Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CÁCH MẠNG THÁNG 8 KHÔNG PHẢI LÀ SỰ ĂN MAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.7 KB, 18 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
"CÁCH MẠNG THÁNG 8 KHÔNG PHẢI LÀ SỰ ĂN MAY"
I. Lời mở đầu
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới do giai cấp công nhân lãnh đạo giành được
thắng lợi, góp phần cùng Đồng Minh dân chủ quốc tế đánh bại chủ nghĩa phát-
xít, kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, đem lại hòa bình cho toàn thể
nhân loại. Cách mạng Tháng Tám còn góp phần tích cực vào phong trào giải
phóng dân tộc thuộc địa, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc bị
áp bức trên toàn thế giới.
Do chưa nhận thức được tính tất yếu trong mối quan hệ giữa yếu tố giai cấp
và yếu tố dân tộc của Cách mạng Tháng Tám nên một số học giả nước ngoài đã
không thấy hết vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ
cho rằng, cuộc cách mạng này nổ ra là do có "sự ăn may", do lúc đó ở Đông
Dương có "khoảng trống quyền lực" (Pháp chạy, Nhật hàng, quân Đồng Minh
chưa tới) nên Việt Minh mới dễ dàng giành thắng lợi.
Hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã viết nên
nhiều trang sử vẻ vang với những chiến công chói lọi, chống xâm lược và chống
ách thống trị của ngoại bang. Cách mạng tháng Tám (1945) là một trang sử vẻ
vang, chói lọi nhất, đánh dấu bước ngoặc vĩ đại trong lịch sử dân tộc.
II. Nội dung
“Cách mạng tháng tám không phải là sự ăn may”
1. Hoàn cảnh lịch sử .
Cách mạng tháng Tám nổ ra trong thời cơ chín muồi.
a.Thế giới (Khách quan)Thời cơ thuận lợi đã đến
-Ở Châu Âu: Tháng 5/1945 phát xít Đức đầu hàng quân đồng minh không
điều kiện.
-Ở Châu Á –Thái Bình Dương: 8/1945 Nhật cũng đầu hàng vô điều kiện.
b.Trong nước (Chủ quan)
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368


-Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã .Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim
hoang mang
-Ngày 13/8/1945 TƯ Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập UB khởi nghĩa toàn
quốc, ra quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước
- Từ ngày 14-> 15/8/1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào
thông qua kế hoạch lãnh đạo ND Tống khởi nghĩa và quyết định những vấn đề
quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền
-Từ ngày 16 ->17/8/1945 Đại hội Quốc dân được triệu tập ở Tân Trào tán
thành lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh,
thành lập UB dân tộc giải phóng do CT Hồ Chí Minh đứng đầu.
2. Những nét chính về diễn biến
-Chiều ngày 16/8/1945 một đơn vị quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ
huy từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên mở đầu cho CM tháng
tám.
-Từ 14 đến 18/8/1945 có 4 tỉnh giành được chính quyền: Bắc Giang, Hải
Dương, Hà Tĩnh và Quảng Nam.
-Giành chính quyền ở Hà Nội: Từ ngày 15 đến 18/8 phong trào chuẩn bị
khởi nghĩa của quần chúng ngày càng sôi sục. Ngày 19/8/1945 Hà Nội giành
được chính quyền.
-Ngày 23/8 ta giành chính quyền ở Huế.
-Ngày 25/8 ta giành chính quyền ở Sài Gòn.
-Ngày 28/8 hầu hết các địa phương trong cả nước giành được chính quyền.
-Ngày 30/8 vua Bảo Đại thoái vị.
-Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba §ình chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa.
Như vậy chỉ trong vòng 15 ngày (từ 14/8 đén 28/8/1945) tổng khởi nghĩa
tháng Tám đã thành công trong cả nước. Lần đầu tiên trong cả nước chính quyền
về tay nhân dân
2

Website: Email : Tel : 0918.775.368
3. Nguyên nhân thắng lợi
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến Cách mạng Tháng Tám thành công là do
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đứng trên lập trường giai cấp công nhân,
vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh
Việt Nam, nêu cao ngọn cờ độc lập dân tộc, phát huy cao độ chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc và dũng khí đấu tranh anh hùng, bất khuất
của nhân dân Việt Nam. Nói cách khác, là do Đảng ta đã biết kết hợp hài hòa và
nhuần nhuyễn tính giai cấp với tính dân tộc của cuộc cách mạng.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác nhận, để đi đến thành công của
Cách mạng Tháng Tám, Đảng phải trải qua ba cuộc vận động cách mạng khó
khăn, gian khổ. Đó là: 1 - Cuộc vận động những năm 1930 - 1935 mà đỉnh cao
là Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), tiếp theo là giai đoạn khủng bố trắng và
thoái trào cách mạng (1932 - 1935). 2 - Cuộc vận động những năm (1936 -
1939), với cao trào Mặt trận Dân chủ năm 1938, Đảng lại phải vượt qua tổn thất
do cuộc khủng bố của địch gây ra để đi tiếp chặng đường mới. 3 - Cuộc vận
động những năm 1939 - 1945, Đảng đã sáng suốt phát triển cả lực lượng chính
trị lẫn lực lượng vũ trang, dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa, chủ động nắm bắt
thời cơ mới để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Chính nhờ trải qua ba cuộc vận động
đó, Đảng từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và sách lược. Điều đó biểu
hiện ở một số vấn đề cơ bản sau:
+ Từ chỗ tiến hành song song hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, đến
chỗ xác định rõ nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc
Đây là cả một chặng đường chuyển biến nhận thức, đổi mới tư duy không
đơn giản. Luận cương chính trị của Đảng tháng 10-1930 nêu rõ: "Sự cốt yếu của
tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích
phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa
cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật
thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa

3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến
thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa" (1). Phong trào đấu tranh của quần
chúng năm 1930 - 1931 cũng nổi lên với khẩu hiệu "Đả thực, bài phong", không
chỉ chống đế quốc xâm lược mà còn đả đảo cả "Trí, phú, địa, hào".
Chuyển sang thời kỳ những năm 1936 - 1939, trước nguy cơ phát-xít, Đảng
thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm kết hợp đấu tranh dân tộc với
đấu tranh dân chủ để chống phát-xít. Điều đó bước đầu tạo nên sức mạnh đoàn
kết toàn dân, biểu hiện ở cuộc mít tinh đồ sộ với hơn hai vạn người tham dự ở
nhà Đấu xảo Hà Nội, ngày 1-5-1938.
Đến giữa năm 1939, cuộc chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, các nước đế
quốc xâu xé lẫn nhau, thời cơ giải phóng dân tộc sẽ đến, Đảng thành lập Mặt
trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, kịp thời chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm thời hạ thấp khẩu hiệu
phản phong. Tại Hội nghị Trung ương 6, họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939,
Đảng ta chỉ rõ: "Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách
mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không
giải quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại không giải quyết được cách mệnh
phản đế thì không giải quyết được cách mệnh điền địa... Hiện nay tình hình có
đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát-xít thuộc
địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông
trung tiểu địa chủ và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc.
Tháng 6-1941, Liên Xô tuyên chiến với Đức. Sau đó, Đồng Minh quốc tế
chống phát-xít gồm Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Mỹ ra đời. Ở Việt Nam, thời cơ
giải phóng dân tộc đang đến gần. Đầu năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh về
nước, chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 (họp ở Pắc Bó, Cao Bằng). Tại Hội nghị
này, Đảng đã hoàn thiện thêm một bước nữa việc chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược, thay khẩu hiệu "Phản đế" (của Hội nghị Trung ương 6) hay "Phản đế cứu
quốc" (của Hội nghị Trung ương 7) bằng khẩu hiệu "Cứu quốc". Nghị quyết Hội

nghị nêu rõ: "Chính sách của Đảng ta hiện nay là chính sách cứu quốc, cho nên
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mục đích của các hội quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu... Công
hội từ nay lấy tên là Công nhân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy những người thợ
Việt Nam muốn tranh đấu đánh Pháp - Nhật, lại có thể thu nạp hết cả những
hạng cai ký, đốc công trong xưởng mà những công hội trước kia không hề tổ
chức. Nông hội từ nay gọi là Việt Nam Nông dân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy
nông dân đến cả hạng phú nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp - Nhật" (3).
Đồng thời, Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương chuyển thành ba
mặt trận "cứu quốc" của ba dân tộc Việt, Miên, Lào.
Ở Việt Nam, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (tức Mặt trận cứu quốc,
gọi tắt là Việt Minh) ra đời. Các đoàn thể cứu quốc phát triển rộng khắp cả ba
kỳ. Ngoài Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, còn có Quân nhân (hay
binh sỹ, du kích) cứu quốc, Thương gia cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Thanh niên
cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu vong... Như vậy, chiến lược cách
mạng ngày càng được hoàn thiện và luôn đi đôi với những sách lược cách mạng
mềm dẻo, thêm bạn bớt thù (như thu hút cả cai ký, đốc công, phú nông, địa chủ
chống Pháp - Nhật vào Mặt trận cứu quốc). Chiến lược, sách lược đó phù hợp
với yêu cầu cách mạng và nguyện vọng của quần chúng nhân dân, được cụ thể
hoá trong Chương trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Qua nhiều con đường
bí mật và bán công khai, Chương trình thâm nhập vào đại chúng, tạo nên Cao
trào tiền khởi nghĩa rộng lớn, rồi dẫn đến Tổng khởi nghĩa thành công (chứ
không phải đó chỉ là phong trào "tự phát" của quần chúng như có người đã nói).
+ Thực thi quyền dân tộc tự quyết của ba nước Đông Dương
Quyền dân tộc tự quyết là vấn đề quan trọng trong chiến lược cách mạng và
trong quan hệ quốc tế. Từ lâu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức rõ vấn đề
quyền dân tộc tự quyết. Bởi vậy, trong Chương trình tóm tắt của Đảng năm
1930, Người đã nhân danh Đảng Cộng sản Việt Nam công bố vấn đề này.
Nhưng quyết định đó không sớm được chấp nhận. Từ Luận cương chính trị,

tháng 10-1930 cho đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, tháng 11-1940,
Đảng vẫn khẳng định chỉ có một Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo cách
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mạng của cả ba nước Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao. Đến Hội nghị Trung ương 8,
tháng 5-1941, do Người chỉ đạo, Đảng mới quyết định thành lập ba đảng với ba
mặt trận của ba nước như trên đã nói. Nghị quyết Hội nghị khẳng định: "chiến
thuật hiện tại của Đảng ta là phải vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức
thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân
(hơn hết là dân tộc Việt Nam
+ Bố trí thế trận cách mạng và sắp xếp lực lượng cách mạng phù hợp với
yêu cầu khách quan của lịch sử
Khi tình thế cách mạng có sự chuyển biến mau lẹ, đối tượng cách mạng
luôn thay đổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng
một cách xuất sắc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào nhận thức xã hội Việt
Nam để đề ra các quyết sách chiến lược đúng đắn. Đó là nhận thức rõ các mâu
thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu trong xã hội, xác định rõ kẻ thù chính, kẻ
thù phụ và hậu bị quân của chúng để sắp xếp Tiền phong quân, Hậu bị quân trực
tiếp, Hậu bị quân gián tiếp của cách mạng Việt Nam. Cụ thể, lúc đầu mũi nhọn
của cách mạng chĩa vào thực dân xâm lược Pháp và tay sai phong kiến. Khi
Nhật vào Việt Nam, Pháp làm tay sai cho Nhật, kẻ thù chủ yếu của cách mạng là
Pháp - Nhật. Từ năm 1943 trở đi, Nhật ngày càng lấn chân Pháp ở Việt Nam, kẻ
thù chủ yếu của cách mạng được xác định lại là Nhật - Pháp. Từ ngày 9-3-1945
(ngày Pháp đầu hàng Nhật) trở đi, kẻ thù chủ yếu của cách mạng chỉ còn là phát-
xít Nhật và tay sai. Điều này có tầm quan trọng rất lớn trong việc bố trí thế trận
cách mạng và lực lượng cách mạng.
+ Thực thi phương châm chiến lược "kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị
với đấu tranh vũ trang", tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa
Trong thế trận lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu địch mạnh, cách mạng Việt Nam
vừa phát huy truyền thống vũ trang anh hùng, bất khuất của ông cha, vừa vận

dụng hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng. Hình thức này đã nảy sinh từ
cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) và phong trào Mặt trận Dân chủ
(1936 - 1939). Đến cuộc vận động cách mạng những năm 1939 - 1945, hình
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thức đấu tranh chính trị được vận dụng một cách phổ biến trong đại chúng.
Ngoài công, nông, còn vận động được cả tiểu thương, tiểu chủ, cai ký, đốc
công... cùng tham gia chống độc tài, phát-xít. Năm 1945, phát-xít Nhật - Pháp
tăng cường vơ vét lương thực cho chiến tranh, gây nên thảm họa 2 triệu người
Việt Nam chết đói, Đảng đã phát động một cao trào đấu tranh kết hợp chính trị
với vũ trang: mít tinh, biểu tình đòi quyền sống, đi đôi với vũ trang phá kho thóc
cứu đói, lập các căn cứ địa và các chiến khu cách mạng, tiến hành khởi nghĩa
từng phần, thành lập chính quyền cách mạng địa phương, tiến tới Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.
+ Nắm đúng thời cơ, kịp thời phát động quần chúng nổi dậy giành chính
quyền, ít phải đổ máu
Cách mạng Tháng Tám nổ ra thành công, ít phải đổ máu là do các nhà lãnh
đạo cách mạng Việt Nam đã đứng vững trên thế chủ động chiến lược. Đến nay,
nhiều người mới rõ, từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự đoán: năm 1945,
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam sẽ thành công. Chương trình cứu
nước của Việt Minh ra đời từ Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), đã đến tay
những chiến sỹ cách mạng ở các địa phương, kể cả sự truyền miệng qua các lao
tù. Khi thời cơ đến, khắp nơi đều chủ động đứng lên giành chính quyền địa
phương, như các chiến sỹ Ba Tơ đã nổi lên phá ngục tù, lập căn cứ địa cách
mạng ngay sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945). Trong Cao trào tiền khởi
nghĩa, nhiều xã, huyện và một số tỉnh đã giành được chính quyền trước ngày
giành chính quyền ở Hà Nội. Phương châm chiến lược kết hợp chặt chẽ đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nắm đúng thời cơ để nổi dậy đã góp phần
quyết định vào việc giành được chính quyền ít phải đổ máu. Đây là cả một cuộc
đấu trí, đấu dũng của cách mạng Việt Nam với bọn đế quốc, phát-xít.

Như trên đã chứng minh, mặc dù có thuận lợi khách quan, nhưng nguyên
nhân chủ quan mới là nguyên nhân quyết định sự thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám. Đó là do có sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng. Nói cách
7

×