Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Cách mạng tháng Tám không phải là một sự ăn may-Hãy chứng minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.14 KB, 8 trang )

Đề bài: Cách mạng tháng Tám không phải là một sự ăn may. Hãy chứng
minh.
Bài làm
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc đầu tiên trên thế giới do giai cấp công nhân lãnh đạo
giành được thắng lợi. Đây là cuộc cách mạng có ý nghĩa to lớn trong lịch
sử dân tộc Việt Nam, đồng thời góp phần tích cực vào phong trào giải
phóng dân tộc thuộc địa, mở đầu cho kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân
tộc bị áp bức trên toàn thế giới trong thời kỳ đó.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan. Sự thành công đó hoàn toàn không
phải là một sự ăn may như một số nhận định sai lệch từng được đưa ra.
Qua phân tích các nguyên nhân cấu thành nên sự thành công của Cách
mạng Tháng Tám, có thể nhận thấy rõ thành công đó là kết quả tất yếu,
xứng đáng với Đảng Cộng Sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam.
1. Nguyên nhân khách quan
Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong bối cảnh quốc tế rất thuận lợi:
Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và các lực
lượng dân chủ thế giới đánh bại. Bọn Nhật ở Đông Dương và tay sai tan rã.
Đảng ta đã chớp thời cơ đó phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa
giành thắng lợi nhanh chóng.
2. Nguyên nhân chủ quan
Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh
gian khổ của toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam đã xác nhận, để đi đến thành công của Cách mạng Tháng
Tám, Đảng phải trải qua ba cuộc vận động cách mạng khó khăn, gian khổ.
Đó là: Cuộc vận động những năm 1930 - 1935 mà đỉnh cao là Xô-viết
Nghệ Tĩnh (1930-1931), tiếp theo là giai đoạn khủng bố trắng và thoái trào
cách mạng (1932 - 1935); Cuộc vận động những năm 1936 - 1939, với cao
trào Mặt trận Dân chủ năm 1938, Đảng lại phải vượt qua tổn thất do cuộc
khủng bố của địch gây ra để đi tiếp chặng đường mới; Cuộc vận động


những năm 1939 - 1945, Đảng đã sáng suốt phát triển cả lực lượng chính
trị lẫn lực lượng vũ trang, dấy lên cao trào tiền khởi nghĩa, chủ động nắm
bắt thời cơ mới để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Chính nhờ trải qua ba cuộc
vận động đó, Đảng từng bước hoàn thiện đường lối chiến lược và sách
lược. Điều đó biểu hiện ở một số vấn đề cơ bản sau:
- Từ chỗ tiến hành song song hai nhiệm vụ phản đế và phản phong,
đến chỗ xác định rõ nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc
Đây là cả một chặng đường chuyển biến nhận thức, đổi mới tư duy
không đơn giản. Luận cương chính trị của Đảng tháng 10-1930 nêu rõ: "Sự
cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải tranh đấu để
đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư
bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là tranh
đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn
độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ
địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được
đế quốc chủ nghĩa" (1). Phong trào đấu tranh của quần chúng năm 1930 -
1931 cũng nổi lên với khẩu hiệu "Đả thực, bài phong", không chỉ chống đế
quốc xâm lược mà còn đả đảo cả "Trí, phú, địa, hào".
Chuyển sang thời kỳ những năm 1936 - 1939, trước nguy cơ phát-
xít, Đảng thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm kết hợp đấu tranh
dân tộc với đấu tranh dân chủ để chống phát-xít. Điều đó bước đầu tạo nên
sức mạnh đoàn kết toàn dân, biểu hiện ở cuộc mít tinh đồ sộ với hơn hai
vạn người tham dự ở nhà Đấu xảo Hà Nội, ngày 1-5-1938.
Đến giữa năm 1939, cuộc chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, các
nước đế quốc xâu xé lẫn nhau, thời cơ giải phóng dân tộc sẽ đến, Đảng
thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, kịp thời
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
tạm thời hạ thấp khẩu hiệu phản phong. Tại Hội nghị Trung ương 6, họp từ
ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Đảng ta chỉ rõ: "Cách mệnh phản đế và điền

địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết
được cách mệnh điền địa thì không giải quyết được cách mệnh phản đế.
Trái lại không giải quyết được cách mệnh phản đế thì không giải quyết
được cách mệnh điền địa... Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến
tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát-xít thuộc địa đã đưa vấn đề
dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa
chủ và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải
phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của
cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy
mà giải quyết" (2). Nhờ vậy, chỉ trong thời gian ngắn, một làn sóng cách
mạng phản đế đã dấy lên, tiêu biểu là ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam
Kỳ, Đô Lương, làm rung động bộ máy thực dân.
Tháng 6-1941, Liên Xô tuyên chiến với Đức. Sau đó, Đồng Minh
quốc tế chống phát-xít gồm Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Mỹ ra đời. Ở Việt
Nam, thời cơ giải phóng dân tộc đang đến gần. Đầu năm 1941, Chủ tịch
Hồ Chí Minh về nước, chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8 (họp ở Pắc Bó, Cao
Bằng). Tại Hội nghị này, Đảng đã hoàn thiện thêm một bước nữa việc
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, thay khẩu hiệu "Phản đế" (của Hội nghị
Trung ương 6) hay "Phản đế cứu quốc" (của Hội nghị Trung ương 7) bằng
khẩu hiệu "Cứu quốc". Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: "Chính sách của Đảng
ta hiện nay là chính sách cứu quốc, cho nên mục đích của các hội quần
chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu... Công hội từ nay lấy tên là
Công nhân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy những người thợ Việt Nam
muốn tranh đấu đánh Pháp - Nhật, lại có thể thu nạp hết cả những hạng cai
ký, đốc công trong xưởng mà những công hội trước kia không hề tổ chức.
Nông hội từ nay gọi là Việt Nam Nông dân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy
nông dân đến cả hạng phú nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp -
Nhật". Đồng thời, Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương
chuyển thành ba mặt trận "cứu quốc" của ba dân tộc Việt, Miên, Lào.
Ở Việt Nam, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (tức Mặt trận

cứu quốc, gọi tắt là Việt Minh) ra đời. Các đoàn thể cứu quốc phát triển
rộng khắp cả ba kỳ. Ngoài Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, còn
có Quân nhân (hay binh sỹ, du kích) cứu quốc, Thương gia cứu quốc, Phụ
lão cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu
vong... Như vậy, chiến lược cách mạng ngày càng được hoàn thiện và luôn
đi đôi với những sách lược cách mạng mềm dẻo, thêm bạn bớt thù (như thu
hút cả cai ký, đốc công, phú nông, địa chủ chống Pháp - Nhật vào Mặt trận
cứu quốc). Chiến lược, sách lược đó phù hợp với yêu cầu cách mạng và
nguyện vọng của quần chúng nhân dân, được cụ thể hoá trong Chương
trình cứu nước của Mặt trận Việt Minh. Qua nhiều con đường bí mật và bán
công khai, Chương trình thâm nhập vào đại chúng, tạo nên Cao trào tiền
khởi nghĩa rộng lớn, rồi dẫn đến Tổng khởi nghĩa thành công (chứ không
phải đó chỉ là phong trào "tự phát" của quần chúng như có người đã nói).
- Thực thi quyền dân tộc tự quyết của ba nước Đông Dương
Quyền dân tộc tự quyết là vấn đề quan trọng trong chiến lược cách
mạng và trong quan hệ quốc tế. Từ lâu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận
thức rõ vấn đề quyền dân tộc tự quyết. Bởi vậy, trong Chương trình tóm tắt
của Đảng năm 1930, Người đã nhân danh Đảng Cộng sản Việt Nam công
bố vấn đề này. Nhưng quyết định đó không sớm được chấp nhận. Từ Luận
cương chính trị, tháng 10-1930 cho đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương
7, tháng 11-1940, Đảng vẫn khẳng định chỉ có một Đảng Cộng sản Đông
Dương lãnh đạo cách mạng của cả ba nước Việt Nam, Cao Miên, Ai Lao.
Đến Hội nghị Trung ương 8, tháng 5-1941, do Người chỉ đạo, Đảng mới
quyết định thành lập ba đảng với ba mặt trận của ba nước như trên đã nói.
Nghị quyết Hội nghị khẳng định: "chiến thuật hiện tại của Đảng ta là phải
vận dụng một phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh
thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc
Việt Nam)... vậy mặt trận hiệu triệu của Đảng ta hiện nay ở Việt Nam là
Việt Nam độc lập đồng minh, hay nói tắt là Việt Minh. Đảng ta và Việt
Minh phải hết sức giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào tổ chức ra Cao Miên độc

lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh để sau đó lập ra Đông Dương
độc lập đồng minh". Kèm theo đó là các sách lược mềm dẻo của ba Đảng
nhằm tranh thủ được nhiều nhân vật thuộc hoàng gia và thân sỹ yêu nước
vào Mặt trận cứu quốc, góp thêm sức mạnh cho cách mạng. Với tinh thần
dân tộc tự quyết, sự phát triển song song của cách mạng ba nước Đông
Dương từ đó trở đi ngày càng thu được những thành tựu to lớn. Điều đó
chứng tỏ, quyết sách chiến lược nói trên là đúng đắn và sáng suốt.
- Bố trí thế trận cách mạng và sắp xếp lực lượng cách mạng phù
hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử
Khi tình thế cách mạng có sự chuyển biến mau lẹ, đối tượng cách
mạng luôn thay đổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã
vận dụng một cách xuất sắc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào nhận
thức xã hội Việt Nam để đề ra các quyết sách chiến lược đúng đắn. Đó là
nhận thức rõ các mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu trong xã hội,
xác định rõ kẻ thù chính, kẻ thù phụ và hậu bị quân của chúng để sắp xếp
Tiền phong quân, Hậu bị quân trực tiếp, Hậu bị quân gián tiếp của cách
mạng Việt Nam. Cụ thể, lúc đầu mũi nhọn của cách mạng chĩa vào thực
dân xâm lược Pháp và tay sai phong kiến. Khi Nhật vào Việt Nam, Pháp
làm tay sai cho Nhật, kẻ thù chủ yếu của cách mạng là Pháp - Nhật. Từ
năm 1943 trở đi, Nhật ngày càng lấn chân Pháp ở Việt Nam, kẻ thù chủ
yếu của cách mạng được xác định lại là Nhật - Pháp. Từ ngày 9-3-1945
(ngày Pháp đầu hàng Nhật) trở đi, kẻ thù chủ yếu của cách mạng chỉ còn là
phát-xít Nhật và tay sai. Điều này có tầm quan trọng rất lớn trong việc bố
trí thế trận cách mạng và lực lượng cách mạng.
Từ năm 1943, bên cạnh Mặt trận Việt Minh là lực lượng nòng cốt,
Đảng còn thành lập Mặt trận Dân chủ chống phát-xít và tuyên bố gia nhập
Đồng Minh quốc tế chống phát-xít. Với sách lược này, ở trong nước có thể
thu hút được các lực lượng dân chủ chống phát-xít, kể cả ấn kiều, Pháp
kiều, Hoa kiều; ở ngoài nước có thể coi Anh, Mỹ, Pháp, Trung Quốc đều là
bạn đồng minh. Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp từ ngày 25 đến

ngày 28-2-1943 khẳng định: "Từ Xô - Đức chiến tranh bùng nổ
(22-6-1941), cuộc thế giới chiến tranh lần thứ hai này đã tiến lên giai đoạn
mới và đã thay đổi tính chất. Nó không còn là đế quốc chủ nghĩa chiến
tranh nữa, mà là chiến tranh phát-xít xâm lược và chống phát-xít xâm lược"
(5). Vì vậy, "Muốn cho Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát-xít Nhật -
Pháp có thêm vây cánh, chúng ta phải ra sức tìm kiếm các phái đảng chống
phát-xít của người ngoại quốc ở Đông Dương và đề nghị với Việt Minh
liên minh với họ theo tinh thần bình đẳng và tương trợ đặng chính thức
thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương" (6). Sách lược này
tạo nên thế chính nghĩa cho Việt Minh trong sự nghiệp kháng Nhật, cứu
nước. Khi giành được chính quyền từ tay phát-xít Nhật, cách mạng Việt
Nam đã có thế hợp pháp là đứng vào hàng ngũ Đồng Minh chống phát-xít
để ra Tuyên ngôn Độc lập và tiếp đón quân Đồng Minh vào giải giáp quân
Nhật. Pháp (Đờ Gôn) và Tàu (Tưởng) - thuộc hàng ngũ Đồng minh chống
phát-xít, dù có ý đồ tái xâm lược Việt Nam cũng không thể phủ nhận được
chân lý hiển nhiên này.
- Thực thi phương châm chiến lược "kết hợp chặt chẽ đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang", tiến từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng
khởi nghĩa
Trong thế trận lấy nhỏ đánh lớn, lấy yếu địch mạnh, cách mạng Việt
Nam vừa phát huy truyền thống vũ trang anh hùng, bất khuất của ông cha,
vừa vận dụng hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng. Hình thức này

×