Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
(NIÊN KHÓA 2011-2015)
ĐỀ TÀI:

VAI TRÒ CỦA CHỦ SỞ HỮU DOANH NGHIỆP KHI DOANH
NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN

Giảng viên hướng dẫn:
Ths. Nguyễn Mai Hân
Bộ môn: Luật Thương Mại

Sinh viên thực hiện:
Châu Thị Tuyết Phương
MSSV: 5116012
Lớp: LK1164A2

Cần Thơ, Tháng 11 năm 2014


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Nội hàm
của quyền này bao gồm: Quyền được lựa chọn lĩnh vực ngành nghề, quy mô và


phạm vi kinh doanh; quyền lựa chọn sản phẩm hàng hóa và dịch vụ để sản xuất,
cung ứng; quyền lựa chọn phương thức huy động vốn, lựa chọn đối tác trong kinh
doanh… Tuy nhiên, đi kèm với quyền tự chủ rộng rãi trong kinh doanh là nghĩa vụ
tự chịu trách nhiệm đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp về chất lượng
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và độc lập thực hiện các nghĩa vụ tài sản phát sinh như
nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ thanh toán nợ. Quyền tự chủ trong kinh doanh một mặt
tạo ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp phát triển, mặt khác cũng là một thách thức lớn.
Sự cạnh tranh khốc liệt trên thương trường làm cho không ít doanh nghiệp phải điêu
đứng, thua lỗ triền miên dẫn đến nguy cơ đối diện với phá sản. Như vậy, phá sản là
một hệ quả tất yếu của một doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả kéo dài, là quá
trình sàng lọc tự nhiên mang tính quy luật trong nền kinh tế thị trường. Qua đó, loại
bỏ những doanh nghiệp yếu kém, làm ăn không hiệu quả góp phần làm lành mạnh
hóa môi trường kinh doanh, cơ cấu lại nền kinh tế.
Chính vì vậy, phá sản là giải pháp hữu hiệu nhất mà Nhà nước lựa chọn trên
cơ sở cân nhắc đầy đủ và thận trọng các hệ quả về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp rút lui có trật tự. Cho nên, phá sản là một vấn đề
cần được tìm hiểu và nghiên cứu bởi khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản nó
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế và đặc biệt là quyền lợi của người lao động ít
nhiều sẽ bị xáo trộn như tiền lương, các chế độ, việc làm và các vấn đề tiêu cực phát
sinh và các khoản nợ của doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng
phá sản làm nảy sinh nhiều mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết. Chẳng những
quan hệ nợ nần giữa các chủ nợ với doanh nghiệp mắc nợ, quan hệ giữa doanh
nghiệp mắc nợ với người lao động do tình trạng mất khả năng thanh toán nợ gây ra.
Vì vậy, việc giải quyết kịp thời các vấn đề trên có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thiết
lập một trật tự cần thiết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo quyền
chủ thể của các mối quan hệ hay các bên liên quan.
Đối với nước ta việc giải quyết yêu cầu phá sản vẫn là một vấn đề cần thiết
và cấp bách, tuy nhiên trên thực tiễn giải quyết việc phá sản cũng gặp không ít
những khó khăn, vướng mắc nhất là trong vấn đề về vai trò của chủ sở hữu doanh
nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Do vậy, nghiên cứu về thủ tục

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 1

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

phá sản để làm sáng tỏ các quy định về vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để
hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và môi
trường kinh tế quốc tế.
Chính vì những lý do trên mà người viết quyết định chọn đề tài “Vai trò của
chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp cử nhân ngành luật của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và phân tích những quy định của pháp luật về vai trò
của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thông
qua các quy định về thủ tục phá sản. Qua đó rút ra những mặt hạn chế, bất cập của
Luật Phá sản 2004 có liên quan. Trên cơ sở đó, người viết đưa ra một số nhận xét về
những điểm mới của Luật Phá sản 2014 liên quan đến vai trò của chủ sở hữu doanh
nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản nhằm tạo điều kiện thuận lợi và
nhanh chóng giúp cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
kịp thời nắm bắt cũng như hiểu rõ hơn về các quy định này và góp phần cho việc
thực thi các quy định này trên thực tế có hiệu quả hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian nghiên cứu là có giới hạn và những quy định về vai trò của chủ
sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cho đến hiện nay
vẫn còn tương đối mờ nhạt chưa có nhiều học giả nghiên cứu nên nguồn tài liệu

tham khảo còn hạn chế. Vì vậy trong đề tài này, người viết chỉ tập trung nghiên cứu
những vấn đề cơ bản liên quan đến vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo từng trình tự thủ tục phá sản bao gồm: Nộp
đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản; phục hồi hoạt động kinh doanh; thanh lý tài sản,
các khoản nợ; tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. Đề tài này được thực hiện trong
phạm vi Luật Phá sản 2004, Luật Phá sản 2014 và các văn bản pháp luật có liên
quan.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết đã sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau. Cụ thể là: phương pháp tổng hợp từ hệ thống
văn bản pháp luật kết hợp với các nguồn sách báo, tạp chí, giáo trình. Đồng thời
tham khảo một số vụ việc thực tế có liên quan. Bên cạnh đó kết hợp với các phương
pháp phân tích luật viết, liệt kê, thống kê số liệu, tổng hợp các nguồn tài liệu hiện có
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 2

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

để làm sáng tỏ vấn đề. Tất cả các phương pháp nghiên cứu trên kết hợp với nhau đã
hỗ trợ người viết hoàn thiện nội dung nghiên cứu này.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục thì kết
cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản.
Chương 2: Những quy định về vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo pháp luật phá sản ở Việt Nam.

Chương 3: Thực trạng và một số nhận xét về vai trò của chủ sở hữu
doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trong pháp luật
phá sản.

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 3

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 4

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN

1.1. Khái quát chung về phá sản
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Luật Phá sản 2004 không đưa ra khái niệm trực tiếp về phá sản doanh nghiệp,
chỉ đưa ra khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Theo quy định tại
Điều 3 Luật Phá sản 2004: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh

toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng
phá sản.”
Nghiên cứu và xác định thời điểm doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản có ý nghĩa rất quan trọng, bởi chính việc xác định doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản sẽ giúp chúng ta có thể áp dụng các thủ tục tiếp theo để giải quyết
việc phá sản đối với doanh nghiệp đó.
Có thể thấy rằng tiêu chí xác định tình trạng phá sản trên của Luật Phá sản
2004 được quy định theo hướng ngắn gọn, đơn giản và đi vào bản chất mà không
quy định rõ về thời gian quá hạn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của con nợ.
Điều này có thể dẫn đến việc một số doanh nghiệp khi căn cứ vào điều luật này đã
lạm dụng quyền nộp đơn nhằm gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp khác. Trong nhiều trường hợp, các chủ nợ thay vì
khởi kiện vụ án dân sự, kinh tế đòi nợ, họ lại làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản để
đòi nợ và tòa án không thể từ chối yêu cầu này. Điều này không những không giúp
cải thiện một số vụ việc phá sản mà còn làm cho các doanh nghiệp thêm “cảnh
giác” với luật phá sản hiện hành.1
Ngoài ra, tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản được quy định tại Điều 3 Luật Phá sản 2004 nói trên là căn cứ cho việc nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản chứ không phải là căn cứ cho việc tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Vì sự mất khả năng thanh toán đó của doanh nghiệp,
hợp tác xã chỉ là căn cứ để pháp luật suy đoán doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào
tình trạng phá sản. Do đó, sau khi thụ lý hồ sơ, tòa án cần phải tiến hành nhiều biện
pháp để khẳng định được rằng trên thực tế con nợ đã mất khả năng thanh toán nợ

1

Hà Thị Thanh: Một số bất cập của Luật Phá sản năm 2004, 2012,
[truy cập 1809-2014].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân


Trang 5

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

đến hạn và tòa án chỉ ra quyết định mở thủ tục phá sản khi điều đó được chứng
minh.
Khác với Luật Phá sản 2004 chỉ quy định chung chung, khoản 1 Điều 4 Luật
Phá sản 2014 định nghĩa rằng “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong
thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.”
Như vậy, Luật Phá sản 2014 đã đưa ra một khoảng thời hạn “03 tháng” để
doanh nghiệp, hợp tác xã khi không có khả năng thanh toán có thể tìm các phương
án khác để thanh toán nợ đến hạn trước khi bị coi là lâm vào tình trạng phá sản.
Bởi, không phải cứ có nợ quá hạn là doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình
trạng phá sản được. Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu
tuyên bố phá sản lại đang là chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã khác với số tiền bị
nợ này lớn gấp nhiều lần số nợ quá hạn mà họ đang gặp phải 2. Quy định này cũng
phù hợp với kinh nghiệm lập pháp của một số nước khi cho phép con nợ có thời hạn
trễ hạn thanh toán sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ, đồng thời khắc phục tình trạng
lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ nợ như quy
định cũ. Từ quy định này, luật cho phép các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản khi hết thời hạn ba tháng, kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh
nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Đồng thời Luật Phá sản 2014 cũng quy định rõ “Phá sản là tình trạng của
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết
định tuyên bố phá sản”. Tức là chỉ khi Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá

sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã đó mới bị coi là phá sản.
Thông thường, các quốc gia trên thế giới coi phá sản là hiện tượng tất yếu của
nền kinh tế và doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản không phải là chết mà vấn
đề là ở chỗ xác định được thời điểm đó càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Bởi
lẽ, tình trạng tài chính của các doanh nghiệp đã bị đặt trong tình trạng phá sản, đã
khủng hoảng trầm trọng cần có sự hỗ trợ từ nhiều phía, trong đó chủ yếu là từ các
chủ nợ của doanh nghiệp để đưa doanh nghiệp ra khỏi tình trạng phá sản. Nhà nước
chỉ tuyên bố phá sản đối với những doanh nghiệp thật sự không còn khả năng phục
hồi lại hoạt động. Trong các quy định của pháp luật của các quốc gia này có sự tách
biệt rõ ràng giữa hai thủ tục, thủ tục phục hồi áp dụng đối với những doanh nghiệp

2

Lê Phi: Doanh nghiệp “chết không được chôn” vì Luật Phá sản, Báo điện tử Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh,
2013, [truy cập
ngày 08-09-2014].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 6

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

có khả năng khôi phục và thủ tục phá sản áp dụng đối với những doanh nghiệp
không có khả năng phục hồi hoặc sau khi đã áp dụng các biện pháp phục hồi nhưng
vẫn không có khả năng hoạt động bình thường trở lại.
1.1.2. Bản chất của phá sản

Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu
quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh. Phá sản
không chỉ là sự xung đột lợi ích của các doanh nghiệp mắc nợ mất khả năng thanh
toán với các chủ nợ của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi ích của tập thể người
lao động làm việc tại cơ sở của doanh nghiệp mắc nợ, đến lợi ích chung của xã hội,
đến tình hình trật tự trị an tại một địa phương, vùng lãnh thổ nhất định nào đó. Ban
hành pháp luật phá sản là mong muốn của nhà làm luật sử dụng những thuộc tính
của nhà làm luật với tư cách là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội trong điều
kiện tồn tại nhà nước như tính quy phạm… tính bắt buộc chung nhằm tác động một
cách hiệu quả nhất đến quan hệ giữa các chủ thể phá sản, giải quyết xung đột lợi ích
của các chủ thể đó theo đúng bản chất vốn có của nó. Ngoài ra việc giải quyết xung
đột lợi ích này cũng không thể không tính đến những nhiệm vụ cụ thể đặt ra trước
mắt những nhà làm luật ở mỗi quốc gia trong thời kỳ phát triển kinh tế của mình.
Như vậy phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của kinh tế thị trường, còn
pháp luật phá sản là sự can thiệp có ý thức của nhà nước vào hiện tượng này nhằm
hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó.
Thông qua phá luật phá sản nhà nước, tòa án có thể can thiệp vào quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp với cách nhìn hiện đại, năng động
và hết sức mềm dẻo.
Phá sản đã có từ lâu nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ biến thì nó chỉ
xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế này, cùng với các quyền
cơ bản khác của công dân, quyền tự do kinh doanh đã được nhà nước tôn trọng, đề
cao và bảo vệ. Với tư cách là một quyền cơ bản của công dân, quyền tự do kinh
doanh có nội hàm rộng, bao hàm nhiều bộ phận cấu thành như quyền tự do thành
lập doanh nghiệp, quyền tự do quyết định quy mô kinh doanh, quyền tự do lựa chọn
ngành nghề, mặt hàng kinh doanh, quyền tự do định đoạt các vấn đề phát sinh trong
khi hành nghề, quyền tự do thiết lập các quan hệ kinh tế, quyền tự do lựa chọn cơ
quan giải quyết tranh chấp, quyền tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật.
Như vậy, quyền tự do cạnh tranh là một bộ phận cấu thành quan trọng của
quyền tự do kinh doanh, tạo tiền đề pháp lý để các doanh nghiệp tham gia vào các

cuộc cạnh tranh nhằm giành giật thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Cũng như mọi
cuộc chiến khác, có “kẻ thắng, người thua”, trong cuộc cạnh tranh giữa các doanh
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 7

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

nghiệp tất yếu sẽ có sự sắp xếp lại đối trọng trong thị trường, bên cạnh những doanh
nghiệp kinh doanh hiệu quả, tiếp tục tồn tại và phát triển, một bộ phận không nhỏ
những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả, không đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
tài chính buộc phải chấm dứt hoạt động, rút khỏi thị trường. Để đảm bảo sự bình ổn
của thị trường, lành mạnh hóa hoạt động kinh doanh, nhà nước không thể đứng
ngoài cuộc, buộc phải can thiệp thông qua hoạt động ban hành pháp luật, tạo hành
lang pháp lý điều chỉnh hiện tượng này, qua đó thực hiện chức năng quản lý của
mình. Tất cả những vấn đề liên quan đến phá sản cần phải được nhà nước điều
chỉnh bằng các văn bản pháp luật để giải quyết một cách thấu đáo, hợp tình, hợp lý.
Ví dụ, nhà nước phải quy định khi nào và với điều kiện gì thì một doanh nghiệp
mắc nợ bị coi là đã lâm vào tình trạng phá sản, ai có quyền làm đơn yêu cầu giải
quyết phá sản; cơ quan nào trong bộ máy nhà nước có nghĩa vụ giải quyết việc phá
sản, thủ tục tòa án thụ lý và giải quyết vụ phá sản; cơ chế quản lý tài sản của doanh
nghiệp mắc nợ lâm vào tình trạng phá sản, thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của
thiết chế thực hiện việc quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản,
tài sản phá sản bao gồm những gì, khi giải quyết phá sản thì có những tài sản nào
của doanh nghiệp mắc nợ không được đem chia cho các chủ nợ, thứ tự ưu tiên
thanh toán từ tài sản phá sản, doanh nghiệp mắc nợ có phải tiếp tục trả cho chủ nợ
các khoản nợ còn thiếu chưa được trả hay không… Tổng hợp những văn bản pháp

luật này tạo thành một lĩnh vực pháp luật được gọi là pháp luật về phá sản mà
xương sống của nó là Luật Phá sản.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, phá sản và pháp luật phá sản không
tồn tại. Đặc trưng của nền kinh tế này là sự thừa nhận nguyên tắc nhà nước lãnh đạo
nền kinh tế (ví dụ, ở Việt Nam,nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 22 và Điều
33 Hiến pháp 1980), ghi nhận sự thống lĩnh của chế độ sữu hữu xã hội dưới hai
hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể (Điều 18, Điều 23, Điều 26 Hiến
pháp năm 1980) phủ nhận quyền tự do kinh doanh thông qua việc khẳng định sự
độc quyền ngoại thương của nhà nước (Điều 21 Hiến pháp năm 1980) và cấm đoán
hình thức sản xuất kinh doanh phi xã hội chủ nghĩa (Điều 24,Điều 25 Hiến pháp
năm 1980).
Như vậy, trong nền kinh tế này không có sự tồn tại của nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, không có tự do kinh doanh, tức là không có đầy đủ
các tiền đề kinh tế pháp lý để tạo ra được sự cạnh tranh thực sự trên thương trường.
Trong điều kiện cần thiết, nhà nước quyết định thành lập ra các doanh nghiệp nhà
nước và chỉ đạo, điều hành sự hoạt động của nó. Khi doanh nghiệp nhà nước làm ăn
thua lỗ, nhà nước điều tiết bằng cách hoặc là bù lỗ bằng tiền ngân sách để doanh
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 8

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

nghiệp tiếp tục tồn tại hoặc là chấm dứt sự tồn tại của nó bằng cách ra quyết định
giải thể. Trong hoàn cảnh như vậy, không thể có phá sản và do đó, không thể có
pháp luật về phá sản. Điều này giải thích tại sao ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây không hề có luật phá sản mà chỉ có các quy định pháp luật về giải

thể doanh nghiệp nhà nước.3
1.1.3. Sự hình thành và phát triển của pháp luật phá sản ở Việt Nam
Trước năm 1986 đất nước ta thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao
cấp, chủ thể kinh tế chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh, hợp tác xã và do Nhà
nước thành lập, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể. Các doanh nghiệp,
hợp tác hợp tác xã không có quyền hoặc ít có quyền chủ động trong hoạt động kinh
doanh, mọi hoạt động trong quá trình kinh doanh từ sản xuất đến tiêu tụ sản phẩm
đều theo kế hoạch của Nhà nước và cũng không có sự cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp. Hoạt động doanh nghiệp, hợp tác xã nếu có lãi thì nộp vào ngân sách Nhà
nước, nếu thua lỗ thì được Nhà nước bù lỗ. Do vậy, hoạt động của các xí nghiệp,
doanh nghiệp, hợp tác xã thời kỳ này kém hiệu quả, lãi giả, lỗ thật, nợ nần chồng
chất Nhà nước phải luôn giúp đỡ các doanh nghiệp bằng cách khoanh nợ, giãn nợ,
hoãn nợ, xóa nợ hoặc dùng các giải pháp mang tính chất hành chính như sáp nhập,
giải thể để chấm dứt hoạt động của chúng. Như vậy cùng với nền kinh tế tự cấp tự
túc không có hoạt động thương mại nên không có phá sản thì hoạt động của doanh
nghiệp quốc doanh, hợp tác xã trong nền kinh tế tập trung bao cấp không thể bị mất
khả năng thanh toán và do đó không có hiện tượng phá sản. Không có hiện tượng
phá sản nên không có pháp luật về phá sản4. Tuy nhiên nếu đặt vấn đề phá sản và
pháp luật phá sản ở Việt Nam thời kỳ đó và trước năm 1945 ta thấy một số vấn đề
sau:
Thứ nhất, pháp luật phá sản đã có và được biết đến ở Việt Nam trước năm
1945 là một luật được đưa ra trong thời kỳ thuộc địa của Pháp, nhưng luật này phần
lớn được áp dụng ở miền Nam và ít được áp dụng.
Thứ hai, pháp luật phá sản đã được xây dựng và thực hiện ở miền Nam dưới
chế độ Việt Nam Cộng hòa ( Ngụy, Sài Gòn, Chính phủ do Mỹ lập nên và bảo trợ).
Tuy nhiên, nó được coi như là một bộ phận của Luật Thương mại năm 1972.
Thứ ba, miền Bắc nước ta từ năm 1945 đến năm 1975 và cả nước từ năm
1975 đến năm 1985 vì là nền kinh tế thời chiến, thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp nên không có hiện tượng phá sản và không có pháp luật về phá sản.
3


C.E Runlinxki ,Giáo trình kinh doanh dành cho các trường đại học, Nxb Norma , Matxcova, 2004, tr.830.
Dương Kim Thế Nguyên, Giáo trình Luật thương mại Phần 3 – Giải quyết tranh chấp và phá sản doanh nghiệp,
Trường Đại học Cần Thơ, 2004, tr. 80.
4

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 9

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng, nước
ta thừa nhận nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế và hình thức sở hữu,
tăng trách nhiệm và tính chủ động cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, thực hiện tự
chủ, tự hoạch toán và chịu trách nhiệm do đó đã tạo ra sự năng động của nền kinh
tế, dần dần đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên giai đoạn
từ năm 1986 đến năm 1992 là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai, nhiều vấn đề
chúng ta vừa làm vừa thử nghiệm rút kinh nghiệm. Do đó, một số vấn đề về thể chế,
chính sách, pháp luật chưa được đầy đủ hoàn thiện.
Xuất phát từ lý luận cơ cấu kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định cơ cấu của hệ
thống pháp luật; tính chất của các quan hệ kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định
tính chất của các quan hệ pháp luật, mức độ và phạm vi điều chỉnh pháp luật5. Ta
thấy sự khác biệt của pháp luật kinh tế thời kỳ trước đổi mới và thời kỳ đổi mới
cũng như thấy được tính tất yếu khách quan của hiện tượng phá sản và pháp luật
phá sản trong nền kinh tế thị trường.
Từ năm 1986 đến trước khi Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 ra đời, pháp

luật nước ta chưa có quy định về phá sản. Do vậy, việc xử lý những doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản gặp rất nhiều khó khăn, mặc dù nhà nước có ban hành
một số văn bản quy phạm pháp luật như : Quyết định số 315-HĐBT ngày 01 tháng
09 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về chấn chỉnh và tổ chức lại sản
xuất và kinh doanh trong khu vực kinh tế quốc doanh; Quyết định số 330-HĐBT
ngày 23 tháng 10 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng bổ sung sửa đổi Quyết định số
315-HĐBT ngày 01 tháng 09 năm 1990; Nghị định số 338-HĐBT ngày 20 tháng 11
năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải thể các doanh nghiệp trong khu vực
kinh tế quốc doanh. Theo đó, việc tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp thuộc
thẩm quyền của trọng tài kinh tế Nhà nước. Tuy vậy khi thực hiện việc giải thể đã
nảy sinh những hiện tượng tiêu cực như: doanh nghiệp tìm mọi cách xóa nợ để lẫn
tránh trách nhiệm gây tổn hại nghiêm trọng đế lợi ích của Nhà nước và các chủ thể
khác tham gia thủ tục giải thể doanh nghiệp. Mặt khác trong khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh chưa có các quy định của pháp luật về phá sản điều chỉnh nên nhiều
doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản bị xử lý theo nhiều cách khác nhau,
thậm chí có trường hợp các bên tự xử lý lẫn nhau làm mất trật tự an toàn xã hội, tạo
ra sự bất bình đẳng giữa các bên, các doanh nghiệp làm tổn hại đến hoạt động kinh
tế chung của đất nước. Điều này cũng ảnh hưởng đến nguyên tắc, pháp chế của

5

Khuất Thị Thu Hiền, Chuyên đề khoa học xét xử: Phá sản và pháp luật phá sản ở Việt Nam,
[truy cập ngày 06-09-2014].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 10

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương



Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

pháp luật xã hội chủ nghĩa. Làm nảy sinh tình trạng vô Chính phủ trong xử lý phá
sản của các doanh nghiệp. Thực trạng của các doanh nghiệp quốc doanh, ngoài
quốc doanh, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản như “chết mà không được chôn”
vậy.6
Trong thời đại ngày nay, với sự đề cao nhân quyền, dân chủ tự do, bình đẳng,
pháp luật phá sản hiện tại đã có cách nhìn và xử sự khoan dung hơn đối với những
người bị lâm vào tình trạng phá sản. Nó trái ngược với thời trung cổ, cổ đại và nơi
không có pháp luật ở đó pháp luật phá sản đều mang nặng tính trừng phạt nặng nề.
Khi không trả được nợ không chỉ tài sản của con nợ bị đưa ra thanh lý ngay mà thân
nhân của họ cũng phải chịu những chế tài hình sự nghiêm khắc hoặc chịu sự hành
xử theo “luật rừng”.
Hoạt động kinh doanh là một lĩnh vực đầy khó khăn và rủi ro, mặt khác hậu
quả của phá sản rất lớn. (Thực tế người tự sát,phát điên, bỏ đi biệt tích do phá sản
khá phổ biến trong xã hội ở nhiều quốc gia và ở cả Việt Nam) Người kinh doanh
kém may mắn, thất thế cần phải được bảo vệ. Do đó, pháp luật phá sản không chỉ
bảo vệ lợi ích cho chủ nợ mà còn quan tâm bảo vệ lợi ích của cả con nợ.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên ngày 30 tháng 12 năm 1993 tại kỳ họp thứ
IV Quốc hội khóa IX Việt Nam đã ban hành Luật phá sản doanh nghiệp và có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 07 năm 1994. Đạo luật này ra đời có ý nghĩa hết
sức to lớn trong việc thúc đẩy hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, đồng thời
cũng bảo đảm được trật tự kỷ cương xã hội trong những năm đầu tiên của tiến trình
đổi mới đất nước. Tuy nhiên với sự phát triển của nền kinh tế thị trường qua hơn 10
năm thực hiện, Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã bộc lộ những điểm hạn chế,
bất cập và không còn phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội trong
nước cũng như xu thế mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đòi hỏi pháp
luật phá sản phải tiếp tục được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện để đáp ứng được yêu cầu
trong thời kỳ mới. Ngày 15 tháng 06 năm 2004 tại kỳ họp thứ V, Quốc hội khóa XI

đã thông qua Luật Phá sản năm 2004 thay thế Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993
và có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 10 năm 2004. Luật Phá sản năm 2004 ra
đời có các văn bản dưới luật như Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28 tháng
4 năm 2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn
thi hành một số quy định của Luật Phá sản; Nghị định số 94/2005/NĐ-CP ngày 15
tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về việc hướng dẫn về giải quyết quyền lợi của
người lao động ở doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản; Quyết định số 01/2005/QĐ6

Tài liệu – Ebook: Những nội dung cơ bản của Luật Phá sản 2004, giải pháp thực hiện thời gian tới,
[truy cập ngày 16-09-2014].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 11

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

TANDTC ngày 27 tháng 04 năm 2005 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về
Quy chế làm việc của tổ chức Thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản.
Luật Phá sản năm 2004 thay thế Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 mặc dù đã ra
đời và có hiệu lực gần 10 năm nhưng đã bộc lộ hàng loạt khiếm khuyết và hạn chế,
không phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam, làm cho công tác giải quyết các
việc gặp nhiều khó khăn, tốn nhiều thời gian và gây thiệt hại tài sản của doanh
nghiệp mở thủ tục phá sản. Luật có 95 điều nhưng có đến 57 điều được các tòa án,
cơ quan, tổ chức liên quan kiến nghị sửa đổi, bổ sung.7
Nhận thức được những điều trên, ngày 26 tháng 11 năm 2011, Quốc hội khóa
XIII đã thông qua Nghị quyết số 22/2011/QH13 về Chương trình xây dựng luật,

pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, trong đó có Dự án Luật Phá sản (sửa
đổi). Luật phá sản 2014 chính thức được thông qua tại kỳ họp thứ VII, Quốc hội
khóa XIII với nhiều điểm mới, được đánh giá là mang tính đột phá và có hiệu lực kể
từ ngày 01 tháng 01 năm 2015.
1.2. Sự tác động của phá sản và vai trò của pháp luật về phá sản trong nền
kinh tế thị trường
1.2.1. Sự tác động của phá sản trong nền kinh tế thị trường
Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường nó là hiện tượng
kéo theo những hiệu quả kinh tế xã hội nhất định nó tác động đến nhiều mặt của đời
sống kinh tế xã hội và pháp luật.
1.2.1.1. Về mặt tiêu cực
Phá sản thường gây ra những xáo trộn ảnh hưởng đến việc phát triển sản
xuất ổn định đời sống, đến việc làm và thu nhập của người lao động.
Nhìn nhận một cách tổng quát từ các nước có nền kinh tế phát triển đến các
nước chậm phát triển thì vấn đề nạn thất nghiệp của người lao động là một vấn đề
nổi cộm, rất nhiều quốc gia tìm cách hạn chế khắc phục nó, nhưng nhìn chung vấn
đề này là một vấn đề khó giải quyết. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp
nhưng có lẽ phá sản là nguyên nhân không nhỏ dẫn tới đội quân thất nghiệp ngày
càng kéo dài thêm mãi gây biết bao hậu quả không lường cho xã hội. Đối với bản
thân người lao động, phá sản doanh nghiệp làm cho họ mất việc làm, mất thu nhập,
phá sản ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, đến miếng cơm manh áo của chính bản
thân họ và gia đình họ8. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này nhiều quốc gia đã có

7

Nhà báo & Công luận: Sửa đổi Luật Phá sản doanh nghiệp năm 2004: Trả cho doanh nghiệp quyền được
“chết”?, 2013, [truy cập ngày 18-09-2014].
8
Công ty Luật Minh Khuê: Những kiến thức cần nắm bắt về phá sản, [truy cập ngày 17-09-2014].


GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 12

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

những biện pháp tích cực để hạn chế những ảnh hưởng xấu của phá sản doanh
nghiệp đến đời sống người lao động như bồi thường thiệt hại cho người thất nghiệp,
trả lương bảo hiểm, đào tạo họ để có thể đảm đương một công việc khác.
Bên cạnh những tác động tiêu cực trên ta còn thấy phá sản có nhiều tác
động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế. Mỗi doanh nghiệp khi bị phá sản thì doanh
nghiệp khác là bạn hàng của doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng theo kiểu dây
chuyền người không bán được hàng kẻ không cung cấp được sản phẩm của mình
(nếu doanh nghiệp bị phá sản trước đây mua sản phẩm của mình) hoặc không có
nguyên vật liệu cho sản xuất (nếu doanh nghiệp phá sản bán nguyên vật liệu cho
họ), mặt khác chủ nợ của doanh nghiệp sẽ không đòi được nợ dẫn tới không có vốn
đầu tư vào sản xuất hoặc trang trải các khoản nợ mà họ vay các chủ nợ khác. Đặc
biệt, trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản là những doanh nghiệp lớn thì ảnh
hưởng của nó đến phát triển kinh tế là rất tồi tệ. Xét trường hợp nếu các ngân hàng
hoặc công ty tài chính lớn bị phá sản thì lẽ tất nhiên ảnh hưởng của nó là không thể
lường trước được. Vì trong hệ thống ngân hàng nếu một ngân hàng lớn bị phá sản
đương nhiên những ngân hàng khác bị ảnh hưởng theo dẫn tới tình hình sản xuất
kinh doanh bị ảnh hưởng theo. Có thể nói rằng, một doanh nghiệp bị phá sản sẽ là
nguy cơ tiềm tàng đối với nhiều doanh nghiệp khác.
1.2.1.2. Về mặt tích cực
Chúng ta có thể khẳng định rằng, phá sản không chỉ có những ảnh hưởng
tiêu cực mà nó còn có những ảnh hưởng tích cực đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã

hội.
Xét về mặt kinh tế thì phá sản là một giải pháp hữu hiệu để “cơ cấu lại”
nền kinh tế, có thể ví phá sản như vườn dọn sạch cỏ dại để cây trồng phát triển, phá
sản góp phần hình thành duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng
vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng nghiệt ngã9. Phá sản giữ một vai trò đặc
biệt quan trọng để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, kinh nghiệm
quản lý tồi ra khỏi nền kinh tế, giữ lại những doanh nghiệp mà ở chúng sức cạnh
tranh tốt hơn, làm ăn có lãi hơn. Thực tế đã chứng minh rằng trong nền kinh tế thị
trường chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sự cạnh tranh bao giờ
cũng mang lại kết cục nghiệt ngã nhưng nó lại là quy luật muôn thuở của nền kinh
tế thị trường nơi mà ở đó lợi nhuận là trung tâm cạnh tranh là động lực.
Bên cạnh những ảnh hưởng đã trình bày ở trên phá sản còn tác động đến
nhiều ngành luật như Dân sự, Hình sự... bởi vì khi tiến hành giải quyết yêu cầu

9

Minh Đức: Đừng quên phá sản là cơ chế tích cực, Báo điện tử VnEconomy, 2013, [truy cập ngày 26-08-2014].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 13

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

tuyên bố phá sản nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau, nhiều các quan hệ xã hội
khác nhau mà chúng là đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Chẳng
hạn như khi các doanh nghiệp bị phá sản thường Tòa án xét xử các vụ tranh chấp về

công nợ giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ nếu chúng không thỏa thuận được với
nhau và như vậy phá sản liên quan đến Dân sự, hoặc trong trường hợp doanh nghiệp
mắc nợ cố tình gian lận trong phá sản phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định
khoản 3 Điều 8 Luật phá sản 2004, trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản nếu
phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm phán cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp để xem xét khởi tố về hình sự, ở đây rõ ràng phá sản đã liên
quan đến Hình luật…
Tóm lại, phá sản là một hiện tượng phức tạp nhiều khi nó làm ảnh hưởng
lớn đến nền chính trị. Tuy nhiên, trong từng lĩnh vực riêng phá sản cũng giải quyết
được một số vấn đề lớn về kinh tế và xã hội, đó cũng là một giải pháp hữu ích để
giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng nặng về cả vật chất lẫn tinh thần, tránh tình
trạng gây sức ép cho các con nợ. Trong nền kinh tế thị trường cần phải xem xét phá
sản là hiện tượng lành mạnh tất yếu, nó là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường
và nền kinh tế này chấp nhận nó là một lẽ đương nhiên.
1.2.1. Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường
Pháp luật về phá sản là một chế định không thể thiếu của nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, pháp luật về phá sản không phải nhằm mục đích trừng phạt
doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng phá sản mà là nhằm mục đích bảo vệ cho
doanh nghiệp bị phá sản để có thể tái cơ cấu, tổ chức lại hoạt động kinh doanh và
bảo vệ cho các chủ nợ của chúng. Đồng thời, pháp luật phá sản cũng có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động, tổ chức lại nền kinh tế và
đảm bảo trật tự xã hội.
Thứ nhất, pháp luật về phá sản bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ nợ, là cơ sở
pháp lý để chủ nợ thực hiện việc đòi nợ một cách hợp lý.
Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, chủ nợ là những người đầu tiên
có nguy cơ không đòi được các khoản nợ. Do vậy, pháp luật phá sản ngay từ khi ra
đời, đã đặt ra yêu cầu bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Một doanh nghiệp bị phá sản có
thể kéo theo và ảnh hưởng đến các doanh nghiệp và các chủ thể khác. Bảo vệ lợi ích
của các chủ nợ gắn liền với việc bảo vệ và duy trì ổn định của nền kinh tế, bảo vệ
trật tự kỷ cương của xã hội10. Pháp luật về phá sản quy định các chủ nợ có quyền

chủ động yêu cầu mở thủ tục phá sản, đồng thời cho phép các chủ nợ bảo vệ tối đa

10

Lê Thị Thanh, Giáo trình Pháp luật kinh tế, Nxb Tài Chính, 2008, tr. 207.

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 14

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

lợi ích của mình như: kiểm tra,giám sát hoạt động của doanh nghiệp, tham gia trực
tiếp các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mình, khiếu nại các quyết định
của Tòa án,… nhằm mục đích thu hồi các khoản nợ của các chủ nợ.
Thứ hai, pháp luật về phá sản bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho doanh
nghiệp khi mắc nợ, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc rút khỏi thị trường một cách hợp pháp.11
Trước đây, pháp luật phá sản không đặt vấn đề bảo vệ quyền lợi cho các
thương nhân bị phá sản. Bởi vì người ta cho rằng, thương nhân bị phá sản là kẻ có
tội. Tuy nhiên, pháp luật về phá sản ngày nay không chỉ bảo vệ quyền lợi cho các
chủ nợ mà còn bảo vệ quyền lợi cho chính các doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng
phá sản và phá sản.
Thương nhân nào cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh khóc liệt, những rủi ro
chủ quan lẫn khách quan dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Vì
vậy, pháp luật về phá sản mang lại cho người kinh doanh lâm vào tình trạng phá sản
những sự bảo vệ cần thiết trước và trong quá trình xử lý việc phá sản.

Thật vậy, không phải khi có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản thì doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản phải tiến hành phá sản ngay. Doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản vẫn được pháp luật về phá sản cho cơ hội và tạo điều kiện để khôi
phục lại tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài ra, pháp luật về
phá sản cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được
giảm bớt gánh nặng về tài chính bằng việc ấn định thời điểm ngừng trả nợ, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp nói trên thương lượng với các chủ nợ để xóa nợ, giảm nợ
hay mua nợ…Chỉ khi nào không thể cứu vãn nổi mới bị tuyên bố phá sản và rút
khỏi thương trường một cách có trật tự.
Bên cạnh đó, việc bảo vệ còn thể hiện ở chỗ pháp luật về phá sản buộc các chủ
nợ vào một khuôn khổ chung trong quá trình đòi nợ, nhằm tránh những xung đột từ
phía các chủ nợ đối với doanh nghiệp mắc nợ.
Pháp luật về phá sản còn có các quy định nhằm giúp cho việc thanh lý tài sản
được nhanh chóng, giúp người kinh doanh được giải thoát khỏi các khoản nợ khi đã
giao lại toàn bộ tài sản còn lại để chi trả cho các chủ nợ.
Thứ ba, pháp luật về phá sản bảo vệ lợi ích cho người lao động.
Phá sản không chỉ gây hậu quả xấu cho chủ nợ, cho doanh nghiệp mắc nợ, mà
còn cho cả người làm công trong doanh nghiệp bị phá sản.

11

Cao Nhất Linh, Bài giảng Luật thương mại, Trường Đại học Cần Thơ, 2012, tr. 80.

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 15

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương



Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Khi doanh nghiệp bị phá sản thì những người lao động trong doanh nghiệp đó
sẽ chịu hậu quả trực tiếp như mất việc làm, mất nguồn thu nhập để đảm bảo đời
sống. Do đó, vấn đề việc làm và thu nhập của người lao động cũng là một trong
những vấn đề mà pháp luật về phá sản phải quan tâm để bảo vệ lợi ích cho họ.
Bằng những quy định của mình, pháp luật về phá sản đảm bảo tối đa lợi ích
cho người lao động, hạn chế những thiệt thòi cho người lao động, khi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản và phá sản.
Sự bảo vệ của pháp luật về phá sản đối với người làm công thể hiện ở chỗ:
pháp luật cho phép người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố
phá sản doanh nghiệp hoặc phản đối yêu cầu tuyên bố phá sản. Đồng thời, pháp luật
cũng thừa nhận quyền tham gia quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản,
quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương trước các khoản nợ khác của doanh nghiệp
khi bị tuyên bố phá sản…
Thứ tư, pháp luật về phá sản góp phần bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội.
Khi doanh nghiệp bị phá sản thì chủ nợ cũng muốn lấy được càng nhiều tài
sản còn lại của doanh nghiệp đó càng tốt. Như vậy, nếu không có pháp luật để đưa
vấn đề đòi nợ, phân chia tài sản của doanh nghiệp mắc nợ cho các chủ nợ vào một
trật tự nhất định thì sẽ dẫn đến tình trạng mất trật tự, kỷ cương xã hội. Nếu luật
không đảm bảo sự công bằng và khách quan thì mạnh ai nấy đòi nợ một cách vô tổ
chức. Việc đòi nợ cũng có thể được sử dụng những hình thức bất hợp pháp…
Bằng việc giải quyết công bằng, thỏa đáng mối quan hệ về lợi ích giũa chủ nợ
và doanh nghiệp mắc nợ và giữa các chủ nợ với nhau, pháp luật về phá sản góp
phần giải quyết mâu thuẫn, hạn chế những căng thẳng có thể có giữa họ với nhau.
Nhờ đó, pháp luật về phá sản đảm bảo các kỷ cương về xã hội.12
Thứ năm, pháp luật phá sản góp phần tạo động lực cạnh tranh, cơ cấu lại nền
kinh tế.
Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật phá sản quy định thủ
tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Phục hồi hoạt động kinh doanh được coi là biện

pháp thiết thực và hiệu quả nhằm giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản,
góp phần tạo dựng nền kinh tế ổn định.
Khi việc tổ chức lại hoạt động kinh doanh không khả thi, thì thủ tục thanh lý
doanh nghiệp và đi đến chấm dứt hoạt động kinh doanh là tất yếu. Như vậy, thủ tục
thanh lý nhằm loại bỏ những doanh nghiệp kém hiệu quả góp phần làm trong sạch
môi trường kinh doanh, thông qua đó góp phần cơ cấu lại nền kinh tế.

12

Bùi Ngọc Cường, Tống Ngọc Ba, Giáo trình Luật thương mại tập 2, Nxb Giáo dục, 2008, tr. 122.

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 16

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Tóm lại, pháp luật phá sản có ý nghĩa rất to lớn trong nền kinh tế thị trường
nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung, là cơ sở pháp lý để các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật phá sản áp dụng một cách thống nhất góp phần lập lại kỷ cương
và trật tự xã hội. Luật phá sản đã xử lý kịp thời những doanh nghiệp làm ăn kém
hiệu quả lâm vào tình trạng phá sản. Đồng thời bảo vệ được lợi ích chính của chủ
nợ trong việc đòi nợ, bảo vệ chủ doanh nghiệp mắc nợ (con nợ) bảo vệ lợi ích chính
đáng của người lao động. Với ý nghĩa đó Luật phá sản là công cụ quan trọng của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường góp phần ổn định đời sống kinh tế chính trị
của đất nước.
1.3. Phân loại phá sản

Việc phân loại phá sản một cách khoa học sẽ giúp xác định được phạm vi và mức
độ can thiệp cần thiết bằng pháp luật đối với quan hệ phát sinh trong quá trình giải
quyết vụ việc phá sản.
1.3.1. Căn cứ vào tính chất của sự phá sản
Gồm có phá sản trung thực và phá sản gian trá:
 Phá sản trung thực là phá sản do nguyên nhân có thực gây ra. Các nguyên
nhân có thực có thể là chủ quan cũng có thể là khách quan.
Nguyên nhân chủ quan như sau: sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt
động kinh doanh của người kinh doanh, người kinh doanh không có khả năng thích
ứng với hoạt động của thương trường như không nắm bắt được nhu cầu của thị
trường và thị hiếu khách hàng, kết quả của sự mạo hiểm trong kinh doanh,…
Nguyên nhân khách quan: gặp thiên tai, dịch họa hay gặp phải biến động
khách quan trong đời sống chính trị ảnh hưởng đến kinh doanh.
Trong thực tế, việc thanh toán được các khoản nợ đến hạn, có khi không phải
xuất phát từ kinh doanh thua lỗ mà từ yếu tố bất khả kháng khác, chẳng hạn như:
mất thị trường đột ngột dẫn đến không có nguồn thu, không có nguồn trả; đình công
lớn nhiều lần làm sản xuất bị ngưng trệ, kinh doanh bị tê liệt; thuế tăng cao; đảo lộn
chính trị ở một đất nước mà doanh nghiệp có hợp đồng lớn đã cam kết, như vậy làm
mất thị trường thậm chí mất cả vốn đã giao hàng hóa; cũng có trường hợp phá sản
ngân hàng, công ty bảo hiểm, …nhiều khi do yếu tố tâm lý của công chúng mất
lòng tin nên đổ xô đi rút tiền13.
 Phá sản gian trá là hậu quả của những thủ đoạn, hành vi gian dối, được
sắp đặt từ trước của chủ doanh nghiệp lợi dụng cơ chế phá sản để chiếm đoạt tài sản

13

Dương Kim Thế Nguyên, Giáo trình Luật thương mại Phần 3 – Giải quyết tranh chấp và phá sản doanh nghiệp,
Trường Đại học Cần Thơ, 2004, tr. 81.

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân


Trang 17

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

của chủ nợ. Chẳng hạn các doanh nghiệp gian lận trong việc ký kết hợp đồng,
chuyển giao, tẩu tán tài sản, cố tình báo cáo sai sự thật hoặc đưa ra những thông tin
không trung thực để qua đó tạo ra lý do phá sản. Trong trường hợp này pháp luật
phá sản hầu hết các nước trên thế giới đều coi đây là một hành vi cạnh tranh nguy
hiểm và quy định hình thức xử lý nghiêm khắc về mặt hình sự.
1.3.2. Căn cứ vào đối tượng nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
Gồm phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc:
 Phá sản tự nguyện là doanh nghiệp mắc nợ tự nguyện nộp đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản chính mình khi thấy mình mất khả năng thanh toán nợ đến hạn mà
không thể khắc phục được tình trạng đó.
 Phá sản bắt buộc là trường hợp phá sản xuất phát từ các chủ nợ nộp đơn
yêu cầu tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp mắc nợ, bản thân doanh nghiệp mắc
nợ có thể không muốn bị phá sản.
1.3.3. Căn cứ vào đối tượng bị tuyên bố phá sản
Gồm phá sản cá nhân và phá sản pháp nhân:
 Phá sản cá nhân là phá sản được áp dụng đối với cá nhân và cá nhân này
phải gánh chịu hậu quả của sự phá sản đó.
 Phá sản pháp nhân là sự phá sản của một tổ chức, người phải gánh chịu
hậu quả của sự phá sản này là tổ chức bị tuyên bố phá sản.
Pháp luật phá sản của nhiều nước trên thế giới không có sự phân biệt này. Bất
kể cá nhân hay pháp nhân, thương gia hoặc cá nhân kinh doanh khi lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì đều thuộc đối tượng điều chỉnh của

Luật Phá sản. Tuy nhiên, cũng có một số nước trên thế giới chỉ áp dụng chế độ phá
sản đối với các chủ thể kinh doanh tồn tại dưới hình thức một doanh nghiệp, thậm
chí như Luật Phá sản Trung Quốc trước đây chỉ quy định Luật Phá sản áp dụng đối
với doanh nghiệp nhà nước14.
Luật Phá sản của Việt Nam chỉ áp dụng cho doanh nghiệp, hợp tác xã còn khái
niệm về phá sản cá nhân không xuất hiện, hoặc tồn tại dưới quan điểm pháp lý dân
sự, được gọi là vỡ nợ.
1.4. Phân biệt phá sản và giải thể
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì có hai trường hợp doanh
nghiệp chấm dứt sự tồn tại đó là doanh nghiệp giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản và
trong thực tế đã có nhiều trường hợp nhầm lẫn giữa phá sản và giải thể doanh

14

Dương Kim Thế Nguyên, Giáo trình Luật thương mại Phần 3 – Giải quyết tranh chấp và phá sản doanh nghiệp,
Trường Đại học Cần Thơ, 2004, tr. 82.

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 18

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

nghiệp. Vì vậy khi xem xét về phá sản cũng cần phân biệt sự giống và khác nhau
giữa phá sản và giải thể.
1.4.1. Sự giống nhau giữa phá sản và giải thể
Phá sản và giải thể về cơ bản đều là hai phương thức làm cho doanh nghiệp

ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc phá sản và giải thể đều dẫn đến doanh nghiêp bị thu hồi con dấu và giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, đồng thời doanh nghiệp còn phải thực hiện các
nghĩa vụ tài sản.
1.4.2. Sự khác nhau giữa phá sản và giải thể
Nếu nhìn vào hiện tượng thì giữa phá sản và giải thể có nhiều điểm giống
nhau. Tuy nhiên xét về bản chất, phá sản và giải thể lại rất khác nhau.
Thứ nhất, doanh nghiệp sẽ bị giải thể nếu thuộc một trong các trường hợp
sau đây: kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có
quyết định gia hạn; hoặc là công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo
quy định trong thời hạn sáu tháng liên tục; hoặc là bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh; hoặc là theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp
tư nhân; của tất cả các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của Hội đồng
thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của Đại hội
đồng cổ đông đối với công ty cổ phần15. Bên cạnh đó, thủ tục phá sản doanh nghiệp
chỉ được tiến hành theo quyết định của Tòa án khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản với dấu hiệu đặc trưng nhất là không có khả năng thanh toán được các
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu.
Thứ hai, nếu như thủ tục giải thể là một thủ tục hành chính là giải pháp
mang tính tổ chức, người chủ doanh nghiệp tự mình quyết định hoặc do cơ quan có
thẩm quyền cho phép thành lập quyết định theo thủ tục của luật doanh nghiệp thì
thủ tục phá sản là một thủ tục tư pháp là hoạt động do một cơ quan nhà nước duy
nhất là Tòa án có thẩm quyền tiến hành theo thủ tục của luật phá sản.
Trong trường hợp doanh nghiệp giải thể thì chỉ đơn thuần là giải quyết dứt
điểm tình trạng công nợ, thanh lý tài sản chia cho các cổ đông. Còn doanh nghiệp
phá sản thì phải chuyển quyền điều hành cho một ủy ban tạm thời quản lý để giải
quyết tình trạng công nợ trên cơ sở phân chia toàn bộ tài sản của doanh nghiệp sau
khi thanh lý một cách hợp lý cho tất cả các chủ nợ liên quan trong giới hạn của số
tài sản đó.


15

Khoản 1 Điều 157 Luật doanh nghiệp 2005.

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 19

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Thứ ba, nếu như doanh nghiệp giải thể sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ
tài sản vẫn có thể chuyển sang một hình thức kinh doanh khác nếu có thể và giám
đốc doanh nghiệp có thể đứng ra thành lập, điều hành công ty mới thì doanh nghiêp
sau khi phá sản, chủ doanh doanh nghiệp hầu như không có quyền gì liên quan đến
tài sản của doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp phá sản không được làm quản lý
doanh nghiệp khác từ một đến ba năm.
Thứ tư, khi doanh nghiệp muốn xin giải thể thì phải đảm bảo khả năng thanh
toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác. Còn phá sản đối với doanh nghiệp
thì không cần phải đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác cho các tổ chức, cá nhân có liên quan vẫn có thể bị phá sản đồng thời loại hình
doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn được miễn trừ trách nhiệm đối với chủ nợ
chưa được thanh toán nợ.
Tóm lại, thông qua việc so sánh trên, chúng ta có thể thấy rằng phá sản và giải
thể là hai hiện tượng hoàn toàn khác biệt với nhau. Nếu thủ tục giải thể thực hiện
với sự chủ động nhiều hơn của doanh nghiệp thì thủ tục phá sản doanh nghiệp phải
chịu sự điều chỉnh, giám sát của Tòa án.
1.5. Các cơ quan tham gia quá trình giải quyết phá sản

1.5.1. Vai trò trung tâm của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết phá sản
Pháp luật của hầu hết các nước đều trao cho Tòa án có thẩm quyền tuyên bố
phá sản, song vai trò cụ thể của cơ quan này trong quá trình giải quyết việc phá sản
ở các nước khác nhau là không giống nhau.
Bởi vì phá sản là hiện tượng gây hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt và cho
nhiều người, do đó cơ quan nào có quyền tuyên bố phá sản là vấn đề được pháp luật
nhiều nước quan tâm.
Theo quy định của Điều 7 Luật Phá sản 2004, thẩm quyền giải quyết phá sản
được phân cấp cho Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh căn cứ
vào việc cơ quan cấp nào (tỉnh hay huyện) đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh cho doanh nghiệp, hợp tác xã cụ thể đó.
Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết phá sản đối với các hợp tác xã đăng ký
kinh doanh tại cơ quan cấp huyện đó.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh cụ thể là Tòa kinh tế giải quyết phá sản đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh
cấp tỉnh đó.
Tùy vào tính chất của việc phá sản, quy mô của hợp tác xã, Tòa án nhân dân
tỉnh sẽ lấy lên để tiến hành thủ tục giải quyết phá sản đối với hợp tác xã thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện. Việc giải quyết phá sản tại Tòa án cấp huyện
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 20

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

do một Thẩm phán phụ trách, tại Tòa án cấp tỉnh do một hoặc ba Thẩm phán phụ
trách. Do đó, thực tế đa phần Tòa án cấp tỉnh giải quyết thủ tục phá sản đối với tất

cả doanh nghiệp,liên hiệp hợp tác xã thành lập trên địa bàn, còn Tòa án cấp huyện
chỉ giải quyết thủ tục phá sản đối với hợp tác xã. Điều này sẽ dẫn đến Tòa án cấp
tỉnh quá tải, thời gian giải quyết kéo dài, nhất là ở những địa phương có nhiều
doanh nghiệp như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh16. Việc căn cứ vào thẩm
quyền giải quyết của Tòa án là hoàn toàn không phù hợp với các nguyên tắc pháp
lý.
Khắc phục những khiếm khuyết đó, phù hợp với quy định của Luật Tố tụng
dân sự 2004, Luật Phá sản 2014 quy định thẩm quyền của Tòa án theo cấp, theo
lãnh thổ khác với quy định tại luật hiện hành. Luật Phá sản 2014 quy định theo
hướng loại trừ, tức là trừ những vụ việc phá sản có tình tiết đặc biệt (có yếu tố nước
ngoài, có địa điểm ở nhiều quận, huyện khác nhau hoặc Tòa án cấp tỉnh lấy lên giải
quyết) thì còn lại Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính tại quận, huyện, thị xã ,thành phố trực thuộc tỉnh
đó.
Để đảm bảo khách quan, Luật Phá sản 2014 còn bổ sung về trường hợp phải từ
chối hoặc thay đổi Thẩm phán trong quá trình giải quyết phá sản. Đồng thời, Luật
cũng bỏ quy định “Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối
với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đó”. Vì theo quy định hiện hành, tất cả
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng và hoạt động trong
khuôn khổ Luật doanh nghiệp 2005, Tòa án cấp huyện đương nhiên có thẩm quyền
giải quyết vụ việc phá sản của doanh nghiệp này, trừ khi nó có tài sản ở nước ngoài
hoặc người tham gia thủ tục phá sản ở nước ngoài.
Có thể thấy, phá sản về bản chất là một hiện tượng kinh tế, song do tính chất
phức tạp của nó mà Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới đều giao
thẩm quyền giải quyết cho hệ thống Tòa án, Tòa án là nhân vật trung tâm, giữ vị trí
quyết định đối với việc giải quyết một vụ phá sản, vì trong quá trình giải quyết một
vụ phá sản thường liên quan đến lợi ích của các bên khác nhau mà Tòa án là cơ
quan độc lập, có tính chất khách quan, nguyên tắc "Tòa án xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật" đã trở thành nguyên tắc hiến định.


16

Ngọc Diệp, dự thảo luật online: Báo cáo Thẩm tra dự án Luật Phá sản (sửa đổi), 2013,
/>&TaiLieuID=1283, [truy cập ngày 09-09-2014].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 21

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Tham gia vào quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, Tòa án có
vị trí trung tâm, có vai trò chủ đạo và là người trực tiếp giải quyết loại công việc
này của xã hội. Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản được mở đầu bằng việc
Tòa án nhận, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; Toà án quyết định việc mở hay
không mở thủ tục phá sản. Vai trò của Tòa án không chỉ dừng lại ở việc quyết định
những vấn đề thuộc về tố tụng phá sản mà nó còn can thiệp vào cả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tòa án giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp trong quá trình giải quyết phá sản, quyết định việc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo đảm tài sản của doanh nghiệp.
Khi tiến hành giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Tòa án cùng với các bên phải phân tích, đánh giá khả năng phục hồi của doanh
nghiệp để trên cơ sở đó mà ra quyết định áp dụng thủ tục phục hồi hay thủ tục thanh
lý đối với doanh nghiệp. Thủ tục phục hồi chỉ được tiến hành khi có yêu cầu của
chủ nợ hoặc doanh nghiệp mắc nợ. Đối với những doanh nghiệp mắc nợ mà rõ ràng
là không thể phục hồi được khả năng thanh toán thì pháp luật cho phép Tòa án ra

quyết định tuyên bố phá sản và tiến hành ngay thủ tục thanh lý doanh nghiệp mà
không cần làm thêm bất cứ một thủ tục pháp lý nào khác.
Luật Phá sản 2004 đã đi theo hướng quy định nhiều thủ tục khác nhau trong
thủ tục phá sản bao gồm: thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã; thủ tục thanh lý tài sản; thủ tục tuyên bố phá sản. Sau khi quyết định mở
thủ tục phá sản, căn cứ vào tình trạng thực tế của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản, Tòa án sẽ quyết định áp dụng thủ tục nào cho phù hợp, đối với
những doanh nghiệp, hợp tác xã không còn khả năng phục hồi, Tòa án sẽ áp dụng
ngay thủ tục thanh lý tài sản, nếu xác định tài sản còn lại của doanh nghiệp không
đủ để thanh toán chi phí phá sản thì Tòa án có thể tuyên bố phá sản ngay. Trong quá
trình áp dụng thủ tục phục hồi, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện không đúng,
không đầy đủ hoặc không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
thì Tòa án cũng có thể quyết định chuyển từ thủ tục phục hồi sang áp dụng thủ tục
thanh lý tài sản.
Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, sau gần mười năm thi hành Luật
Phá sản 2004, các cấp Tòa án nhân dân đã thụ lý tổng số 336 đơn yêu cầu tuyên bố
phá sản, ra 236 quyết định mở thủ tục phá sản trong đó ra 83 quyết định tuyên bố
phá sản còn 153 vụ việc chưa ra quyết định tuyên bố phá sản. Con số trên cho thấy
doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại bằng việc áp dụng Luật Phá sản để tuyên bố phá

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 22

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

sản quá ít so với thực trạng hàng ngàn doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản,

mất khả năng thanh toán, không thể tồn tại như hiện nay17. Nguyên nhân cơ bản là
do Luật Phá sản 2004 quy định thủ tục tuyên bố phá sản theo “quy trình ngược” tức
là xử lý tài sản nếu giữa doanh nghiệp và chủ nợ không thỏa thuận được phương án
phục hồi doanh nghiệp.
Khắc phục tình trạng này, Luật Phá sản 2014 đã đưa quy trình tuyên bố phá
sản trở về “chiều thuận” chỉ bao gồm hai thủ tục chính là thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh và thủ tục tuyên bố phá sản18. Thanh lý tài sản được thực hiện sau
khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản chứ không còn là một thủ tục
riêng biệt được tiến hành trước khi ra quyết định tuyên bố doah nghiệp phá sản như
trước nữa. Đối với doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, không nhất thiết phải
thực hiện lần lượt hai thủ tục này để được phá sản. Thủ tục mở thủ tục phá sản là
bước đệm cho việc mở các thủ tục này.
Quy định như trên tạo điều kiện vừa chấm dứt nhanh chóng sự tồn tại của
những doanh nghiệp không còn đủ khả năng phục hồi, giảm thiểu đến mức tối đa
cho việc tiến hành thủ tục phá sản, bảo vệ quyền lời của các chủ nợ.
1.5.2. Sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết phá
sản
Với tư cách là cơ quan giám sát, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tất cả các giai đoạn của thủ tục giải quyết phá sản, đối với các
chủ thể tiến hành giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã nhằm đảm bảo
thực hiện đúng đắn Luật Phá sản, đạt được những mục tiêu mà luật đã đề ra.
Điều 12 Luật Phá sản quy định: “Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản theo quy định của Luật này
và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân”.
Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị đối với quyết
định mở thủ tục thanh lý tài sản và quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản. Nhưng Luật không quy định Tổ Thẩm phán hoặc Tổ quản lý, thanh lý tài
sản chuyển hồ sơ việc phá sản cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nghiên cứu,
xác định tính hợp pháp về các quy định của Tổ Thẩm phán, để đảm bảo cho việc
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân là đúng pháp luật.


17

Báo cáo số 04/BC-TANDTC ngày 09 tháng 09 năm 2013 của Toà án nhân dân tối cao về việc tổng kết thi hành
Luật Phá sản năm 2004.
18
Bùi Đức Giang: Thủ tục phá sản theo quy định mới, Thời bào Sài gòn Online, 2014,
[truy cập ngày 09-09-2014].

GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 23

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương


Vai trò của chủ sở hữu doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

Nhận thấy Luật Phá sản 2004 quy định về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong quá trình giải quyết phá sản còn mờ nhạt, đặc biệt là chưa quy định về quyền
kiến nghị. Luật Phá sản 2014 tiếp tục khẳng định việc tuân theo pháp luật trong quá
trình tiến hành thủ tục phá sản của Viện kiểm sát nhân dân là một nguyên tắc cơ
bản. Cụ thể tại Điều 21 quy định như sau:
“1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình
giải quyết phá sản, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy
định của Luật này.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên hợp xem xét kiến nghị, kháng
nghị của Viện kiểm sát nhân dân; kiểm sát các quyết định giải quyết phá sản của
Tòa án nhân dân.”
Tuy nhiên so với Luật Phá sản 2004, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong

quá trình tiến hành thủ tục phá sản được nhắc tới nhiều hơn, đảm bảo thực thi nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, giúp cơ quan này làm tốt chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật và phù hợp với các quy định của pháp luật liên
quan. Theo đó, Luật Phá sản 2014 đã có những bổ sung, sửa đổi về sự giám sat của
Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết phá sản, cụ thể là:
Thứ nhất, ngoài quyền kháng nghị tuyên tố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá
sản, Luật Phá sản 2014 còn quy định bổ sung thêm Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp có quyền kháng nghị quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản.
Thứ hai, về việc trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Luật Phá sản 2014
quy định Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án
nhân dân đã quyết định trả lại đơn yêu cầu trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ
ngày nhận được quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của Tòa án nhân
dân. Ngoài ra luật còn quy định bổ sung thêm về trường hợp không đồng ý với Nghị
quyết của Hội nghị chủ nợ, trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được
Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kiến
nghị với Chánh án Tòa án nhân dân đang giải quyết phá sản xem xét lại Nghị quyết
của Hội nghị chủ nợ.
Thứ ba, nhằm góp phần giúp Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát các quyết định
giải quyết phá sản của Tòa án nhân dân, Luật Phá sản 2014 quy định Tòa án nhân
đan gửi Nghị quyết Hội nghị chủ nợ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong
thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày tổ chức Hội nghị chủ nợ. Đồng thời về việc
giải quyết đơn đề nghị xem xét lại, kháng nghị thì sau khi nhận được hồ sơ vụ việc
phá sản kèm theo đơn đề nghị xem xét lại, kháng nghị, Tòa án nhân dân cấp trên
trực tiếp chỉ định Tổ Thẩm phán gồm ba Thẩm phán xem xét, giải quyết đề nghị
GVHD: Ths. Nguyễn Mai Hân

Trang 24

SVTH: Châu Thị Tuyết Phương



×