trở thành Nhà nước dân chủ, thực sự của nhân dân. Để bảo vệ nền
cộng hòa còn non trẻ, bảo vệ lợi ích chính đáng của quần chúng nhân dân, trừng trị
những hành vi chống lại nền hòa bình dân tộc, Nhà nước đã ban hành hàng loạt văn
bản pháp luật thay thế các văn bản cũ. Tuy chưa đưa ra một định nghĩa về tội phạm,
nhưng rải rác trong một số văn bản ấy đã thể hiện rõ ràng: Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho các quan hệ xã hội chủ nghĩa, chống đối pháp luật, có lỗi và phải chịu hình
phạt.

Xem thêm Khoản 1 Điều 33 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, sửa đổi bổ sung
năm 2011
9

10

Phạm Văn Beo: Luật Hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, trang 109

11

Nguyễn Duy Lâm (chủ biên): Sổ tay thuật ngữ pháp lí thông dụng, Nxb Giáo dục, năm 2006, trang 375.

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 11


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
Hiện nay, trên một số sách báo cũng như nhận thức cuả một số cán bộ, kể cả cán
bộ pháp lí đã không phân biệt giữa các khái niệm “có tội”, “phạm tội” và “tội phạm”
dẫn đến những khuynh hướng trái ngược nhau trong cách đối xử với bị can trong giai

đoạn điều tra, với bị cáo trong giai đoạn xét xử.
 Có tội là khái niệm chỉ thuộc tính của chủ thể mà ở đây là con người, là tính từ
chỉ tính chất của một sự vật, hiện tượng; người có tội hay không có tội là sự đánh giá
của xã hội đối với một con người, cũng như ta thường nói người này tốt người kia xấu.
Tuy nhiên sự đánh giá một con người có tội hay không chỉ có Tòa án mới có quyền,
ngoài Tòa án không một cơ quan hay một các nhân nào có quyền này.
 Phạm tội là động từ chỉ hành động (hành vi) của con người đã thực hiện một tội
phạm do Bộ luật hình sự quy định. Vì vậy, khi nói hành vi phạm tội, tức là nói đến một
thực trạng khách quan đã và đang xảy ra và việc ngăn chặn hành vi này là rất cần thiết
như bắt giữ, ra lệnh tạm giam, tiến hành các biện pháp điều tra xác minh theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự để chứng minh hành vi phạm tội của một người.12
 Tội phạm là khái niệm pháp lí, là danh từ chỉ một hiện tượng xã hội tồn tại khách
quan. Theo Điều 8 Bộ luật hình sự hiện hành thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Theo Luật hình sự hiện hành, dựa trên khái niệm về tội phạm, hành vi bị xem là tội
phạm phải có đủ bốn dấu hiệu, đồng thời là bốn đặc điểm của tội phạm hình sự: Tính
nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính chịu hình phạt. Tội
phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, mang tính lịch sử, thay đổi theo sự phát triển
của xã hội. Tội phạm được quy định xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị trong các
hình thái kinh tế xã hội khác nhau, vì vậy tội phạm luôn mang bản chất giai cấp13. Việc
nghiên cứu khái niệm tội phạm có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong luật hình sự,

12

Đinh Văn Quế: Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, trang 26


13

Phạm Văn Beo: Luật Hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, trang 126

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 12


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
bởi vì qua đó sẽ thể hiện bản chất giai cấp, các đặc điểm kinh tế, chính trị, pháp lí của
mỗi quốc gia.
Vụ án Lê Văn Luyện là một vụ án giết người cướp tài sản xảy ra tại tiệm vàng
Ngọc Bích (xã Phương Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang) ngày 24 tháng 8 năm
2011, đã làm chấn động toàn xã hội về hành vi giết người dã man. Lê Văn Luyện đã
giết chết vợ chồng chủ tiệm vàng cùng con gái nhỏ 18 tháng tuổi. Con gái lớn của họ
mới 8 tuổi bị chém đứt tay. Hắn phá tủ kính của tiệm lấy tổng số vàng ước chừng hơn
200 chỉ vàng ta, hơn 150 chỉ vàng tây14. Tội phạm ở đây là tội giết người cướp tài sản,
và cuối cùng Luyện cũng đã bị bắt và phải chịu một bản án 18 năm tù do Tòa án nhân
dân tỉnh Bắc Giang tuyên. Đây là một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, ở chỗ Luyện
đã dùng thủ đoạn để đột nhập sát hại vợ chồng chủ tiệm vàng cùng con gái nhỏ 18
tháng tuổi; hành vi trên của Lê Văn Luyện là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, đã
xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ cụ
thể là tính mạng và tài sản của người dân, bằng hành vi cố ý của mình nên Luyện phải
chịu hình phạt tương xứng với tội phạm của mình gây ra.
Từ những phân tích trên ta có khái niệm tội phạm như sau: Tội phạm là hành vi gây
nguy hiểm cho xã hội và chịu các hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự; là khái
niệm cơ bản nhất của luật hình sự Việt Nam, là cơ sở để xây dựng phần quy định
những quy phạm phần riêng và đồng thời để xây dựng những khung hình phạt tương

ứng cho từng loại tội phạm cụ thể.
1.1.2.2. Khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm
Phiên tòa là nơi diễn ra hoạt động xét xử của tòa án nhân dân. Theo từ điển Luật
học thì định nghĩa sơ thẩm là lần đầu tiên đưa ra xét xử vụ án tại một Tòa án có thẩm
quyền. Phiên tòa hình sự sơ thẩm là phiên tòa xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) vụ án
hình sự do Tòa án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Phiên
tòa hình sự sơ thẩm gồm bốn giai đoạn: thủ tục bắt đầu phiên tòa, giai đoạn xét hỏi,
tranh luận tại phiên tòa, nghị án - tuyên án.
Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, thì xét xử tại phiên tòa là quan trọng nhất. Bởi
lẽ, suy cho đến cùng thì việc xử lí một người phạm tội được thể hiện và tập trung nhất

Cảnh Kiên: Luật sư kể về bàn tay lạnh của Lê Văn Luyện, [truy cập ngày 19-09-2014]
14

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 13


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
ở hoạt động xét xử của Tòa án. Tại phiên tòa sau khi đã nghiên cứu, xem xét hồ sơ và
các tình tiết của vụ án một cách công khai, khách quan, toàn diện, Tòa án ra một bản án
khẳng định bị cáo có tội hoặc không có tội, nếu có phạm tội, thì phạm tội gì theo quy
định tại điều khoản nào của Bộ luật hình sự. Tòa án có áp dụng hình phạt đối với bị cáo
hay không, nếu có áp dụng hình phạt thì hình phạt đó là loại hình phạt gì. Đồng thời
Tòa án quyết định các biện pháp đối với bị cáo cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho hành vi phạm tội của bị cáo gây ra hoặc kiến nghị với các cơ quan nhà nước; tổ
chức xã hội sửa chữa những thiếu sót trong công tác quản lí Nhà nước; quản lí con
người.
Mỗi giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng với một chức năng nhất định trong hoạt

động tư pháp hình sự và có những đặc điểm phân biệt với các giai đoạn khác. Giai
đoạn xét xử là giai đoạn trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự, nó phản ánh
trực tiếp thông qua phiên tòa, do vậy phiên tòa hình sự nói chung và phiên tòa hình sự
sơ thẩm nói riêng cũng mang các đặc điểm của giai đoạn xét xử. Giai đoạn xét xử vụ
án hình sự có những đặc điểm sau15:
 Chủ thể duy nhất có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án. Xuất phát từ
nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước tại điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, theo đó xét xử là một
quyền tư pháp và chỉ thuộc về cơ quan duy nhất là Tòa án.
 Hành vi tố tụng đặc trưng của giai đoạn xét xử vụ án hình sự là các hoạt động tố
tụng tại phiên tòa như xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án…Các hoạt động này
được thực hiện bởi các chủ thể: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (Hội đồng xét xử),
Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, người bị hại… nhằm mục đích cuối cùng làm
sáng tỏ sự thật vụ án để Hội đồng xét xử ra bản án (hoặc quyết định) có hiệu lực pháp
luật.
 Văn bản tố tụng đặc trưng của giai đoạn xét xử vụ án hình sự là bản án hoặc
quyết định của Tòa án. Bản án hình sự là văn bản tố tụng hình sự ghi nhận các kết luận
và quyết định của Hội đồng xét xử - cao hơn nữa đây còn là sự đánh giá của nhà nước
đối với một hành vi, một con người cụ thể khi hành vi đó, con người đó bị truy tố trước
Mạc Giáng Châu, Nguyễn Chí Hiếu: Giáo trình luật tố tụng hình sự - Học phần 2, khoa Luật, Trường Đại học
Cần Thơ, 2010, trang 33
15

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 14


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm

Tòa án. Chính vì vậy, bản án mang một ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc và trước hết
trực tiếp ảnh hưởng tới người bị đưa ra xét xử - bị cáo.
Tóm lại, mọi hoạt động phương thức đều có những đặc điểm riêng, phiên tòa hình
sự sơ thẩm cũng không ngoại lệ, nếu nắm được và hiểu được các đặc điểm của nó thì
người tiến hành tố tụng nói chung và Hội thẩm nhân dân nói riêng sẽ nhanh chóng áp
dụng pháp luật phù hợp với từng đặc điểm của phiên tòa, đó cũng chính là cơ sở để
hoạt động của phiên tòa có chất lượng, có tác dụng nâng cao ý thức pháp luật cho mọi
công dân.
1.2. Cơ sở lý luận về vai trò và nguyên tắc xét xử độc lập của Hội thẩm nhân dân
trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.2.1. Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử án hình sự sơ thẩm
Trong thành phần của Hội đồng xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân
đó chính là việc luật hóa quan điểm tư tưởng của Đảng và Nhà nước về nội dung: “Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”16 Nhà nước
pháp quyền là nơi ý chí của giai cấp thống trị xã hội được xây dựng thành luật và các tổ
chức phù hợp để thực thi quyền lực của mình. Bản chất nhà nước ta là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua hình thức
dân chủ đại diện.
Việc xét xử của Tòa án nhân dân có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân là yêu
cầu tất yếu khách quan của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa. Trước tiên về mặt pháp lí,
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân
có Hội thẩm tham gia”,“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật”. Đối với một Nhà nước pháp quyền Hiến pháp là đạo luật gốc có giá trị pháp lí
cao nhất. Hiến pháp đã qui định và điều chỉnh những quan hệ căn bản nhất của con
người, tổ chức xã hội về mọi mặt chính trị - kinh tế, văn hóa… Mọi văn bản luật đều
phải chịu sự chi phối của Hiến pháp và không được trái với Hiến pháp. Do vậy việc
quy định chế định Hội thẩm nhân dân trong công tác xét xử của Tòa án là một nguyên
tắc Hiến định. Sự tham gia của Hội thẩm vào công tác xét xử của Tòa án nhằm:


16

Xem thêm Điều 2 Hiến pháp 2013

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 15


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
Thứ nhất, thể hiện vai trò đại diện của nhân dân và tăng cường tính chất dân chủ
trong hoạt động xét xử của toà. Hội thẩm là những người được Hội đồng nhân dân tín
nhiệm bầu ra, thay mặt cho nhân dân tham gia hoạt động xét xử các vụ án sơ thẩm,
đảm bảo cho hoạt động xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Việc xét xử của
Tòa án có Hội thẩm Tòa án nhân dân tham gia Hội đồng xét xử là một trong những
biểu hiện rõ nét nhất cụ thể nhất của chế độ dân chủ, của phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Hội thẩm nhân dân là những người sống trong cộng đồng
dân cư, sâu sát thực tế, là đại diện của các tổ chức và có ngành nghề khác nhau do vậy
họ nắm chắc được tâm tư nguyện vọng của quần chúng và cũng chính vì vậy người Hội
thẩm nhân dân có điều kiện thuận lợi để tìm ra nguyên nhân, hoàn cảnh phạm tội, diễn
biến tâm lý của bị cáo trong các vụ án hình sự, điều này giúp việc xét xử được khách
quan, công minh và toàn diện hơn. Trong quá trình xét xử sơ thẩm hình sự nhiều Hội
thẩm đã tỏ ra bản lĩnh, nêu cao trách nhiệm, kiên định bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa và với niềm tin nội tâm sâu sắc của mình đã góp phần quan trọng vào sự thành
công của vụ án.
Trong phiên toà hình sự sơ thẩm, mỗi giai đoạn của phiên toà đều có những tính
chất và yêu cầu khác nhau. Với vai trò đại diện quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt
động xét xử, Hội thẩm cần phải thể hiện trách nhiệm được nhân dân giao phó trong
việc bảo đảm và bảo vệ quyền dân chủ, bình đẳng của bị cáo và những người tham gia

tố tụng khác trong vụ án với một số nội dung chính như sau:
Hội thẩm nhân dân với vai trò đảm bảo bảo vệ quyền dân chủ của người bị xét
hỏi và bảo vệ quyền dân chủ của công dân trong khi nghị án.
Những người tham gia tố tụng bao gồm bị cáo, người bào chữa, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ khác phải được Hội
đồng xét xử và nhất là Hội thẩm quan tâm, bảo vệ quyền dân chủ ở những khía cạnh
khác nhau tuỳ vào địa vị tham gia tố tụng của họ trong phiên toà. Đối với bị cáo trong
phiên toà, theo quy định của pháp luật họ vẫn không bị coi là có tội, quyền dân chủ của
họ vẫn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Giai đoạn xét hỏi là để Hội đồng xét xử
xem xét các tài liệu, vật chứng của vụ án kết hợp với việc hỏi các đối tượng được xét
hỏi để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, cách xét hỏi của Hội thẩm phải mang tính
khách quan, không áp đặt. Thái độ của Hội thẩm đối với những người được xét hỏi
phải dân chủ và bình đẳng và tôn trọng họ. Khi nghị án Hội thẩm phải có tầm nhìn

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 16


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
khách quan, toàn diện, chính xác về các vấn đề của vụ án để xét xử đúng người, đúng
tội, không để lọt tội phạm cũng không được xảy ra oan sai đối với người vô tội.
Hội thẩm còn có vai trò đảm bảo cho việc xét hỏi khách quan, công bằng, chí
công vô tư và đảm bảo bảo vệ quyền tranh luận bình đẳng của những người tham gia tố
tụng trong tranh luận. Việc xét hỏi và tranh luận là hai giai đoạn quan trọng của phiên
toà tuy tính chất có khác nhau nhưng việc xét hỏi phải khách quan, công bằng, chí công
vô tư giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Quyền
tranh luận phải bình đẳng giữa những người tham gia tranh luận và Hội thẩm phải có
trách nhiệm cùng với Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà làm tốt vai trò trọng tài công lý
trong giai đoạn tranh luận của vụ án.

Trong khi thực thi vai trò đảm bảo bảo vệ quyền dân chủ của những người bị xét
hỏi cũng như bảo đảm quyền tranh luận bình đẳng trong phiên toà, Hội thẩm nhân dân
phải luôn thể hiện được vai trò đại diện cho nhân dân trong việc xét xử công bằng, chí
công vô tư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của các tổ chức xã hội
và của mọi công dân.
Thứ hai, Hội thẩm nhân dân còn là người thay mặt cho nhân dân thực hiện vai
trò, chức năng giám sát pháp luật trong hoạt động xét xử, bảo đảm việc tuân theo pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm xét xử đúng pháp luật. Tòa án thực hiện chức năng xét
xử là thực hiện một bộ phận quyền lực của nhân dân, nhân dân có quyền giám sát việc
thực hiện quyền lực đó. Quá trình tham gia hoạt động xét xử các vụ án sơ thẩm của Hội
thẩm nhân dân cũng là quá trình Hội thẩm nhân dân giám sát hoạt động của Tòa án.
Trong xét xử án hình sự, quyền con người và lợi ích của những người tham gia tố tụng
rất dễ bị xâm phạm nên Hội thẩm nhân dân cần quan tâm giám sát những vấn đề sau
trong phiên toà hình sự sơ thẩm: Hội thẩm nhân dân phải bảo đảm việc xét xử là có căn
cứ pháp luật, phải theo dõi và giám sát các giai đoạn của phiên toà đồng thời luôn nêu
cao trách nhiệm tuân thủ nguyên tắc khi xét xử Hội thẩm và Thẩm phán xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật và Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán trong xét xử.
Thứ ba, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo các bản án của Tòa án tuyên
chính xác, khách quan, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng của quần chúng nhân dân Hội
thẩm là người sinh sống trong các cụm dân cư, làm việc trong cơ quan, xí nghiệp
trường học, đơn vị sản xuất…là người có kinh nghiệm hoạt động xã hội, có mối quan
hệ khá rộng với nhiều tầng lớp dân cư, nên có khả năng hiểu đặc điểm, hoàn cảnh, tâm

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 17


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
lý của người vi phạm pháp luật nói chung, người phạm tội nói riêng, từ đó giúp Tòa án

giải quyết vụ án kịp thời và đúng đắn, phù hợp nguyện vọng quần chúng nhân dân, đáp
ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thứ tư, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Toà án với quần chúng nhân dân
Thông qua hoạt động của Hội thẩm nhân dân, Tòa án có điều kiện nắm bắt ý kiến quần
chúng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Giúp quần chúng nhân dân hiểu
rõ về hoạt động của Tòa án nói chung, hoạt động xét xử nói riêng. Quần chúng nhân
dân được nâng cao ý thức pháp luật, tự giác chấp hành và bảo vệ pháp luật.
Thứ năm, Hội thẩm còn góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung,
kết quả xét xử các vụ án cho quần chúng nhân dân nói riêng. Là những người cùng sinh
sống, làm việc trong các cụm dân cư, các đơn vị sản xuất, các cơ quan hành chính, sự
nghiệp; người có sự hiểu biết pháp luật nhất định. Sau mỗi phiên tòa, Hội thẩm nhân
dân trở về với dân cư nơi sinh sống và nơi làm việc, nên Hội thẩm nhân dân có điều
kiện phổ biến pháp luật và kết quả xét xử vụ án của Tòa án cho quần chúng nhân dân.
1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản của việc xét xử án hình sự sơ thẩm
Nguyên tắc được hiểu là những tư tưởng, quan điểm cơ bản mang tính chỉ đạo
các hành động cụ thể, nguyên tắc thường được thể hiện dưới hình thức các luận điểm,
các nguyên lý có tính xuất phát điểm, định hướng và nhất thiết phải được tôn trọng và
quán triệt trong một loạt việc làm17.
Công tác xét xử nói chung và xét xử án hình sự nói riêng đều phải tuân theo
những nguyên tắc, qui định của phát luật. Những nguyên tắc tố tụng cơ bản khi xét xử
vụ án hình sự đều được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự với mục đích bảo đảm
các quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng nhằm tìm ra sự thật của vụ án, xét xử đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm
cũng không để làm oan người vô tội.
Tòa án là bộ phận hợp thành bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam nên cũng được tổ chức theo nguyên tắc chung của việc tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước như các nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tập trung dân chủ,
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa…Tuy nhiên, Tòa án là một cơ quan nhà nước

17


PGS.TS Võ Khánh Vinh. PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng (chủ biên): Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam
những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư Pháp, 2006, trang 45

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 18


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
đặc biệt, là cơ quan tài phán với chức năng xét xử là chính nên Tòa án có một vị trí hết
sức quan trọng trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Cũng chính vì vậy, mà trong
công tác xét xử của mình Tòa án được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc
riêng đặc thù dựa trên nền tảng các nguyên tắc nói chung.
Như vậy, có thể xác định nguyên tắc cơ bản của việc xét xử án hình sự sơ thẩm
là những tư tưởng quan điểm thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa được vận dụng vào quá trình xét xử các vụ án hình sự. Việc hiểu và áp
dụng đúng đắn các nguyên tắc tố tụng hình sự là một yêu cầu không thể thiếu với
những người tham gia tiến hành tố tụng đặc biệt là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
trong phiên toà sơ thẩm hình sự.
1.2.2.1. Nhóm nguyên tắc chung trong xét xử án hình sự
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự. Đây là
nguyên tắc cơ bản mang tính chỉ đạo và bao trùm nhất được thể hiện trong mọi hoạt
động của các cơ quan tư pháp và nhất là hoạt động xét xử của Toà án. Trong công tác
xét xử để nguyên tắc này không bị vi phạm đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
phải tuân thủ đầy đủ và nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật tố tụng trong khi thực
hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình, từ các quy định của pháp luật tố tụng đến các quy
định của pháp luật về nội dung.
Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân trước pháp luật. Ở
nước ta những quyền cơ bản của công dân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bộ luật

tố tụng hình sự qui định những người tiến hành tố tụng có trách nhiệm trực tiếp tôn
trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. “Khi tiến hành tố tụng,Thủ trưởng,
Phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách
nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng,
kịp thời huỷ bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm hoặc không
còn cần thiết nữa”18. Nguyên tắc này còn được các nguyên tắc khác cụ thể hoá và bảo
đảm cho nguyên tắc này được thực hiện như: Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm

18

Xem thêm Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 19


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
phạm về thân thể của công dân, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân
trước pháp luật.
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Đây là một nguyên tắc xuyên suốt trong
quá trình tố tụng ở tất cả các giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có nột yêu cầu riêng để
nguyên tắc này được thực hiện. Tại phiên toà việc chủ yếu của Hội đồng xét xử là kiểm
tra lại tính hợp pháp của các chứng cứ đã được cơ quan điều tra,viện kiểm sát thu thập;
hoạt động đánh giá chứng cứ là nhiệm vụ chủ yếu của Hội đồng xét xử.
Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực của Tòa án.
Một người thực hiện hành vi phạm tội nếu họ chưa bị Toà án xét xử và kết án thì họ
chưa bị coi là có tội. Việc quy định nguyên tắc này trong Luật tố tụng hình sự có ý ngĩa

lý luận và thực tiễn, thể hiện sự phát triển về tư duy pháp lý trên cơ sở khoa học, khắc
phục được sự định kiến của các cở quan tiến hành tố tụng đối với bị can, bị cáo cho
rằng họ là người phạm tội nên trong quá trình giải quyết vụ án chỉ thu thập chứng cứ
buộc tội mà bỏ qua chứng cứ gỡ tội; ngoài ra định kiến đó còn dẫn đến việc đối xử với
bị can, bị cáo như người phạm tội mà thực ra họ có thể là người không phạm tội, dẫn
đến việc giải quyết vụ án không khách quan.
Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố
tụng. Nguyên tắc này yêu cầu Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên,Thư kí và
những người tham gia tố tụng khác phải thực sự vô tư khi thực hiện nhiệm vụ của
mình, đồng thời trong quá trình xét xử mà phát hiện có hiện tượng thiên vị thì phải
cương quyết đấu tranh, ví dụ như Hội thẩm phát hiện Kiển sát viên là người thân thích
với bị cáo thì phải thông báo cho họ biết để họ xin không làm nhiệm vụ tham gia xét
xử hoặc phải báo cho người có thẩm quyền biết để thay đổi Kiểm sát viên.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Quyền bào chữa của bị
can, bị cáo là nguyên tắc cơ bản đồng thời là chế định quan trọng của Luật tố tụng hình
sự. Theo quy định này thì cơ quan tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện trên cơ sở quy
định của luật để bị can, bị cáo thực hiện quyền tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác
bào chữa.
Nguyên tắc xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định. Việc xét xử công
khai, một mặt đảm bảo nhân dân có thể giám sát hoạt động của Tòa án, mặt khác phát
huy được tính giáo dục chính trị, pháp lý và tác động phòng ngừa của hoạt động xét xử.
Phiên tòa được tiến hành một cách công khai, mọi người có độ tuổi từ 16 tuổi trở lên
GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 20


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
mới có thẩm quyền tham dự phiên tòa xét xử, trừ những trường hợp những người dưới
16 tuổi được triệu tập tham gia phiên tòa. Nội quy phiên tòa, thời gian, địa điểm mở

phiên tòa được niêm yết công khai trước khi xét xử. Trong trường hợp để đảm bảo bí
mật nhà nước hoặc bí mật của đương sự thì Toà án không xét xử công khai nhưng vẫn
phải tuyên án công khai.
1.2.2.2. Nhóm nguyên tắc có liên quan trực tiếp đến vai trò của Hội thẩm
nhân dân trong xét xử sơ thẩm hình sự
Như trên đã phân tích, Hội thẩm nhân dân có một vai trò quan trọng trong việc
xét xử của Tòa án, nên trong hệ thống các nguyên tắc gải quyết án hình sự cũng có một
nhóm nguyên tắc xét xử của Tòa án liên quan đến chế định này.
Thứ nhất, nguyên tắc việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội Thẩm nhân dân
tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Một trong những đặc trưng của Nhà
nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Bản
thân chế định Hội thẩm là sự thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bảo đảm nguyên tắc
thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là cơ
quan quyền lực của Nhà nước, Nhà nước thông qua Tòa án để thực hiện quyền lực tư
pháp của mình. Chính bằng hoạt động xét xử, Tòa án giáo dục công dân trung thành
với Tổ quốc, tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích
của nhân dân. Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào Hội đồng xét xử mà thực hiện
quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào
công tác quản lý Nhà nước nói chung, hoạt động của Tòa án nói riêng. Nguyên tắc này
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong xét xử, bởi việc tham gia của Hội thẩm giúp cho
Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân
dân. Tại Hội nghị học tập của ngành cán bộ Tư pháp năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng nói: “Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng
chưa đủ. Không chỉ giới hạn hoạt động của mình trong khung Tòa án mà phải gần
dân, hiểu dân, giúp dân, học dân…”. Muốn đưa ra phán quyết đúng, giải quyết các
tranh chấp đúng pháp luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển
nhiên đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh,
có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng. Ngoài ra, để Hội đồng xét xử có phán
quyết đúng đắn, đòi hỏi họ cũng phải có kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống, có kinh
nghiệm hoạt động xã hội. Vì thế pháp luật quy định khi xét xử có Hội thẩm nhân dân

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 21


Luận văn tốt nghiệp: Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong phiên tòa hình sự sơ thẩm
tham gia là sự bổ sung cần thiết cho những lĩnh vực đó. Hơn nữa, Hội thẩm là đại diện
của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, hội thẩm có thể phản ánh một
cách khách quan cách nhìn nhận về sự kiện, vụ việc từ suy nghĩ, tâm tư của quần chúng
nhân dân, chứ không phải từ góc độ của một luật gia thuần túy.
Thứ hai, nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Sau cách
mạng tháng Tám năm 1945, một mặt do chưa có kinh nghiệm trong tổ chức nhà nước,
mặt khác do thiếu cán bộ nên nguyên tắc này chưa được xác lập, khi đó pháp luật quy
định: “Tại phiên tòa, Thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký, lập biên bản án
tù”19. Hiến pháp năm 1946 vẫn chưa xác định nguyên tắc này chỉ từ sau cải cách tư
pháp, nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số mới được qui định
trong luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 tại Điều 12. Nguyên tắc này được giữ gìn
và phát huy qua các thời kì, đến nay nguyên tắc này vẫn được ghi nhận trong bản Hiến
pháp năm 2013 tại Điều 103 và nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Xét xử là một hoạt động đặc thù
của nhà nước nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có liên quan đến số phận của
một cá nhân, gia đình, quyền lợi ích của nhà nước, tổ chức xã hội. Do đó công tác xét
xử luôn cần phải thận trọng, có quyết định đúng đắn, đòi hỏi trí tuệ của cả tập thể, vì
thế nhất thiết phải thành lập Hội đồng xét xử.
Thứ ba, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Tòa án chiếm vị trí vai trò hết
sức quan trọng. Bởi lẽ, Tòa án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp của bộ máy nhà
nước, có ảnh hưởng đến mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam. Tòa án cũng là nơi thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước và
nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của cả hệ

thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cũng chính vì vậy mà khi
nói đến một nền tư pháp công bằng, dân chủ mà ở đó tồn tại những con người thật sự
công minh, vô tư và liêm khiết thì phải nhắc đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án
mà đại diện là Thẩm phán và Hội thẩm, những người trực tiếp xét xử; đưa ra các phán
quyết có ảnh hưởng đến danh dự Nhà nước và tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của nhân dân.

19

Điều thứ 10 Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán

GVHD: Th.s Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Thị Tuyết Mai 22


×