TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
*******
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
(Niên khoá 2011 – 2015)
ĐỀ TÀI
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
HUỲNH THỊ TRÚC GIANG
BỘ MÔN TƢ PHÁP
NGUYỄN THỊ NHẬT LAN
MSSV: 5115897
Lớp: Thƣơng mại 2 – K37
Cần Thơ, tháng 11 - 2014
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………...............
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu, quý thầy cô khoa Luật
trường Đại học Cần Thơ đã luôn nhiệt tình giảng dạy và truyền đạt những kiến thức bổ
ích cũng như tạo điều kiện để tác giả có thể hoàn thành luận văn này.
Và hơn hết, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến cô Huỳnh Thị Trúc Giang đã luôn tận
tâm chỉ dẫn, góp ý và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn bên cạnh động viên tác giả.
Do thời gian hữu hạn và kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế,
nên kết quả đạt được không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả hy vọng nhận được sự
lượng thứ, góp ý của quý thầy cô để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Cuối lời xin kính chúc quý thầy cô thật nhiều sức khỏe và hoàn thành tốt công
tác.
Cần Thơ, ngày 31 tháng 10 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Nhật Lan
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON ............. 3
1.1 Một số khái niệm cơ bản .......................................................................................... 3
1.1.1 Khái niệm xác định cha, mẹ cho con ................................................................... 3
1.1.2 Khái niệm con trong giá thú ................................................................................. 5
1.1.3 Khái niệm con ngoài giá thú ................................................................................ 5
1.1.4 Khái niệm sinh con theo phương pháp khoa học ................................................. 6
1.1.5 Khái niệm mang thai hộ ....................................................................................... 7
1.2 Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con .................................................................. 8
1.2.1 Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con về mặt huyết thống ................................ 9
1.2.2 Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con về mặt pháp lý……… ......................... 10
1.2.2.1 Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con về mặt pháp lý dựa vào thời kỳ
hôn nhân ................................................................................................................... 10
1.2.2.2 Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con về mặt pháp lý dựa vào sự thừa
nhận của cha, mẹ...................................................................................................... 11
1.3 Ý nghĩa của việc xác định cha, mẹ cho con .......................................................... 11
1.4 Lịch sử phát triển về xác định cha, mẹ cho con trong pháp luật Việt Nam ...... 13
1.4.1 Xác định cha, mẹ cho con trong pháp luật Việt Nam trước năm 1945 .............. 13
1.4.2 Xác định cha, mẹ cho con trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay ….15
1.4.2.1 Xác định cha, mẹ cho con theo Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 ........ 15
1.4.2.2 Xác định cha, mẹ cho con theo Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 ........ 16
1.4.2.3 Xác định cha, mẹ cho con theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ........ 17
1.4.2.4 Xác định cha, mẹ cho con theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.. ...... 18
CHƢƠNG 2. QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON ............. 20
2.1 Xác định cha, mẹ cho con trong giá thú ............................................................... 20
2.1.1 Cơ sở pháp lý về xác định cha, mẹ cho con trong giá thú ................................. 20
2.1.2 Nguyên tắc suy đoán pháp lý về xác định cha, mẹ cho con trong giá thú ....... 21
2.1.3 Những trường hợp con được xác định là con trong giá thú ............................... 23
2.2 Xác định cha, mẹ cho con ngoài giá thú ............................................................... 25
2.2.1 Cơ sở pháp lý về xác định cha, mẹ cho con ngoài giá thú ........ ………………25
2.2.2 Những trường hợp con ngoài giá thú được xác định là con chung .................... 27
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
2.3 Xác định cha, mẹ cho con theo phƣơng pháp khoa học ...................................... 28
2.3.1 Cơ sở pháp lý về xác định cha, mẹ cho con theo phương pháp khoa học ......... 28
2.3.2 Nguyên tắc xác định cha, mẹ cho con theo phương pháp khoa học .................. 29
2.4 Xác định cha, mẹ cho con trong trƣờng hợp mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo ........................................................................................................................ 31
2.4.1 Cơ sở pháp lý về việc xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo ...................................................................................... 31
2.4.2 Nguyên tắc xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo ...................................................................................................... 31
2.5 Trình tự, thủ tục xác định cha, mẹ cho con ......................................................... 33
2.5.1 Xác định cha, mẹ cho con bằng thủ tục hành chính ........................................... 34
2.5.2 Xác định cha, mẹ cho con bằng thủ tục tư pháp ................................................ 37
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON ................................................................................. 40
3.1 Thực trạng và giải pháp về xác định cha, mẹ cho con ........................................ 40
3.1.1 Thực trạng và giải pháp về xác định cha, mẹ cho con theo thủ tục hành
chính. 40
3.1.2 Thực trạng và giải pháp về xác định cha, mẹ cho con theo thủ tục tư pháp ...... 44
3.2 Những bất cập trong quy định của pháp luật và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về xác định cha, mẹ cho con ................................................................................. 47
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ ngàn xưa đến nay, quan hệ giữa cha, mẹ, con là những mối quan hệ cao cả và
thiêng liêng, luôn được tôn trọng và bảo vệ. Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển
thì mối quan hệ ấy càng được chú trọng. Hơn nữa, quan hệ cha, mẹ, con còn là mối quan
hệ cơ bản trong gia đình, mà mỗi thành viên là công dân của xã hội. Do đó, việc xác
định cha, mẹ, con không chỉ có ý nghĩa ổn định các mối quan hệ trong gia đình, mà còn
góp phần vào việc ổn định xã hội. Bên cạnh đó, quyền được làm cha, làm mẹ là những
quyền thiêng liêng, vì vậy việc xác định cha, mẹ, con là thật sự cần thiết, giúp các chủ
thể tìm lại nguồn gốc và huyết thống của mình. Đồng thời, việc xác định quan hệ cha,
mẹ, con còn liên quan đến những mối quan hệ pháp luật khác như hôn nhân và gia đình,
dân sự…
Trong những năm gần đây, đất nước ngày càng phát triển và trên đà hội nhập thì
các mối quan hệ trong xã hội cũng chịu nhiều ảnh hưởng, trong đó có các mối quan hệ
về hôn nhân và gia đình. Quan niệm truyền thống của nước ta về gia đình, xã hội cũng
dần thay đổi. Bên cạnh việc tiếp nhận những văn hóa tốt đẹp của các nước, thì đồng thời
cũng xuất hiện những tiêu cực trong xã hội. Ngày nay, nam nữ yêu đương và có quan hệ
sinh lý trước khi đăng ký kết hôn hay chung sống với nhau như vợ chồng ngày càng
nhiều, dẫn đến việc mang thai ngoài ý muốn và sau khi sinh thì chối bỏ, do đó đứa trẻ
không biết cha, mẹ của mình là ai… Đặc biệt, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ
thuật thì vấn đề sinh con theo phương pháp khoa học và mang thai hộ đã làm thay đổi
quan niệm truyền thống về mặt huyết thống trong mối quan hệ cha, mẹ, con trước đây.
Đây là những vấn đề hết sức phức tạp và việc xác định cha, mẹ cho con trong những
trường hợp này cũng không đơn giản, đòi hỏi pháp luật phải có những quy định riêng
biệt. Hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình hiện nay cũng đã có những quy định điều
chỉnh về vấn đề này, tuy nhiên trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập, thiếu sót trong quá
trình áp dụng.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này nên tác giả chọn đề tài “Hoàn
thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con” với mong muốn tìm hiểu về vấn đề này,
qua đó đề ra những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật về xác định cha,
mẹ cho con” là nhằm tìm hiểu, phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật và thực
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
1
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
trạng về việc xác định cha, mẹ cho con. Qua đó, có sự so sánh và phát hiện những bất
cập trong quy định của pháp luật cũng như những vướng mắc trong quá trình giải quyết
các vụ việc liên quan đến vấn đề xác định cha, mẹ cho con. Trên cơ sở này, nêu lên
những nguyên nhân của các vướng mắc đó, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài “Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho
con” là tập trung tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của pháp luật về vấn đề xác định
cha, mẹ cho con trong nước, trên phương diện lý luận và thực tiễn. Trong khuôn khổ của
luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu từ các tài liệu như: Luật hôn nhân và gia đình năm
1959, 1986, 2000, 2014, nghị định, nghị quyết, thông tư cùng một số nguồn tài liệu khác
có liên đến vấn đề xác định cha, mẹ cho con.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài “Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con” vận dụng phương
pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng
một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp so sánh, phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp… Bên cạnh đó, đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở từ
những quy định của pháp luật đối chiếu với thực tiễn áp dụng, cùng với việc tham khảo
những công trình nghiên cứu, sách báo, tạp chí… có liên quan nhằm hiểu rõ các quy
định của pháp luật và hoàn thành đề tài tốt hơn.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
-
Chương 1: Khái quát chung về xác định cha, mẹ cho con.
Chương 2: Quy chế pháp lý về xác định cha, mẹ cho con.
Chương 3: Thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho
con.
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
2
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm xác định cha, mẹ cho con
“Xác định cha, mẹ cho con” là một trong những chế định quan trọng trong Luật
hôn nhân và gia đình, nhằm góp phần vào việc tìm ra nguồn gốc cho những trẻ em mồ
côi, bị bỏ rơi, không được cha, mẹ thừa nhận… và đồng thời cũng là căn cứ giúp cha,
mẹ xác định mối quan hệ huyết thống với những người con của mình. Nhưng trong luật
hiện hành lại không định nghĩa cụ thể khái niệm xác định cha, mẹ cho con là như thế
nào. Tuy nhiên, có thể hiểu “xác định cha, mẹ cho con” dưới nhiều góc độ khác nhau:
- Dưới góc độ sinh học – xã hội: Có thể thấy quan hệ giữa cha, mẹ, con là những
mối quan hệ có liên quan mật thiết với nhau và không thể tách rời. Trong xã hội, theo
quan niệm truyền thống và cả về mặt sinh học thì giữa những người là cha, mẹ, con với
nhau sẽ có cùng huyết thống thông qua sự kiện sinh đẻ của người phụ nữ. Và cha, mẹ
phải là những người trực tiếp sinh ra đứa trẻ và ngược lại, con phải mang huyết thống và
được sinh ra từ chính cha, mẹ của mình. Như vậy nếu xét dưới góc độ này, việc xác định
cha, mẹ cho con không phụ thuộc vào hôn nhân hợp pháp của cha mẹ, hay nói cách khác
mối quan hệ cha, mẹ, con được ràng buộc tự nhiên mà không cần phải được xác định
theo những quy định của pháp luật. Như vậy dưới góc độ sinh học – xã hội, “xác định
cha, mẹ cho con” là việc nghiên cứu, tìm kiếm, nhận diện mối quan hệ huyết thống giữa
hai thế hệ kế tiếp nhau thông qua sự kiện sinh đẻ 1.
Tuy nhiên ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì yếu tố
“huyết thống” không còn được đảm bảo nữa trong trường hợp sinh con theo phương
pháp khoa học hoặc mang thai hộ. Do đó, mối quan hệ giữa những người được xác định
là cha, mẹ, con có thể có hoặc không cùng huyết thống với nhau và người con trong mối
quan hệ này có thể không được sinh ra từ những người được xác định là cha, mẹ của
mình.
- Dưới góc độ khoa học – pháp lý: Mối quan hệ cha, mẹ, con không chỉ đơn thuần
là những mối quan hệ tình cảm liên quan nội tại trong phạm vi gia đình, mà còn là một
quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Do đó, việc xác định cha, mẹ cho con dưới
1
Nguyễn Thị Lan, Luận án tiến sĩ Luật học “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”,
Đại học Luật Hà Nội, năm 2008, tr. 10
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
3
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
góc độ pháp lý cũng chịu ảnh hưởng bởi những quy tắc đặc thù và được nghiên cứu dưới
nhiều tư cách khác nhau.
Theo quan điểm của TS. Nguyễn Thị Lan, Đại học Luật Hà Nội thì “xác định cha,
mẹ cho con” dưới góc độ pháp lý được nghiên cứu:
Với tư cách là một sự kiện pháp lý: “Xác định cha, mẹ, con là căn cứ pháp lý làm
phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ và con về mặt huyết thống” 2.
Có thể thấy quan hệ tự nhiên giữa cha, mẹ, con được hình thành thông qua sự
kiện sinh đẻ từ giai đoạn thụ thai, mang thai và sinh con – kết quả của mối quan hệ sinh
lý giữa người phụ nữ với một người đàn ông. Trong trường hợp cần xác định cha, mẹ,
con về mặt pháp lý thì các yếu tố về mặt sinh học (có quan hệ xác thịt, có sự thành thai),
là những gì đã diễn ra trước đó, không thể đem ra làm căn cứ chứng minh vào bất kỳ
thời điểm nào khi có tranh chấp. Hơn nữa, sự kiện sinh đẻ chỉ là một trong những căn cứ
ghi nhận tư cách cha, mẹ, con của các chủ thể, không đủ cơ sở xác định cha, mẹ, con.
Do đó, sự kiện sinh đẻ cần phải được “pháp lý hóa” như thông qua việc thực hiện đăng
ký khai sinh cho trẻ… để làm căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con.
Với tư cách là một chế định pháp lý: “Xác định cha, mẹ, con là tổng hợp các quy
phạm pháp luật do nhà nước ban hành, quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể,
căn cứ và thủ tục pháp lý nhằm nhận diện một người cha, một người mẹ, một người con
có mối quan hệ huyết thống trực hệ” 3.
Xác định cha, mẹ, con được các quy phạm pháp luật điều chỉnh, làm căn cứ phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Theo đó, xác định cha, mẹ, con là một quyền
nhân thân, các chủ thể được bảo đảm thực hiện quyền xác định cha, mẹ, con cũng như
quyền được các chủ thể khác tôn trọng và được pháp luật bảo hộ, tạo điều kiện xác định
cha, mẹ, con. Tuy nhiên, các chủ thể trong việc xác định cha, mẹ, con phải tuân theo
đúng trình tự, thủ tục của pháp luật mà không được tự ý thỏa thuận làm thay đổi quyền
và nghĩa vụ do quy định của pháp luật, cũng như làm thay đổi mối quan hệ cha, mẹ, con.
Có thể thấy, xét dưới nhiều góc độ khác nhau thì xác định cha, mẹ, con được hiểu
theo nhiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, dù theo cách hiểu nào thì mục đích sau cùng
của việc xác định cha, mẹ, con cũng là nhằm nhận diện đúng tư cách của các chủ thể
2
Nguyễn Thị Lan, Luận án tiến sĩ Luật học “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt
Nam”, Đại học Luật Hà Nội, năm 2008, tr. 10
3
Nguyễn Thị Lan, Luận án tiến sĩ Luật học “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt Nam”,
Đại học Luật Hà Nội, năm 2008, tr. 11
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
4
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
trong mối quan hệ cha, mẹ, con. Từ đó làm căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của các
bên.
1.1.2 Khái niệm con trong giá thú
Trong hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình từ trước đến nay không đưa ra
định nghĩa về khái niệm “con trong giá thú” mặc dù đã có sử dụng đến thuật ngữ này.
Trước hết, theo Từ điển Luật học thì “giá thú” là văn bản có giá trị pháp lý thừa nhận
việc lấy vợ, lấy chồng hợp pháp của những người chưa có vợ hoặc chưa có chồng 4.
Như vậy có thể hiểu, con trong giá thú là con được sinh ra từ mối quan hệ vợ chồng hợp
pháp. Nói một cách cụ thể thì “con trong giá thú” là con mà cha, mẹ có quan hệ hôn
nhân hợp pháp, tức là việc kết hôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận
(trước đây dưới chế độ cũ gọi là con chính thức) 5. Theo quy định của pháp luật hiện
hành có giải thích thì “hôn nhân” là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn 6. Và
“kết hôn” là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn 7. Từ những căn cứ này, có thể thấy hai bên nam nữ
có hôn nhân hợp pháp khi đã đăng ký kết hôn và đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn
theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, theo Điểm a Điều 3 Nghị quyết 35/2000/NQ - QH10 ngày 9 tháng 6
năm 2000 về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình, thì trường hợp quan hệ vợ chồng
được xác lập trước ngày 3/01/1987 vẫn được pháp luật thừa nhận là hợp pháp. Do đó,
con được sinh ra trong trường hợp này cũng được xem là con trong giá thú.
Tóm lại, “con trong giá thú” là con được sinh ra từ mối quan hệ vợ, chồng có
đăng ký kết hôn hoặc mối quan hệ đó được pháp luật thừa nhận.
1.1.3 Khái niệm con ngoài giá thú
Tương tự như khái niệm “con trong giá thú”, tuy pháp luật hôn nhân và gia đình
có sử dụng thuật ngữ “con ngoài giá thú” nhưng lại không đưa ra định nghĩa về khái
niệm này. Theo từ điển Luật học thì “con ngoài giá thú” là con mà cha mẹ không phải vợ
chồng, hoặc ăn ở với nhau như vợ chồng, nhưng việc lấy nhau chưa được Uỷ ban nhân
dân xã, phường, Thị trấn đăng ký vào sổ kết hôn 8. Như vậy có thể hiểu, con ngoài giá
Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa, năm 1999, tr. 169
Nguyễn Văn Cừ, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
năm 2006, tr. 156
6
Khoản 6 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
7
Khoản 2 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
8
Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách khoa, năm 1999, tr. 102
4
5
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
5
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
thú là con được sinh ra từ mối quan hệ giữa cha, mẹ không tồn tại hôn nhân hợp pháp,
tức là trước pháp luật, họ không được công nhận là vợ chồng.
Có nhiều trường hợp con sinh ra được xác định là con ngoài giá thú từ mối quan
hệ mà cha, mẹ không phải là vợ chồng trước pháp luật; hoặc tuy cha, mẹ ăn ở, chung
sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn, bao gồm:
- Người mẹ không có chồng mà sinh con.
- Người mẹ có chồng, nhưng ngoại tình, có con với người khác.
- Hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, trong thời gian sống chung,
giữa hai người có con chung với nhau, nhưng cha mẹ không có đăng ký kết hôn (kể cả
trường hợp hai vợ chồng đã ly hôn, sau đó lại sống chung với nhau nhưng không đăng
ký kết hôn lại. Nếu người mẹ sinh con trong thời kỳ này thì con đó là con chung ngoài
giá thú) 9.
Như vậy, có thể thấy việc con sinh ra được xác định có phải là con ngoài giá thú
hay không, điều này phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của cha, mẹ trước pháp luật.
1.1.4 Khái niệm sinh con theo phương pháp khoa học
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội thì nhu cầu của con
người về mọi mặt trong đời sống cũng ngày càng nâng cao, kể cả việc sinh con cũng có
thể được đáp ứng theo mong muốn. Trên thực tế, ngày càng có nhiều cặp vợ chồng vô
sinh do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc họ không thể có con. Với sự tiến bộ
của nền y học và khoa học kỹ thuật thì việc sinh con theo phương khoa học có thể xem
là một thành tựu vượt bậc, từ đó có thể đáp ứng được nguyện vọng được làm cha, làm
mẹ cho những cặp vợ chồng vô sinh. Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này vào sinh
sản là một vấn đề hết sức phức tạp không chỉ liên quan đến những cặp vợ chồng vô sinh
mà còn có thể ảnh hưởng đến chủ thể thứ ba (người cho trứng, tinh trùng, phôi…). Đây
là một trong những điểm khác biệt cơ bản so với việc sinh sản tự nhiên. Do đó, vấn đề
này không thể tồn tại một cách độc lập và tự phát mà cần phải được pháp luật điều
chỉnh, làm căn cứ bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia.
Theo Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 12/2003/NĐ – CP của Chính phủ ngày 12
tháng 02 năm 2003 về sinh con theo phương pháp khoa học có giải thích: “Sinh con theo
phương pháp khoa học là việc sinh con được thực hiện bằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Nguyễn Văn Cừ, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Công an nhân dân,
năm 2006, tr. 160
9
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
6
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm”. Như vậy, có thể thấy trong quy định
này, pháp luật đã cho phép áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thông qua hai con đường,
đó là thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm. Theo đó, “thụ tinh nhân tạo” là thủ
thuật bơm tinh trùng của chồng hoặc của người cho tinh trùng vào tử cung của người
phụ nữ có nhu cầu sinh con để tạo phôi 10. Và “thụ tinh trong ống nghiệm” là sự kết hợp
giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi 11. Theo Khoản 5 và Khoản
6 Điều 3 Nghị định 12/2003/NĐ – CP có giải thích rõ thêm, “noãn” là tế bào trứng và
“phôi” là sản phẩm của quá trình kết hợp giữa noãn và tinh trùng.
Bên cạnh đó, theo Khoản 21 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 gần đây
nhất cũng đưa ra khái niệm: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”. Tuy nhiên, có thể thấy
khái niệm này về cơ bản không có sự khác biệt so với khái niệm sinh con theo phương
pháp khoa học được quy định trong Nghị định 12/2003/NĐ – CP.
1.1.5 Khái niệm mang thai hộ
Theo quan niệm truyền thống, căn cứ đầu tiên để xác định mối quan hệ giữa cha,
mẹ, con là yếu tố huyết thống. Người con được sinh ra từ một người phụ nữ sẽ đương
nhiên được thừa nhận không chỉ về mặt gia đình, xã hội mà còn được pháp luật công
nhận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Ngày nay, quan niệm ấy đã có sự thay đổi về
mặt huyết thống, khi mà người phụ nữ vẫn được công nhận là mẹ của người con mà
mình không trực tiếp mang thai và sinh ra, trong khi người phụ nữ trực tiếp mang thai và
sinh ra đứa trẻ ấy lại không phải là mẹ. Đây là vấn đề còn khá mới lạ và có ảnh hưởng
rất lớn đến quan niệm truyền thống về mối quan hệ giữa cha, mẹ, con. Nguyên nhân của
hiện tượng này xuất phát từ thực tế hiện nay, khi trong xã hội ngày càng có nhiều cặp vợ
chồng mà người vợ không có khả năng mang thai và sinh đẻ. Từ đó, trong xã hội dần
phát sinh hiện tượng những cặp vợ chồng vô sinh sau khi thụ tinh trong ống nghiệm từ
tinh trùng và noãn của chính mình, thì cấy vào tử cung của một người phụ nữ khác để
mang thai hộ. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “mang thai
hộ” bao gồm: “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” và “mang thai hộ vì mục đích
thương mại”. Tuy nhiên, pháp luật chỉ thừa nhận trường hợp mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo 12.
Khoản 2 Điều 3 Nghị định 12/2003/NĐ – CP
Khoản 3 Điều 3 Nghị định 12/2003/NĐ – CP
12
Xem Điểm g Khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
10
11
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
7
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
Tại Khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương
mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con
ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh
trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người
phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Có thể thấy trong
quy định này, pháp luật đã nêu việc mang thai hộ sẽ được áp dụng đối với các cặp vợ
chồng mong muốn được có con, nhưng vì những lý do khác nhau, người vợ không có
khả năng tự mình mang thai và sinh con, kể cả khi đã có sự hỗ trợ kỹ thuật vào việc sinh
sản. Thông thường, quá trình sinh đẻ của người phụ nữ gồm ba giai đoạn: thụ thai, mang
thai và sinh con. Nhưng đối với người phụ nữ trong trường hợp mang thai hộ thì phải
nhờ đến người phụ nữ thứ hai mang thai và sinh đẻ. Bào thai mà người phụ nữ này mang
cho đến khi sinh ra được hình thành từ việc thụ tinh trong ống nghiệm giữa noãn và tinh
trùng của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Có thể thấy, pháp luật thừa nhận mang thai hộ
là vì mục đích nhân đạo, đáp ứng được mong muốn được làm cha, làm mẹ. Do đó, việc
một người phụ nữ thứ hai tham gia vào quá trình sinh đẻ phải dựa trên ý chí tự nguyện,
giúp mang thai và sinh con cho người phụ nữ không có khả năng này, mà không phải vì
bất kỳ lợi ích nào khác. Pháp luật quy định yếu tố tự nguyện này là hoàn toàn phù hợp
với đạo đức xã hội.
Như vậy, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được pháp luật thừa nhận và cho
phép áp dụng đối với những cặp vợ chồng mà người vợ không có khả năng mang thai và
sinh con, mặc dù đã áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Các vấn đề xoay quanh việc mang
thai hộ không chỉ liên quan nội tại đến các cặp vợ chồng vô sinh mà còn liên quan đến
người thứ ba. Tuy đây là lần đầu tiên việc mang thai hộ được pháp luật dự liệu, nhưng
có thể thấy những quy định ban đầu về vấn đề này là tương đối phù hợp.
1.2 Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con
Quan hệ cha, mẹ, con là mối quan hệ pháp lý giữa một người (gọi là con) và một
người khác (gọi là cha hoặc mẹ) 13. Một số trường hợp việc xác định mối quan hệ cha,
mẹ, con giữa các chủ thể rất dễ dàng nhưng cũng có một số trường hợp do nhiều nguyên
nhân khác nhau, việc xác định mối quan hệ ấy rất phức tạp. Tuỳ vào tính chất và hoàn
Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam - tập 1, NXB
Trẻ TP. Hồ Chí Minh, năm 2002, tr. 121
13
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
8
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
cảnh của từng trường hợp cụ thể mà có sự lựa chọn những căn cứ phù hợp để xác định
mối quan hệ cha, mẹ, con. Tuy nhiên, các căn cứ ấy luôn tồn tại song song và trong
nhiều trường hợp bổ trợ cho nhau.
Có hai căn cứ cơ bản để xác định mối quan hệ cha, mẹ, con, đó là: căn cứ về mặt
huyết thống và căn cứ về mặt pháp lý. Trong đó, căn cứ về mặt huyết thống thường được
ưu tiên xét đến đầu tiên khi xem xét có hay không việc phát sinh quan hệ cha, mẹ, con.
1.2.1 Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con về mặt huyết thống
Trong đời sống xã hội, theo quan niệm từ xưa đến nay, khi một người phụ nữ có
quan hệ sinh lý với bất kỳ người đàn ông nào, dù đó có phải là người chồng hợp pháp
hay không, mà dẫn đến việc mang thai và sinh con, thì việc xác định mối quan hệ cha,
mẹ, con được đặt ra, hay nói cách khác mối quan hệ cha, mẹ, con được phát sinh. Theo
quy luật sinh học, khi đứa trẻ ra đời sẽ mang huyết thống của người phụ nữ sinh ra và
người đàn ông đã có quan hệ sinh lý với người phụ nữ này. Đây là mối liên hệ huyết
thống tự nhiên thông qua sự kiện sinh đẻ. Theo đó, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ được
xác định là mẹ, còn người cha được xác định là người đàn ông có quan hệ sinh lý với
người mẹ dẫn đến việc mang thai và sinh ra đứa trẻ.
Tuy nhiên ngày nay, dưới sự phát triển của y học và những tiến bộ không ngừng
của khoa học, thì mọi việc đều có thể được con người sắp xếp, quyết định một cách chủ
động theo mong muốn và ý chí của mình, kể cả sinh sản. Việc sinh sản không chỉ diễn ra
theo quá trình tự nhiên mà còn được thực hiện bằng những phương pháp nhân tạo, dưới
sự hỗ trợ của kỹ thuật. Do đó, quan niệm truyền thống về mặt huyết thống phát sinh từ
sự kiện sinh đẻ trong mối quan hệ cha, mẹ, con đã có sự thay đổi.
Sinh sản theo phương pháp khoa học đã hình thành nên khả năng sinh sản mà
không phải dựa trên mối quan hệ tình dục giữa nam và nữ. Tuy cũng bằng sự kết hợp
giữa noãn của phụ nữ và tinh trùng của người đàn ông nhưng môi trường để hình thành
phôi lúc này là trong ống nghiệm (thụ tinh trong ống nghiệm) hoặc được thực hiện bằng
việc bơm tinh trùng vào tử cung của người phụ nữ để hình thành phôi (thụ tinh nhân
tạo), và cả hai phương pháp này đều đã có sự hỗ trợ kỹ thuật, chứ không còn là sự phát
triển tự nhiên từ giai đoạn thành thai cho đến khi sinh đẻ như khi sinh sản tự nhiên.
Điểm đáng chú ý, cha và mẹ được xác định cho con sinh ra bằng phương pháp khoa học
không đồng thời là những người có tinh trùng và noãn kết hợp với nhau để hình thành
thai, có nghĩa là trường hợp người vợ mang thai, nhưng bào thai là kết quả của sự phối
hợp giữa trứng và tinh trùng của người khác hoặc trứng của người vợ và tinh trùng của
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
9
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
người khác. Đặc biệt trong trường hợp “mang thai hộ”, sau khi có sự hỗ trợ kỹ thuật, tuy
kết quả phối hợp giữa noãn và tinh trùng là của cặp vợ chồng vô sinh, nhưng người trực
tiếp mang thai và sinh đẻ là một người phụ nữ khác. Pháp luật hiện nay đã thừa nhận cặp
vợ chồng vô sinh là cha, mẹ của đứa trẻ, người mang thai hộ chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho
sự ra đời của đứa trẻ ấy.
Như vậy, căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con về mặt huyết thống được nhận
diện thông qua sự kiện sinh đẻ. Đối với việc sinh sản tự nhiên, về mặt sinh học đứa con
sẽ mang huyết thống của người phụ nữ và người đàn ông có quan hệ sinh lý với nhau mà
dẫn đến việc người phụ nữ có thai và sinh ra đứa trẻ. Mối quan hệ cha, mẹ, con lúc này
được phát sinh dựa trên mối liên hệ huyết thống theo quy luật sinh học. Tuy nhiên, đối
với việc sinh sản nhân tạo thì yếu tố huyết thống làm căn cứ phát sinh mối quan hệ cha,
mẹ, con đã có sự thay đổi, có nghĩa là những người được xác định là cha, mẹ, con của
nhau có thể không đồng thời mang cùng huyết thống.
1.2.2 Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con về mặt pháp lý
1.2.2.1 Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con về mặt pháp lý dựa vào thời kỳ
hôn nhân
Hôn nhân hợp pháp là quan hệ giữa vợ, chồng được pháp luật thừa nhận, khi đã
đăng ký kết hôn và đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn. Hôn nhân hợp pháp luôn gắn liền
với thời kỳ hôn nhân. Do đó, một trong những căn cứ về mặt pháp lý để xác định quan
hệ cha, mẹ, con là dựa vào thời kỳ hôn nhân. Khi xét đến thời kỳ hôn nhân cần quan tâm
đến thời điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân và thời điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân. Theo
quy định của pháp luật hiện hành thì “thời kỳ hôn nhân” là khoảng thời gian tồn tại quan
hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân 14. Và “ly hôn”
là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của
vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng 15. Từ những căn cứ này của pháp luật thì thời
điểm bắt đầu thời kỳ hôn nhân được xác định kể từ ngày đăng ký kết hôn. Đối với thời
điểm chấm dứt thời kỳ hôn nhân được xác định kể từ khi có bản án, quyết định có hiệu
lực của Toà án về việc chấm dứt quan hệ vợ chồng (ly hôn), ngay cả trong trường hợp
vợ, chồng chết. Pháp luật hiện hành đã có những quy định về trường hợp đứa trẻ được
14
15
Khoản 7 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
10
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
xác định là con chung dựa vào thời kỳ hôn nhân. Do đó, việc xác định thời kỳ hôn nhân
có vai trò rất quan trọng, làm căn cứ phát sinh mối quan hệ cha, mẹ, con.
1.2.2.2 Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con về mặt pháp lý dựa vào sự thừa
nhận của cha, mẹ
Căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con về mặt pháp lý dựa vào sự thừa nhận của
cha, mẹ được áp dụng trong trường hợp người vợ sinh con trước ngày đăng ký kết hôn16.
Có thể thấy trong cuộc sống ngày nay, nam nữ yêu thương và có quan hệ sinh lý với
nhau trước khi đăng ký kết hôn, dẫn đến việc người phụ nữ có thai ngày càng phổ biến.
Trong trường hợp này họ không được pháp luật công nhận là vợ chồng, giữa họ không
tồn tại thời kỳ hôn nhân, do đó đứa con được sinh ra sẽ không đương nhiên được thừa
nhận. Tuy nhiên, nếu xét về mặt sinh học thì đứa trẻ được sinh ra là con chung. Do đó,
dự liệu được trường hợp này, pháp luật đã có những quy định về việc ghi nhận sự thừa
nhận của cha, mẹ đối với đứa trẻ như để “pháp lý hóa” mối quan hệ giữa họ. Tức là lúc
này, mối quan hệ cha, mẹ, con được phát sinh, đứa trẻ được xác định là con chung và
được sự thừa nhận về mặt pháp lý.
1.3 Ý nghĩa của việc xác định cha, mẹ cho con
Mối quan hệ giữa cha, mẹ, con là một trong những mối quan hệ quan trọng và
thiêng liêng trong gia đình, mà gia đình là đơn vị, tế bào cấu thành của xã hội. Từ đó có
thể thấy mối quan hệ giữa gia đình và xã hội là không thể tách rời và có mối liên hệ mật
thiết với nhau. Vì vậy, mà việc xác định cha, mẹ cho con không chỉ mang ý nghĩa đối
với từng chủ thể mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Xác định cha, mẹ, con là một chế
định có ý nghĩa trong pháp luật hôn nhân và gia đình, góp phần đảm bảo cho các trẻ em
có đầy đủ sự yêu thương, chăm sóc từ gia đình… Mặt khác, việc xác định cha, mẹ cho
con còn liên quan đến những mối quan hệ pháp lý khác như dân sự, hôn nhân và gia
đình… và có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Có
thể thấy, xác định cha, mẹ cho con không chỉ có ý nghĩa về mặt xã hội mà còn có ý
nghĩa về mặt pháp lý.
- Ý nghĩa về mặt xã hội
Từ ngàn xưa đến nay, quyền làm cha, mẹ là những quyền cao cả, thiêng liêng và
có ý nghĩa quan trọng. Hạnh phúc gia đình có thể được duy trì từ sự hiện diện của những
Nguyễn Thị Lan, Luận án tiến sĩ Luật học “Xác định cha, mẹ, con trong Pháp luật Việt
Nam”, Đại học Luật Hà Nội, năm 2008, tr. 13
16
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
11
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
đứa con thân yêu. Việc xác định cha, mẹ cho con tạo điều kiện cho trẻ em được phát
triển một cách toàn diện và an toàn trong chính mái ấm gia đình và sự yêu thương của
cha, mẹ, đặc biệt là đối với những trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi…
Ngoài ra, việc xác định cha, mẹ cho con còn góp phần xoá bỏ sự kỳ thị, phân biệt
đối xử giữa những người con được sinh ra từ những cuộc hôn nhân hợp pháp và bất hợp
pháp, đảm bảo những đứa trẻ dù được sinh ra trong những hoàn cảnh khác nhau vẫn có
quyền được đối xử bình đẳng, điều này cũng đã phù hợp với một trong những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật hôn nhân và gia đình, tại khoản 2 Điều 68 Luật hôn nhân và gia
đình 2014 quy định: “Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ
đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình…”
Hơn nữa, việc xác định cha, mẹ cho con còn đảm bảo cho các chủ thể có căn cứ
để xác định được huyết thống, dòng tộc của mình, giúp duy trì được nòi giống, tái sản
xuất con người, tăng nguồn nhân lực… góp phần vào việc quyết định cho sự phát triển
xã hội trong tương lai.
- Ý nghĩa về mặt pháp lý
Ngoài ý nghĩa về mặt xã hội thì việc xác định cha, mẹ cho con còn mang ý nghĩa
về mặt pháp lý. Mối quan hệ giữa cha, mẹ, con không chỉ có ý nghĩa khi được các chủ
thể trong gia đình và xã hội thừa nhận, mà còn có ý nghĩa và thật sự cần thiết khi được
pháp luật công nhận. Khi mối quan hệ cha, mẹ, con được xác định thì giữa những người
với vai trò là cha, mẹ, con lúc này đã hình thành nên mối quan hệ pháp lý trước pháp
luật, nghĩa là họ đã có những quyền lợi và nghĩa vụ đối với nhau. Đồng thời, đây còn là
căn cứ để các cá nhân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, là cơ sơ để các cơ
quan có thẩm quyền giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra trong những ngành luật như dân
sự, hôn nhân và gia đình…
Khi sự kiện sinh đẻ xảy ra đồng thời sẽ làm phát sinh những hành vi pháp lý có
liên quan khác. Hơn nữa, việc xác định cha, mẹ cho con còn làm phát sinh mối quan hệ
giữa các thành viên khác trong gia đình như ông, bà, anh, chị, em… qua đó làm cơ sở
cho các chủ thể xác định và thực hiện đúng những quy định của pháp luật về quyền nhân
thân, tài sản, cấp dưỡng, nuôi dưỡng…
Mặt khác, việc xác định cha, mẹ cho con cũng đã thể hiện đúng tinh thần của
những nguyên tắc cơ bản trong pháp luật hôn nhân và gia đình. Cụ thể, Khoản 3 và 4
Điều 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
12
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
“3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có
nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các
con.”
“4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em…, giúp đỡ
các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia
đình.”
1.4 Lịch sử phát triển về xác định cha, mẹ cho con trong pháp luật Việt Nam
1.4.1 Xác định cha, mẹ cho con trong pháp luật Việt Nam trước năm 1945
Pháp luật thời phong kiến Việt Nam giai đoạn trước năm 1945 nhìn chung chưa
có sự phân biệt rõ ràng giữa các ngành luật, mọi quan hệ pháp luật đều được quy định
chung trong các bộ luật. Trong thời kỳ này, tiêu biểu cho chế độ hôn nhân và gia đình là
hai bộ luật: Quốc triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) được ban hành vào
thế kỷ XV dưới thời Lê, và Hoàng Việt luật lệ (hay còn gọi là Bộ luật Gia Long) được
ban hành vào thế kỷ XIX dưới thời Nguyễn. Đây được xem là hai bộ luật nổi bật quy
định về nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như: hôn nhân và gia đình, dân sự, hình
sự…, mà cả những chế độ sau đó vẫn còn dựa vào hai bộ luật này để giải quyết các tranh
chấp xảy ra. Tuy nhiên, lại không tìm thấy những quy định về việc xác định cha, mẹ cho
con.
Trong giai đoạn này, pháp luật nước ta chịu nhiều ảnh hưởng của hệ thống pháp
luật phong kiến Trung Quốc, đặc biệt bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những tư tưởng Nho
giáo. Thời này, xã hội đề cao vai trò của người gia trưởng, coi trọng các mối quan hệ
trong gia đình và có hình phạt rất nặng đối với những ai xâm phạm đến mối quan hệ này,
bên cạnh đó trong giai đoạn này còn tồn tại những định kiến lạc hậu như “trọng nam
khinh nữ”… người phụ nữ, người vợ trong gia đình phải theo đạo lý “tam tòng tứ đức”,
chịu nhiều lễ giáo hà khắt. Đối với trường hợp người phụ nữ dâm đãng, ngoại tình thì sẽ
bị chồng bỏ và chịu những hình phạt khắt khe… Đối với người đàn ông nếu phạm phải
tội gian dâm với vợ người khác cũng sẽ chịu trừng phạt rất nặng, bị xử tội lưu hay tội
chết. Do đó, các mối quan hệ giữa cha, mẹ và con cái luôn được coi trọng và bắt buộc
phải tuân thủ, nên những người con được sinh ra hầu hết đều được công nhận và theo
chế độ phụ hệ. Đối với trường hợp con ngoại hôn được sinh ra từ mối quan hệ bất chính
do người phụ nữ có chồng nhưng thông gian với người khác mà sinh ra, hoặc người phụ
nữ sinh con mà không có người thừa nhận là cha, thì pháp luật giai đoạn này có quy định
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
13
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
về sự tự thừa nhận mối quan hệ cha con, có nghĩa là nếu người cha thừa nhận đứa trẻ là
con thì đứa trẻ này sẽ trở thành con chính thức.
Như vậy, có thể thấy pháp luật giai đoạn này vẫn còn nhiều thiếu sót và chịu
nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo. Về việc xác định cha, mẹ cho con vẫn chưa
được quy định cụ thể trong luật.
Đến thời Pháp thuộc (1858 – 1945), giai đoạn đầu xâm lược, thực dân Pháp vẫn
còn tạm thời cho áp dụng pháp luật của triều Nguyễn và phong tục tập quán bản xứ. Về
sau, chúng ban hành pháp luật mới để cai trị, do đó nếp sống cổ truyền của dân tộc ta
cũng đã thay đổi, trong đó chế độ hôn nhân và gia đình cũng chịu nhiều ảnh hưởng.
Chính quyền thực dân dùng chính sách “chia để trị” chia cắt đất nước ta thành ba miền
tương ứng với ba bộ luật khác nhau:
- Ở Nam kỳ áp dụng bộ Dân luật giản yếu được ban hành vào năm 1883 là một
sắc lệnh của Tổng thống Pháp.
- Ở Trung kỳ áp dụng bộ Dân luật Trung (tên chính thức là Hoàng Việt Trung Kỳ
hộ luật) được ban hành từ năm 1936 đến năm 1939.
- Ở Bắc kỳ áp dụng bộ Dân luật Bắc (tên chính thức là “Bộ dân luật thi hành tại
các toà Nam án Bắc Kỳ”) được ban hành vào năm 1931.
Pháp luật thời kỳ này bắt đầu có sự phân biệt đối xử sâu sắc giữa các con trong
gia đình, giữa con trai với con gái, giữa con chung với con riêng, giữa con trong giá thú
(hay còn gọi là con chính thức) với con ngoài giá thú (hay còn gọi là con ngoại hôn, con
hoang, con tư sinh, con loạn luân). Việc xác định cha, mẹ cho con chủ yếu được đặt ra
đối với mối quan hệ cha – con, còn người phụ nữ sinh ra đứa trẻ sẽ đương nhiên được
xác định là mẹ đứa trẻ. Điều 151 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: “Phàm thụ thai trong
thời kỳ giá thú thì cha đứa con sinh ra là người chồng”. Có thể thấy, việc xác định
người cha cho đứa trẻ sẽ căn cứ vào giá thú với người mẹ. Đồng thời, tại Điều 151 Bộ
Dân luật Bắc kỳ còn quy định: “Thụ thai trong thời kỳ giá thú, tức là kể từ sau khi đã
làm lễ cưới cách ngoại một trăm tám mươi ngày sinh con, hay là kể từ sau khi đã tiêu
hôn mà trong khoảng ba trăm ngày sinh con”. Như vậy, đứa con được thụ thai trong
thời kỳ giá thú và được sinh ra tính từ khi thụ thai đến khi ra đời trong khoảng thời gian
tối thiểu 180 ngày và tối đa 300 ngày thì sẽ được xác định là con chính thức. Đối với con
ngoài giá thú, con loạn luân hay ngoại tình thường sẽ không được thừa nhận và bị phân
biệt đối xử, kể cả quyền xin được xác định cha, mẹ, sự thừa nhận nếu có thì sẽ bị vô
hiệu. Cụ thể tại Điều 168 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: “Nếu là con loạn luân hay con
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
14
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
ngoại tình của người mẹ thì hộ lại không được đăng ký sự khai nhận đứa con hoang ấy.
Nếu hộ lại đã trót khai nhận thì coi như không và vô hiệu”. Qua quy định này, có thể
thấy sự bất công đối với con ngoài giá thú, tuy nhiên bên cạnh đó pháp luật cũng có
những quy định để làm căn cứ thừa nhận con ngoài giá thú thành con chính thức. Điều
169 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: “Phàm con hoang mà cha mẹ nó trước đã khai nhận,
đến sau lại có giá thú hợp phép, thì có thể công nhận làm con chính thức, sự công nhận
ấy là tự nhiên chiểu luật”.
Có thể thấy, việc xác định cha, mẹ cho con trong giai đoạn này tuy vẫn chưa thật
sự hoàn thiện nhưng qua từng giai đoạn, từ thời phong kiến đến dưới thời Pháp thuộc đã
có sự tiến bộ. Vấn đề xác định cha, mẹ cho con dần được quy định khá cụ thể và đầy đủ.
1.4.2 Xác định cha, mẹ cho con trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay
1.4.2.1 Xác định cha, mẹ cho con theo Luật hôn nhân và gia đình năm 1959
Trước năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những mục tiêu chiến lược
như giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền trong gia đình và xã hội, xoá bỏ
chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến… Đến khi Cách mạng tháng Tám thành công đã
giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị, đất nước bước vào một giai đoạn mới, thì
mục tiêu giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền ngày càng được chú trọng. Năm 1946,
bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, các mối quan hệ
pháp luật cơ bản trong xã hội cũng đã được quy định trong hiến pháp, trong đó có các
vấn đề về hôn nhân và gia đình, đây là cơ sở xây dựng chế độ hôn nhân tiến bộ của nước
ta vào giai đoạn này.
Hiến pháp ra đời làm tiền đề xây dựng các đạo luật khác nhằm điều chỉnh và đáp
ứng tình hình thực tiễn, trong đó có đạo luật về hôn nhân và gia đình. Vì vậy tại kì họp
thứ 11, đạo Luật hôn nhân và gia đình đầu tiên của nước ta được Quốc hội khóa I thông
qua ngày 29/12/1959 và được công bố vào ngày 13/01/1960, đã đề ra những nguyên tắc
chung về chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, bình đẳng, một vợ, một chồng, bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ, con cái. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 gồm 6 chương, 35
điều quy định về những nguyên tắc chung, kết hôn, nghĩa vụ và quyền lợi của vợ, chồng,
quan hệ giữa cha, mẹ và con, ly hôn... Theo đó, “Quan hệ giữa cha, mẹ và con cái” được
quy định tại chương IV từ Điều 17 đến Điều 24, trong đó có những quy định ghi nhận về
quyền được nhận cha, mẹ, con ngoài giá thú, như tại Điều 22 quy định: “Người con
ngoài giá thú được xin nhận cha hoặc mẹ trước Toà án nhân dân. Người mẹ cũng có
quyền xin nhận cha thay cho đứa trẻ chưa thành niên. Người thay mặt cũng có quyền xin
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
15
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
nhận cha hoặc mẹ thay cho đứa trẻ chưa thành niên” và Điều 23 quy định: “Con ngoài
giá thú được cha, mẹ nhận hoặc được Toà án nhân dân cho nhận cha, mẹ, có quyền lợi
và nghĩa vụ như con chính thức”. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi cha, mẹ nhận
con ngoài giá thú cũng đã được quy định tại Điều 21, cụ thể: “Cha hoặc mẹ nhận con
ngoài giá thú phải khai trước Ủy ban hành chính cơ sở. Nếu có tranh chấp, Tòa án nhân
dân sẽ quyết định”.
Như vậy có thể thấy Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 ra đời góp phần điều
chỉnh tình hình thực tiễn trong giai đoạn này, đã có những quy định ghi nhận quyền
được nhận cha, mẹ, con và thẩm quyền giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên,
những quy định về xác định cha, mẹ cho con chưa đầy đủ và hoàn thiện.
1.4.2.2 Xác định cha, mẹ cho con theo Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
Sau khi đất nước được hoàn toàn thống nhất từ ngày 30/4/1975, mở ra một giai
đoạn mới đòi hỏi nước ta cần phải có sự cải thiện và phát triển hơn trên tất cả các lĩnh
vực, kể cả pháp luật, để điều chỉnh kịp thời các mối quan hệ pháp luật phát sinh trong xã
hội. Do đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 trong thời kỳ này đã không thể đáp ứng
kịp thời nhu cầu của xã hội, nên đòi hỏi phải có một văn bản khác thay thế. Vì vậy, Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành vào ngày 29/12/1986 dưới sự thông qua
của Quốc hội khoá VII, và chính thức có hiêu lực vào ngày 3/01/1987. Nội dung luật
bao gồm 10 chương, 57 điều, trong đó chế định xác định cha, mẹ, con được quy định tại
chương V từ Điều 28 đến Điều 33. Cụ thể tại Điều 28 quy định: “Con sinh ra trong thời
kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng.
Trong trường hợp có yêu cầu xác định lại vấn đề này thì phải có chứng cứ khác”. Bên
cạnh đó, tại Điều 31 còn quy định: “Con ngoài giá thú có quyền xin nhận cha, mẹ kể cả
trong trường hợp cha, mẹ đã chết…” Ngoài ra tại điều luật này còn quy định về những
chủ thể có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho con ngoài giá thú chưa thành niên
“Người mẹ, người cha hoặc người đỡ đầu có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho người
con ngoài giá thú chưa thành niên” và “Viện kiểm sát nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ
Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt Nam có quyền yêu
cầu xác định cha, mẹ cho người con ngoài giá thú chưa thành niên”. Hơn nữa, trong
Luật hôn nhân và gia đình 1986 đã có quy định cho thấy không còn sự phân biệt đối xử
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
16
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
giữa các loại con: “Con ngoài giá thú được cha, mẹ nhận hoặc được Toà án nhân dân
cho nhận cha, mẹ có mọi quyền và nghĩa vụ như con trong giá thú” 17.
Có thể thấy Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời có nhiều tiến bộ hơn khi
đã dành hẳn một chương riêng biệt về xác định cha, mẹ, con và đã có những quy định
liên quan đến thời kỳ hôn nhân - căn cứ phát sinh quan hệ cha, mẹ, con, là cơ sở cho
việc xác định cha, mẹ cho con dễ dàng hơn.
1.4.2.3 Xác định cha, mẹ cho con theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Đất nước không ngừng tiến bộ, xã hội ngày càng phát triển sẽ làm phát sinh nhiều
mối quan hệ pháp luật mới khác nhau, các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật
hôn nhân và gia đình nói riêng đòi hỏi cũng phải được đổi mới để phù hợp với tình hình
hiện tại. Do đó việc ra đời luật mới để thay thế Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 là
thật sự cần thiết. Ngày 9/6/2000 Quốc hội chính thức thông qua Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 và chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2001. Luật gồm 13 chương,
110 điều, trong đó chế định “Xác định cha, mẹ, con” được quy định tại chương VII từ
Điều 63 đến Điều 66. Nhìn chung, so với Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 không có nhiều sự thay đổi trong những quy định về
việc xác định cha, mẹ cho con. Nội dung quy định xoay quanh nguyên tắc xác định cha,
mẹ, con; quyền và các chủ thể có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con… Tuy nhiên, có
một điểm hoàn toàn mới được quy định tại Điều 63: “Việc xác định cha, mẹ cho con
được sinh ra theo phương pháp khoa học do Chính phủ quy định”. Đây là lần đầu tiên
vấn đề sinh con theo phương pháp khoa học được luật hóa. Và tại Điều 66 quy định về
người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân
sự.
Có thể thấy Luật hôn nhân và gia đình 2000 ra đời cũng đã có sự tiến bộ hơn khi
kịp thời có những quy định mới phù hợp với tình hình xã hội. Riêng những quy định làm
căn cứ để xác định cha, mẹ cho con về căn bản vẫn không có sự thay đổi so với những
quy định trong văn bản luật hôn nhân và gia đình trước đó.
17
Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
17
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
1.4.2.4 Xác định cha, mẹ cho con theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Đất nước ngày càng phát triển, đặc biệt là trong giai đoạn công nghiệp hoá – hiện
đại hoá như hiện nay, cùng với sự ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài trong giai đoạn
hội nhập thì ngày càng có nhiều quan hệ pháp luật mới về hôn nhân và gia đình phát
sinh, đặc biệt trong những năm gần đây nổi cộm lên vấn đề “mang thai hộ”, đây là vấn
đề hết sức nhạy cảm và đã gây nhiều tranh cãi trong thời gian qua. Tuy “mang thai hộ”
là vấn đề vẫn còn khá mới mẻ nhưng trên thực tế đã có nhiều trường hợp phát sinh và
không được pháp luật điều chỉnh. Điều này đã bộc lộ một trong những hạn chế của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000. Do đó, vào ngày 19/6/2014, Quốc hội khoá XIII đã
chính thức thông qua Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và có hiệu lực vào ngày
01/01/2015. Luật gồm 9 chương, 133 điều, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung một số điều
luật thì đã có quy định thêm ba chế định mới, trong đó đã thừa nhận việc “mang thai
hộ”. Riêng về chế định “Xác định cha, mẹ, con” được quy định tại chương V, mục 2, từ
Điều 88 đến Điều 102, cùng với một số quy định được kế thừa từ Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 còn bổ sung thêm một số quy
định mới, cụ thể tại Điều 88: “Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm
chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân” và quy
định về xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người có yêu cầu chết cũng được ghi
nhận tại Điều 92, theo đó thì “người thân thích của người này có quyền yêu cầu Tòa án
xác định cha, mẹ, con cho người yêu cầu đã chết”. Đặc biệt, pháp luật đã có những quy
định về xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản tại Điều 93, và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo tại Điều 94, với nội dung: “Con
sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng
nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”.
Có thể thấy, so với những quy định trước đây thì Luật hôn nhân và gia đình năm
2014 ra đời đã điều chỉnh kịp thời những bất cập trong xã hội về mối quan hệ hôn nhân
và gia đình. Đặc biệt là “mang thai hộ” cùng với những nguyên tắc xác định cha, mẹ cho
con trong trường hợp này. Đây được xem là sự tiến bộ và mang tính nhân đạo khi các
nhà làm luật đã tạo điều kiện cho các cặp vợ, chồng mà người vợ không có khả năng
mang thai và sinh con được quyền làm cha, làm mẹ như những người bình thường khác.
Nhìn chung, pháp luật hôn nhân và gia đình nói chung và việc xác định, cha, mẹ,
con nói riêng đã được quy định từ rất sớm và không ngừng được hoàn thiện. Có thể thấy
tùy vào từng giai đoạn mà nhà nước bổ sung, sửa đổi và ban hành những quy định pháp
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
18
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
luật phù hợp để điều chỉnh tình hình thực tế. Tuy nhiên, xã hội vẫn không ngừng phát
triển nên khó tránh khỏi sự thiếu sót và bất cập trong việc áp dụng những quy định của
pháp luật vào thực tiễn, trong đó có cả chế định xác định cha, mẹ, con. Vì thế, nhà nước
cần phải theo dõi và quan tâm đến vấn đề này để kịp thời có những quy định phù hợp,
góp phần hoàn thiện pháp luật.
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
19
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan
Hoàn thiện pháp luật về xác định cha, mẹ cho con
CHƢƠNG 2
QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON
2.1 Xác định cha, mẹ cho con trong giá thú
2.1.1 Cơ sở pháp lý về xác định cha, mẹ cho con trong giá thú
Nguyên tắc suy đoán pháp lý về việc xác định cha, mẹ cho con trong giá thú được
quy định tại Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình 2000 với nội dung như sau:
“1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ đó
là con chung của vợ chồng.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con
chung của vợ chồng.
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải
được Toà án xác định.
Việc xác định cha, mẹ cho con được sinh ra theo phương pháp khoa học do
Chính phủ quy định”.
Hơn nữa tại Mục 5a Nghị quyết 02/2000/NQ – HĐTP của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, quy định những trường hợp con được xác định là con
chung của vợ chồng:
- Con sinh ra sau khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến trước khi chấm dứt
quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc
chồng hoặc của cả hai vợ chồng;
- Con sinh ra sau khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc
quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng, nhưng người vợ đã có
thai trong thời kỳ hôn nhân (trong thời kỳ từ khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến
trước khi chấm dứt quan hệ hôn nhân).
- Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn (ngày tổ chức đăng ký kết hôn) nhưng
được cả vợ và chồng thừa nhận.
Nguyên tắc suy đoán pháp lý về xác định cha, mẹ cho con tiếp tục được dự liệu
trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nhưng về nội dung và tinh thần trong quy
định pháp luật không có sự thay đổi so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, bên
GVHD: Huỳnh Thị Trúc Giang
20
SVTH: Nguyễn Thị Nhật Lan