Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 70 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
---  ---

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA: 2011 – 2015
Đề Tài

CÁC TRƢỜNG HỢP KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA
NGƢỜI BỊ HẠI

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S Mạc Giáng Châu

Huỳnh Thủy Tiên

Bộ môn Tƣ pháp

MSSV: 5117435
Lớp:Luật Tƣ pháp

Cần Thơ, tháng 12/ 2014


NHẬN XÉT CỦA QUÝ THẦY CÔ

..........................................................................................................................


..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
Cần thơ, ngày……tháng……năm 2014


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI ................................................................ 4
1.1 Một số khái niệm cơ bản ............................................................................... 4
1.1.1 Khái niệm khởi tố vụ án hình sự ........................................................... 4
1.1.1.1 Định nghĩa vụ án hình sự .................................................................. 4
1.1.1.2 Căn cứ khởi tố vụ án hình sự ............................................................. 5
1.1.2 Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại ........ 8

1.1.2.1 Định nghĩa khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại...... 8
1.1.2.2 Ý nghĩa của việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị
hại ..................................................................................................................... 9
1.1.3 Khái niệm ngƣời bị hại ......................................................................... 11
1.1.3.1. Định nghĩa người bị hại ................................................................. 11
1.1.3.2.Đặc điểm pháp lý về người bị hại .................................................... 13
1.1.4.Khái niệm trƣờng hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời
bị hại .................................................................................................................. 15
1.1.4.1. Định nghĩa trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại ........................................................................................................ 15
1.1.4.2. Đặc điểm của các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại ................................................................................................ 16
1.2. Cơ sở lý luận về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu cảu ngƣời bị hại ... 18
1.2.1. Tầm quan trọng và ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của ngƣời bị hại........................................................................................................ 18
1.2.1.1. Tầm quan trọng của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại ............................................................................................................... 18
1.2.1.2. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại . 19
1.2.2. Nguyên tắc cơ bản bảo vệ ngƣời bị hại trong các trƣờng hợp khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại..................................................... 20
1.2.2.1. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự ................. 20
1.2.2.2. Nguyên tắc chỉ được khởi tố khi người bị hại có yêu cầu .............. 21
1.2.2.3. Nguyên tắc khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố thì không được yêu
cầu lại ............................................................................................................. 22

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên



Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

CHƢƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ CÁC TRƢỜNG HỢP KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
YÊU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI ........................................................................... 24
2.1 Các trƣờng hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại căn
cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm ............................. 24
2.1.1. Căn cứ vào tính chất của tội phạm..................................................... 24
2.1.2. Căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm .............................. 27
2.2 Các trƣờng hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại căn
cứ vào loại tội phạm đƣợc thực hiện ............................................................. 28
2.2.1. Nhóm tội phạm xâm phạm sức khỏe con ngƣời ................................ 28
2.2.1.1. Định nghĩa ...................................................................................... 28
2.2.1.2 Khách thể ......................................................................................... 32
2.2.1.3. Thiệt hại .......................................................................................... 32
2.2.2. Nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm con ngƣời...................... 35
2.2.2.1. Định nghĩa ...................................................................................... 35
2.2.2.2. Khách thể ........................................................................................ 38
2.2.2.3. Thiệt hại .......................................................................................... 39
2.2.3. Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ..................................... 40
2.2.3.1. Định nghĩa ...................................................................................... 40
2.2.3.2. Khách thể ........................................................................................ 41
2.2.3.3. Thiệt hại .......................................................................................... 41
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN
THIỆN QUY ĐỊNH CÁC TRƢỜNG HỢP KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI .............................................................. 44
3.1 Vấn đề pháp lý .............................................................................................. 45

3.1.1. Đối với các trƣờng hợp quy định tại Điều 105 Bộ luật tố tụng hình
sự nên bãi bỏ ..................................................................................................... 45
3.1.1.1. Tồn tại ............................................................................................. 45
3.1.1.2. Giải pháp ........................................................................................ 48
3.1.2 Đối với các trƣờng hợp quy định tại Điều 105 Bộ luật tố tụng hình
sự cần đƣợc bổ sung ......................................................................................... 49
3.1.2.1. Tồn tại ............................................................................................. 49
3.1.2.2. Giải pháp ........................................................................................ 51
3.2 Về mặt thực tiễn ........................................................................................... 52

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

3.2.1 Đối với các trƣờng hợp không đƣợc quy định là các trƣờng hợp
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại .................................... 52
3.2.1.1. Tồn tại ............................................................................................. 52
3.2.1.2. Giải pháp ........................................................................................ 55
3.2.2 Đối với các trƣờng hợp đƣợc quy định là các trƣờng hợp khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại ....................................................... 56
3.2.2.1. Tồn tại ............................................................................................. 56
3.2.2.2. Giải pháp ........................................................................................ 58
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO


GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

LỜI NÓI ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, mà trong đó cơ
quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự, tiến hành việc xác định có hay không các dấu hiệu của tội phạm trong hành
vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó.1 Đây là một
trong những giai đoạn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tố tụng hình sự. Bên
cạnh đó, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại cũng được pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam quan tâm, đây là trường hợp đặc biệt của khởi tố vụ án hình
sự nên nó sẽ có những đặc điểm chung của khởi tố vụ án hình sự. Mặt dù vậy, vấn
đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại vẫn còn nhiều vướng mắc,
mà hơn cả là các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
vẫn là một vấn đề còn nhiều tồn tại cần có giải pháp hợp lý hơn. Bởi lẽ, người bị hại
là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất, là người
chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số những người tham gia tố tụng. Nhưng vì nhiều lý

do khác nhau mà quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại chưa được bảo vệ tốt
và kịp thời, vì vậy cần thiết phải có các nguyên tắc phù hợp để bảo vệ người bị hại.
Mặt khác, các trường hợp người bị hại được quyền yêu cầu khởi tố theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành tại khoản 1, Điều 105 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 người viết cho rằng có phạm vi còn chưa hợp lý, hoàn thiện và còn
nhiều thiếu sót so với thực tiễn. Quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại chỉ giới hạn
trong một số trường hợp, trong khi đó trên thực tế vẫn còn một số trường hợp tương
tự xảy ra mà người viết cho rằng người bị hại hoàn toàn có thể có quyền yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng ngày càng phát sinh nhiều bất
cập dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại cũng như của Nhà nước
không được đảm bảo.
Chính vì những lẽ trên, người viết chọn nghiên cứu đề tài “Các trường hợp
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại” nhằm làm sáng tỏ vấn đề
mang tính cấp thiết và thời sự này.

1

Lê Cảm, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng, Tạp
chí Luật học, số 02/2004.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

1

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại


2.

Luận văn tốt nghiệp

Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi bài viết này người viết tập trung nghiên cứu một số vấn đề

liên quan đến các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
như: khái niệm, căn cứ, ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự và khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại. Đồng thời, đề cập đến khái niệm, đặc điểm pháp lý
của người bị hại cũng như các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành,
các nguyên tắc bảo vệ người bị hại trong các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại. Qua quá trình nghiên cứu người viết cũng đưa ra một số
tồn tại và một số kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp
luật về các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Nội
dung nghiên cứu đề tài này chỉ chủ yếu giới hạn trong phạm vi các trường hợp khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
3.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài “Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại” là nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận, pháp lý cũng
như những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Người viết tập trung chủ yếu đề cập
đến các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại nhằm làm
rõ các trường hợp này là những trường hợp có tính chất ít nghiêm trọng và có thể
giải quyết bằng các biện pháp khác. Từ đó giúp người bị hại hiểu rõ hơn để cân
nhắc việc khởi tố có mang lại lợi ích cho người bị hại hay không. Ngoài ra, người
viết đưa ra những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn và hướng đề xuất bổ sung, sửa
đổi để góp phần hoàn thiện quy định các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu

cầu của người bị hại trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, để có những thông tin cần thiết và thuận tiện cho
việc nghiên cứu làm sáng tỏ những nội dung, những quy định trọng tâm của đề tài
“Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại” người viết
đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích luật viết,
tiếp cận thông tin, tra cứu tài liệu dựa trên những quy định của pháp luật và các văn
bản có liên quan, nghiên cứu thông qua các phương tiện thông tin (sách, báo,
website…), các bài viết, các công trình nghiên cứu có giá trị và tạp chí chuyên
ngành… để xử lý, tổng hợp những thông tin cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

Từ đó phân tích quy định kết hợp với thực tiễn áp dụng, đưa ra ý kiến của bản thân
để giải quyết vấn đề cần nghiên cứu của đề tài.
5.


Cấu trúc đề tài

Trong nội dung nghiên cứu của đề tài thì ngoài lời nói đầu và danh mục tài
liệu tham khảo, kết luận. Để thuận tiện cho việc phân tích, theo dõi, nghiên cứu
cũng như tránh bỏ sót những vấn đề quan trọng cần đề cập, người viết trình bày nội
dung chính của đề tài làm ba chương cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại.
Chương 2: Những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành về các
trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
Chương 3: Một số tồn tại và giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện quy định các
trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
Đề tài nghiên cứu “Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại” là một vấn đề quan trọng trong pháp luật Tố tụng hình sự, nó đòi hỏi
người nghiên cứu đề tài cần có một thời gian dài nghiên cứu, tìm hiểu cũng như có
kiến thức sâu rộng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Do thời gian nghiên cứu hạn chế và
sự hiểu biết còn nhiều giới hạn nên có những thiếu sót, khiếm khuyết hay sai lầm
trong đề tài nghiên cứu này là điều không thể tránh khỏi. Tác giả rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến đánh giá, phê bình của thầy cô, các nhà nghiên cứu pháp
luật và các bạn sinh viên.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

3

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại


Luận văn tốt nghiệp

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CỦA NGƢỜI BỊ HẠI
1.1.

Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.

Khái niệm khởi tố vụ án hình sự

Quá trình giải quyết vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Có vụ án thì trải qua tất cả các giai đoạn tố tụng, có vụ án thì ít hơn, có thể dừng lại
ở bất kì giai đoạn nào nhưng vụ án nào cũng có giai đoạn khởi tố vụ án.2
Để xác định sự việc đã xảy ra có mang dấu hiệu của một vụ án hình sự hay
không thì không gì khác hơn là cần phải giải quyết bằng con đường tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ của cơ quan có thẩm quyền là xác minh những thông tin cơ bản ban đầu
để từ đó có thể đưa ra quyết định, xác định sự việc đã xảy ra đó có phải là vụ án
hình sự hay không, sau đó mới đưa vụ án vào giai đoạn điều tra. Những hoạt động
ban đầu này được thực hiện ngay trong giai đoạn đầu tiên của vụ án – giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, “khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của
quá trình tố tụng hình sự trong đó cơ quan có thẩm quyền thu thập, xử lý các thông
tin ban đầu và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ
án hình sự”3. Đây được xem là giai đoạn đầu tiên, và cũng có thể nói rằng đây là
một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự. Bởi giai đoạn này có nhiệm vụ riêng
mang đặc thù về chủ thể tố tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Thời điểm bắt
đầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là từ khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc phát hiện có dấu hiệu tội phạm và kết thúc khi
cơ quan tiến hành tố tụng ra một trong hai quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc
quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
1.1.1.1. Định nghĩa vụ án hình sự
Pháp luật hình sự Việt Nam chưa đưa ra khái niệm cụ thể về thế nào là vụ án
hình sự. Tuy nhiên, tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm
2009 đã quy định khái niệm tội phạm. Tội phạm là chế định quan trọng và chủ yếu
2

Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội,
2006, tr10,11.
3

Mạc Giáng Châu, Giáo trình luật Tố tụng Hình sự Việt Nam , Tập 2, Đại học Cần Thơ, Cần Thơ, 2010, tr
1,2.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

4

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

của luật hình sự, đồng thời nó còn“được xem như là điều kiện cần thiết có tính
nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải là tội phạm, giữa trách nhiệm

hình sự và những trách nhiệm pháp lí khác…”.4 Tội phạm được hiểu là những hành
vi gây nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự bảo vệ, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện. Hay nói khác hơn, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.5 Những quan hệ xã hội với
tư cách là khách thể bảo vệ của luật hình sự như: chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền
làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa… nếu chủ thể nào xâm phạm đến thì đều phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Như vậy, vụ án hình sự là vụ án mà các hành vi vi phạm là tội phạm, là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự. Hay nói khác hơn, vụ
án hình sự là vụ án phát sinh khi có dấu hiệu tội phạm từ đó cơ quan có thẩm quyền
sẽ khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003 để xác định ai là tội phạm và xử lý người phạm tội.
1.1.1.2. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Căn cứ khởi tố vụ án hình sự là hành vi có dấu hiệu của tội phạm đã được xác
định. Những vi phạm pháp luật xảy ra vô cùng phong phú, đa dạng trong đời sống
xã hội. Các vi phạm pháp luật đó được xử lí bằng các biện pháp khác nhau, trong đó
có biện pháp hình sự. Để đảm bảo cho hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm
có hiệu quả, tránh được những trường hợp oan sai có thể xảy ra, Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định chỉ được khởi tố vụ án khi hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm.
Nghĩa là chỉ có một căn cứ duy nhất để khởi tố vụ án hình sự là khi xác định được
sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm chứ không phải là đủ dấu hiệu tội phạm. Có thể
các thông tin mà cơ quan có thẩm quyền nhận được chưa phản ánh đầy đủ về tội
phạm đã xảy ra, nhưng là căn cứ để khẳng định rằng cần phải tiến hành tố tụng để
làm rõ vụ việc. Vì đây là thông tin, tài liệu về sự kiện phạm tội chứ không phải là
thông tin, tài liệu về người có hành vi phạm tội cho nên không phải trường hợp nào
cũng biết ai là người thực hiện hành vi phạm tội mà có chăng là biết được đã có tội
4


Nguyễn Ngọc Hoà, “Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 1991, tr. 9,
34.
5

Nguyễn Ngọc Hoà (Chủ biên), “Giáo trình luật hình sự Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội
2000, tr.33, 90, 101, 41.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

phạm xảy ra. Vì vậy mà khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan có thẩm
quyền phải khởi tố vụ án hình sự ngay chứ không phải đợi đến khi nào phát hiện
được ai là người thực hiện hành vi phạm tội mới quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Việc quyết định khởi tố vụ án là tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra để xác
định đầy đủ tình tiết của vụ án đảm bảo cho việc xử lý chính xác, khách quan. Khi
xác định dấu hiệu tội phạm phải dựa trên cơ sở do luật định, những thông tin từ
những nguồn nhất định. Tại Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định có 5 nguồn
tin cụ thể như sau:
-

Tố giác của công dân là việc người công dân tố cáo hành vi vi phạm pháp


luật của một người nào đó mà họ cho rằng đó là tội phạm, là hành vi gây nguy hiểm
cho xã hội. Pháp luật Tố tụng hình sự cũng có quy định tại Điều 101 là công dân có
thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ
quan khác, tổ chức. Điều này cho thấy công dân được phép tố giác những hành vi vi
phạm pháp luật hình sự ở bất kì cơ quan, tổ chức nào chứ không phải ở một cơ quan
hoặc chỉ là cơ quan tiến hành tố tụng.6 Việc quy định như thế là hợp lí. Bởi lẽ, nếu
quy định cụ thể ở một cơ quan nào đó thì việc công dân thực hiện quyền tố giác của
mình bị hạn chế về nhiều mặt. Vì không phải ai cũng có hiểu biết cơ bản về pháp
luật, điều kiện thuận lợi để đi đến nơi quy định để tố giác cũng như tâm lí lo lắng sự
trả thù từ phía người thực hiện hành vi phạm tội, sự phiền hà khi tố giác. Cho nên
rất nhiều khả năng để tránh những rắc rối có thể xảy ra mà công dân không thực
hiện quyền tố giác tội phạm của mình. Từ đó những thông tin về tội phạm sẽ không
được phát hiện nhanh chóng và xử lí kịp thời, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm
quyền trong công cuộc phòng chống tội phạm. Đồng thời, không những quyền tố
giác tội phạm cơ bản của công dân không được phát huy mà còn không đảm bảo
được việc bảo vệ được trật tự trong xã hội.
Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải
báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản. Điều này cũng có ý
nghĩa quan trọng thể hiện trách nhiệm của cơ quan, tổ chức nhận được tin tố giác
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền xem xét việc ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Song song đó,
pháp luật cũng quy định cho công dân được quyền tố giác tội phạm bằng nhiều hình
6

Mạc Giáng Châu – Nguyễn Chí Hiếu, Giáo trình Tố tụng Hình sự Việt Nam - Học phần 2 “Các giai đoạn

Tố tụng hình sự”, Khoa luật- Đại học Cần Thơ, Cần Thơ, 2010, Tr 4.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu


6

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

thức khác nhau như: bằng miệng, văn bản, điện thoại, điện tín….. Tuy nhiên, nếu tố
giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của
người tố giác.
Như vậy, pháp luật Tố tụng hình sự quy định cho phép công dân được quyền
tố giác tội phạm trong phạm vi rộng, với nhiều hình thức khác nhau đã tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm giữa Nhà nước và nhân
dân, không gây phiền hà cho người tố cáo, đảm bảo an toàn trật tự xã hội, góp phần
phát hiện và xử lí kịp thời các hành vi phạm tội.
-

Tin báo của cơ quan, tổ chức: cũng tương tự như căn cứ tố giác của công

dân, tin báo của cơ quan, tổ chức có thể là tin báo về tội phạm mà cơ quan, tổ chức
đó trực tiếp phát hiện và cho đó là hành vi phạm tội hoặc nhận được tố giác của
công dân. Và cơ quan tổ chức này báo cho cơ quan có thẩm quyền biết để kịp thời
xử lý vụ việc đã xảy ra mà rất có thể đó là tội phạm. Đây là điểm quy định phù hợp
của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam vì thể hiện tinh thần phối hợp của mọi tổ
chức, cá nhân trong việc đoàn kết bảo vệ trật tự xã hội chứ không phải chỉ riêng của
cá nhân hay chỉ riêng của Nhà nước.

-

Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phát huy vai trò to lớn của

các phương tiện thông tin đại chúng trong việc đấu tranh với các hiện tượng tiêu
cực và vi phạm pháp luật, Khoản 3 Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định
thông tin về tội phạm được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, là cơ
sở để khởi tố vụ án hình sự. Những tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng
rất đa dạng và mang tính thời sự cao mà có thể những thông tin này cơ quan có
thẩm quyền không biết đến. Những sự việc nêu trên các phương tiện thông tin như
báo chí, phát thanh, truyền hình… tuy không được trực tiếp gửi đến các cơ quan có
thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Nhưng các cơ quan này phải có trách nhiệm xem
xét để xác định có dấu hiệu tội phạm hay không và tiến hành giải quyết theo quy
định.
-

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm

lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát
hiện dấu hiệu của tội phạm. Tuy những chủ thể nêu trên chỉ có chức năng quản lí
trên các lĩnh vực hành chính cụ thể. Nhưng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
mình họ có nhiều điều kiện để phát hiện những sự việc có dấu hiệu tội phạm. Cho

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

7

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên



Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

nên những thông tin của các cơ quan này cũng là một trong số các căn cứ quan
trọng để khởi tố vụ án hình sự.
Người phạm tội tự thú. Theo Sổ tay thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao,
tự thú là tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình trong khi chưa ai
phát hiện được mình phạm tội. Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm
tội cụ thể nhưng trong quá trình điều tra tự mình nhận tội, khai ra hành vi phạm tội
khác của mình mà chưa bị phát hiện thì cũng được coi là tự thú với hành vi phạm
tội khác này.... Lời tự thú có thể được xem là một nguồn thông tin trực tiếp và là
một nguồn thông tin quan trọng về việc phạm tội. Trên thực tế, vẫn có nhiều trường
hợp người tự thú tự thú về tội nhẹ để che giấu tội nặng hơn hoặc nhận tội mà mình
không vi phạm. Cho nên cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm tra lại lời tự
thú, động cơ, mục đích của người tự thú, đối chiếu với các tài liệu, chứmg cứ khác
để xem lời tự thú có chính xác và đúng đắn hay không. Để từ đó đi đến kết luận có
dấu hiệu tội phạm hay không và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không
khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, các nguồn tin trên là những căn cứ quan trọng để khởi tố vụ án hình
sự. Tuy nhiên, 5 nguồn thông tin trên chỉ mới là cơ sở ban đầu để cơ quan tiến hành
tố tụng nghiên cứu nhằm xác định có đủ hay không căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
Vì trên thực tế không phải lúc nào các nguồn thông tin mà các chủ thể này cung cấp
cũng đúng sự việc xảy ra là tội phạm. Hay nói cách khác, có thể có các dấu hiệu nêu
tại Điều 100 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhưng vẫn không khởi tố vụ án hình
sự khi cơ quan tiến hành tố tụng không có căn cứ để khởi tố hoặc có những căn cứ
quy định không được khởi tố tại Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Vì
vậy, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm tiến hành kiểm tra xác minh nguồn tin

một cách toàn diện, khi nào xác định là sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm thì mới
tiến hành ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
1.1.2.

Khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại

1.1.2.1. Định nghĩa khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
Cả trong 2 Bộ luật của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam (Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003) đều thể hiện sự tiến bộ của
mình. Vì đều quy định vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
Tuy nhiên, cho đến nay Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành vẫn chưa đưa ra khái
niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là như thế nào. Điều này
GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

8

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

là một thiếu sót của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam vì chưa thể hiện được tính
toàn diện. Vì thế, theo quy định của điều luật (Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003) chúng ta có thể hiểu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
thì phải có sự yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại đó là
yếu tố cần thiết để cơ quan có thẩm quyền điều tra, xem xét để đưa ra một trong hai
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Đây được xem là trường hợp

đặc biệt của khởi tố vụ án hình sự nên nó sẽ có những đặc điểm chung của khởi tố
vụ án hình sự. Cũng giống như khởi tố vụ án hình sự, khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại cũng có giai đoạn khởi tố và giai đoạn này cũng là giai đoạn
mở đầu cho quá trình tố tụng. Tuy nhiên, khác với giai đoạn khởi tố của các vụ án
hình sự khác. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại chỉ
được tiến hành khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp
của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm tâm thần hoặc thể
chất và cần có yêu cầu khởi tố từ phía họ. Nếu không có yêu cầu của người bị hại
thì cơ quan có thẩm quyền không được ra quyết định khởi tố vụ án cho dù có phát
hiện có dấu hiệu tội phạm đi chăng nữa.
Từ những phân tích trên cho thấy, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại cần có đủ 2 điều kiện đó là: có yêu cầu của người bị hại và có dấu hiệu của tội
phạm. Khi hội đủ 2 điều kiện này thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại theo quy định của pháp luật.
1.1.2.2. Ý nghĩa của việc khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
Về mặt nguyên tắc, tất cả các vụ án hình sự xảy ra đều phải do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật mà không phụ
thuộc vào ý muốn của cá nhân và không ai có thể can thiệp. Hơn nữa, xử lý các tội
phạm hình sự là nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền lợi hợp
pháp của công dân, bảo vệ trật tự, kỉ cương của xã hội. Đồng thời, những vụ án hình
sự là những vụ án có tính chất nguy hiểm cho xã hội. Cho nên cơ quan có thẩm
quyền mặc nhiên được giải quyết để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật đối với
những hành vi phạm tội cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, khi xử lý các hành vi vi phạm pháp luật cũng còn đặc biệt chú ý đến việc
củng cố sự đoàn kết trong nhân dân, đến tương lai, hạnh phúc của những người bị
hại. Và có một số tội phạm mà tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội là không
đáng kể. Những tội phạm này thường ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm,

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu


9

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

lợi ích cá nhân…. của người bị hại nên có khi họ lại không mong muốn giải quyết
bằng con đường tố tụng hình sự. Vì lẽ đó, trong một số trường hợp nhất định pháp
luật cho phép người bị hại được phép lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc không
yêu cầu khởi tố vụ án. Mà cụ thể tại Khoản 1, Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 đã quy định rõ các trường hợp nào thì người bị hại được quyền yêu cầu
khởi tố. Đây là một quy định phù hợp với thực tiễn áp dụng và có ý nghĩa thật sự to
lớn đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại:
Một là, hạn chế gây thêm tổn thương về danh dự, nhân phẩm, làm lộ bí mật
đời tư của người bị hại. Vì người bị hại đã là người chịu xâm hại nặng nề và chịu
thiệt thòi nhiều nhất về cả thể chất lẫn tinh thần. Trên thực tế, một số tội phạm như
tội hiếp dâm, cưỡng dâm, làm nhục người khác hay vu khống,….. làm ảnh hưởng
đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của người bị hại. Nên khi người bị hại bị xâm hại
thì có thể họ không mong muốn giải quyết bằng pháp luật . Vì họ muốn bảo vệ uy
tín, danh dự cho mình và cũng mong muốn sự việc vi phạm được giải quyết nhanh
chóng mà không gây tác động lớn về mặt pháp lý đối với bản thân, thậm chí có khi
là bảo vệ cho chính người thực hiện hành vi phạm tội. Hơn nữa, các trường hợp
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là các trường hợp có tính lợi ích
cá nhân hơn, có mức độ nguy hiểm ít cho xã hội. Vì vậy, mà các trường hợp này là
các trường hợp đã dựa trên sự cân nhắc giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của
người bị hại nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích Nhà nước và lợi ích của người bị

hại.
Hai là, tạo khả năng và điều kiện cho người bị hại tự do lựa chọn cách giải
quyết hoặc là yêu cầu pháp luật can thiệp hoặc là tự dàn xếp với người đã gây thiệt
hại cho mình một cách ổn thỏa. Như đã phân tích bên trên, khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thương
về danh dự, nhân phẩm cũng như sự xâm phạm về lợi ích cho người bị hại. Nên
việc tự quyết định lựa chọn yêu cầu khởi tố hay không yêu cầu khởi tố là quyền của
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Pháp luật quy định người bị hại
được phép lựa chọn là thể hiện sự tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, tôn trọng sự
hòa giải trong nhân dân, tạo điều kiện cho họ thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình.
Ba là, làm giảm số vụ án phải đưa ra Tòa án xét xử, tiết kiệm được thời gian,
tiền của cho Nhà nước cũng như cho nhân dân. Ngày nay, trong xã hội ngày càng
gia tăng số vụ án hình sự nghiêm trọng và phức tạp, việc xử lý các vụ án này đã là

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

10

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

cả một vấn đề to lớn. Cho nên, những vụ án thuộc các trường hợp khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại là những vụ án thường ít nghiêm trọng và có
thể thỏa thuận hòa giải. Bởi một khi đã quyết định giải quyết sự việc bằng con
đường tố tụng hình sự thì có nhiều những hệ quả phát sinh, tốn kém, thủ tục rườm

rà…. Đó là chưa kể đến vì sự thiếu hiểu biết mà người bị hại yêu cầu giải quyết
bằng thủ tục tố tụng và bị thua kiện thì người bị hại phải chịu toàn bộ án phí. Mặt
khác, làm tăng thêm gánh nặng cho các Tòa án khi phải giải quyết quá nhiều vụ án
trong khi vụ việc đó có thể được các bên tự dàn xếp ổn thỏa và lợi ích của họ cũng
như của Nhà nước cũng được đảm bảo.
1.1.3.

Khái niệm ngƣời bị hại

1.1.3.1. Định nghĩa người bị hại
Pháp luật Tố tụng hình sự của các nước không có sự thống nhất trong việc sử
dụng thuật ngữ “người bị hại”. Trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, cộng
hòa Pháp hay Liên Bang Nga thì sử sụng thuật ngữ “người bị hại”. Còn trong pháp
luật Tố tụng hình sự của cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì sử dụng thuật ngữ là
“người tố cáo”. Ngoài ra, ở một số nước người ta còn sử dụng thuật ngữ là “người
bị thiệt hại” hay “nạn nhân”. Tuy có sự sử dụng khác nhau nhưng suy cho cùng thì
họ cũng là người bị tội phạm xâm hại và cần pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp. Thuật ngữ “người bị hại” là một thuật ngữ quen thuộc trong khoa học pháp lý
Tố tụng hình sự Việt Nam. Song, việc hiểu rõ về vấn đề này vẫn còn chưa thống
nhất và còn nhiều tranh cãi.
Theo Từ điển luật học, Người bị hại là “người bị thiệt hại về thể chất, về tinh
thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị
người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể
là pháp nhân”.7 Quan điểm khác lại cho rằng người bị hại không chỉ là cá nhân mà
còn có thể là pháp nhân, tổ chức.8
Như vậy, để hiểu rõ hơn về khái niệm người bị hại chúng ta cần làm rõ một số
khái niệm liên quan:
7

Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, 1999, tr. 198


8

Lê Tiến Châu, Người bị hại trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý số 1 (28)/2007; Thuỳ

Dương, Người bị hại và chức năng buộc tội của người bị hại trong tố tụng hình sự, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học
"Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
tháng 6/2006.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

11

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

Cá nhân: Cá nhân là khái niệm dùng để chỉ một con người cụ thể trong cộng
đồng, một thành viên của xã hội. Cá nhân cũng là một thực thể sinh vật, đồng thời
là một thực thể xã hội nhưng nó được xem xét một cách cụ thể với các đặc điểm
riêng biệt tồn tại trong một con người cụ thể. Hay nói khác hơn, cá nhân là con
người cụ thể và đang sống.9
Pháp nhân: là một tổ chức tồn tại vì mục đích nào đó. Pháp nhân phải có yếu

-


tố lý lịch cơ bản rõ ràng cho phép phân biệt với cá nhân các thành viên của nó và
với các pháp nhân khác. Một tổ chức sẽ trở thành pháp nhân khi nó đáp ứng đầy đủ
các điều kiện do pháp luật quy định.10
Tổ chức: là tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm
vụ chung hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó.
Dưới góc độ pháp luật thực định: Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam
quy định: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội
phạm gây ra”. Qua đó ta có thể thấy, người bị hại là một con người cụ thể bị hành
vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần, tài sản và đó cũng chính là đối
tượng của tội phạm. Những thiệt hại mà người bị hại gánh chịu là những thiệt hại
thực tế đã xảy ra, nếu không có thiệt hại xảy ra thì họ không được gọi là người bị
hại. Người bị hại tham gia tố tụng không mang quyền lực Nhà nước, mà việc thừa
nhận một người nào đó là người bị hại phải theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra,
Viện Kiểm sát, hoặc Tòa án đã được quy định tại khoản 4 Điều 51 Bộ luật Tố tụng
hình sự Việt Nam năm 2003. Như vậy, theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam thì
người bị hại chỉ có thể là cá nhân còn pháp nhân, tổ chức sẽ tham gia tố tụng với tư
cách là nguyên đơn dân sự khi có đơn yêu cầu.

9

Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình luật Dân sự, Tập 1, Đại học Cần Thơ, Cần Thơ, 2008, tr 2.

10

Xem thêm Bộ luật Dân sự 2005, Điều 84

Điều 84: Pháp nhân
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Được thành lập hợp pháp;

2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

12

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

Ngoài cá nhân, người viết cho rằng cần thừa nhận pháp nhân và kể cả tổ
chức không có tư cách pháp nhân cũng là người bị hại trong trường hợp bị thiệt hại
trực tiếp về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra. Do vậy, người bị hại là cá nhân, tổ
chức bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản. Người bị hại được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
công nhận khi xác định có dấu hiệu thiệt hại.
1.1.3.2. Đặc điểm pháp lý về người bị hại
Để quá trình giải quyết vụ án hình sự được toàn diện, khách quan và chính xác
thì việc xác định ai là người bị hại cũng như những thiệt hại mà họ bị xâm hại có
cần hậu quả thực tế xảy ra hay không thì mới được xem là người bị hại và bị xâm
hại như thế nào, trực tiếp hay gián tiếp và do ai xâm hại. Đây là tiêu chí rất quan
trọng để phân biệt người bị hại với nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án.Tất cả những đặc điểm đó đều là những đặc điểm quan trọng
để xác định ai là người bị hại. Người bị hại là một chế định pháp lý được quy định

cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Do đó người bị hại sẽ có những đặc
điểm pháp lý riêng biệt để có thể phân biệt với các đặc điểm pháp lý khác (nguyên
đơn dân sự). Có thể khái quát một số đặc điểm pháp lý về người bị hại như sau:
Người bị hại là cá nhân.11 Điều này có nghĩa là người bị hại chỉ có thể là thể
nhân, một con người cụ thể, tổ chức hoặc pháp nhân không thể là người bị hại. Bởi
lẽ khái niệm “người” ở đây là đề cập đến con người cụ thể. Người bị hại là người bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần... do hành vi phạm tội gây ra, mà thể chất và tinh thần
thì chỉ có và gắn liền với con người, một thể nhân cụ thể, thiệt hại này không
thể xảy ra đối với pháp nhân hay tổ chức. Thiệt hại do tội phạm gây ra có thể gây ra
những mất mát, đau đớn về tinh thần, thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản cho người
thân của người bị hại nhưng cũng không thể xem người thân đó là người bị hại.
Tham khảo quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự của các quốc gia cho thấy các
quốc gia đều quan niệm người bị hại trong vụ án hình sự chỉ có thể là con người cụ
thể chứ không phải một pháp nhân, một cơ quan nhà nước hay một tổ chức xã hội,
cho dù thiệt hại gây ra là thiệt hại trực tiếp, và đây cũng là quan điểm của các nhà
làm luật Việt Nam thể hiện rõ trong Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm

11

Xem thêm 1.1.3.1, Chương 1 của luận văn, Trang 12.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

13

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại


Luận văn tốt nghiệp

2003.12 Vì vậy mà từ trước đến nay người bị hại trong pháp luật Tố tụng hình sự
Việt Nam chỉ được nhắc đến với tư cách là một cá nhân mà thôi.
Người bị hại phải là người bị thiệt hại. Thiệt hại ở đây là những thiệt hại thực
tế xảy ra cho người bị hại. Đó là thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, về những tổn thất tinh thần mà người bị hại phải
gánh chịu…. Những thiệt hại này đều là những thiệt hại thực tế do tội phạm gây ra
và đó phải là những thiệt hại trực tiếp. Nếu là thiệt hại gián tiếp như một người bị
kẻ phạm tội xâm phạm đến sức khỏe của họ và một người khác trong gia đình phải
nghỉ việc để chăm sóc, và vì lẽ đó dẫn đến thu nhập gia đình bị giảm xuống. Trường
hợp này nếu có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì họ tham gia với tư cách là nguyên
đơn dân sự vì họ không bị tội phạm trực tiếp xâm hại. Trên thực tế, nếu một người
chưa bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thì người đó không được coi là người bị
hại.13
Thiệt hại của người bị hại phải do tội phạm gây ra. Thiệt hại của người bị hại
phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân
quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho người bị hại. Đây là điều kiện
quan trọng để phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự
khác trong vụ án hình sự. Hay nói khác hơn, thiệt hại mà không phải do tội phạm
gây ra được quy định trong Luật Hình sự thì sẽ không được pháp luật bảo vệ. Bởi
trong xã hội có rất nhiều mối quan hệ và nhiều những hành vi vi phạm pháp luật mà
pháp luật thì chỉ điều chỉnh ở một số tội phạm quy định cụ thể chứ chưa thể điều
chỉnh bao quát hết những mối quan hệ, những hành vi trái pháp luật ấy. Do đó,
những thiệt hại nào là do tội phạm gây ra và được Luật Hình sự bảo vệ thì mới được
xem là bị thiệt hại.
Như vậy, là người bị hại, trước hết, họ phải là con người cụ thể chứ không
phải là cơ quan, tổ chức. Họ phải là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc
về tài sản. Các thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản phải là thiệt hại do

tội phạm gây ra. Nếu đó là những thiệt hại xảy ra nhưng không phải do tội phạm
gây ra thì người bị thiệt hại cũng không phải là người bị hại trong vụ án hình sự.

12

Lê Tiến Châu , Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Người bị hại trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học Pháp
lý số 1(38) năm 2007.
13

Thạch Thị Tuyền, Một số vấn đề về người bị hại trong Tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học Cần Thơ, Cần
Thơ, 2011, Tr 11.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

14

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

Đây là tiêu chí rất quan trọng để phân biệt người bị hại với nguyên đơn dân sự và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
1.1.4.
Khái niệm trƣờng hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
ngƣời bị hại
1.1.4.1.


Định nghĩa trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của

người bị hại
Pháp luật thực định chưa có định nghĩa cụ thể về các trường hợp khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Ở phạm vi các trường hợp khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của người bị hại được hiểu là các trường hợp mà cơ quan có thẩm
quyền chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp
của người bị hạị khi có căn cứ khởi tố vụ án hình sự về các tội danh trong phạm vi
do pháp luật quy định. Cụ thể là các tội được quy định tại Khoản 1, Điều 105 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 sẽ được áp dụng khi có các trường hợp:
Trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỉ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% mà thuộc một trong số các
trường hợp mà pháp luật quy định như: dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ
đoạn gây nguy hại cho nhiều người; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều
lần đối với cùng một người hoặc nhiều người; có tổ chức; có tính chất côn đồ hoặc
tái phạm nguy hiểm…
Trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỉ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh do nạn nhân đã có hành vi trái luật nghiêm trọng đối với người thực hiện hành
vi phạm tội hoặc đối với những người thân thích của họ.
Trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỉ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng.
Trường hợp vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỉ lệ thương tật từ 31% trở lên.
Trường hợp vô ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác
mà tỉ lệ thương tật từ 31% trở lên do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính.


GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

15

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

Trường hợp phạm tội hiếp dâm, khi một người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ
lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn
khác giao cấu với nạn nhân mà trái với ý muốn của họ.
Trường hợp phạm tội cưỡng dâm, khi một người dùng mọi thủ đoạn khiến
người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng
giao cấu.
Trường hợp phạm tội làm nhục người khác, khi một người xúc phạm nghiêm
trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
Trường hợp phạm tội vu khống, khi một người bịa đặt, loan truyền những điều
biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan
có thẩm quyền.
Trường hợp cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc
chỉ dẫn địa lí đang được bảo hộ tại Việt Nam với quy mô thương mại.
Như vậy, các trường hợp mà pháp luật thực định quy định gồm 11 trường
hợp ở Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự là những trường hợp sẽ được khởi tố theo
yêu cầu của người bị hại. Ngoài những trường hợp nêu trên, yêu cầu của người bị
hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ không còn là điều kiện khởi tố vụ án

hình sự theo yêu cầu của người bị hại nữa.
1.1.4.2. Đặc điểm của các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại
Cơ quan điều tra chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại đối với các
tội thuộc khoản 1 các điều luật quy định về tội phạm tương ứng. Nghĩa là trong
phạm vi 11 trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 105 của Bộ luật Tố tụng
hình sự thì khi người bị hại có đơn yêu cầu khởi tố khi họ bị xâm hại thì cơ quan
điều tra mới được quyền khởi tố theo yêu cầu của họ. Mặt khác, người bị hại bị xâm
hại nhưng là những tội danh ngoài 11 trường hợp quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố
tụng hình sự thì dù họ có yêu cầu hay không cơ quan điều tra vẫn được phép khởi tố
theo nguyên tắc. Ngoài ra, nếu vì lí do nào đó mà người bị hại mặc dù bị xâm hại
trong những trường hợp được pháp luật quy định là họ có quyền yêu cầu khởi tố mà
họ không yêu cầu thì cơ quan điều tra cũng không được quyền khởi tố.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

16

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

Người bị hại bị xâm hại bởi các tội danh trên thì cần phải có yêu cầu khởi tố.
Yêu cầu khởi tố của người bị hại khi họ bị người thực hiện hành vi phạm tội xâm
hại trong 11 trường hợp quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự là việc rất
quan trọng. Bởi lẽ đây là điều kiện để cơ quan có thẩm quyền xem xét và ra quyết

định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Yêu cầu khởi tố của người bị hại
thường thông qua đơn yêu cầu khởi tố. Như vậy, nếu người bị hại có đơn yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền khởi tố vụ án trong những trường hợp mà điều luật trên quy
định và khi đã có đầy đủ căn cứ khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan có thẩm quyền sẽ
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Mặt khác, người bị hại chỉ có quyền yêu cầu
khởi tố vụ án trong một số tội phạm cụ thể đã được liệt kê và tội phạm đó cũng phải
bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở khoản 1 (khoản có khung hình phạt nhẹ nhất) của
điều luật. Tức là ngoài 11 trường hợp được pháp luật quy định người bị hại được
quyền yêu cầu khởi tố thì người bị hại không có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình
sự. Đồng thời, người thực hiện hành vi phạm tội phạm tội trong 11 trường hợp đó
nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở khoản 1 của các điều luật tương ứng
thì yêu cầu khởi tố của người bị hại vẫn không được chấp nhận.Ví dụ tại Điều 104
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỉ lệ
thương tật dưới 11%, không gây cố tật thì được coi là thương tích nhẹ, chưa phải bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, ngoài những trường hợp đã được liệt kê và
người thực hiện hành vi phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì yêu vầu
của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ không còn là điều kiện
khởi tố vụ án hình sự.
Chủ thể thực hiện tội phạm này có thể là những người có mối quan hệ với
người bị hại như người thân trong gia đình, hàng xóm, bạn bè, đồng nghiệp…. Vì
các trường hợp như cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, phạm tội vu khống, cố ý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp…thì các chủ
thể thường có mối quan hệ mâu thuẫn với nhau hoặc vì ganh ghét nhau, vì sự hơn
thua nhau, vì lợi ích…nên họ thực hiện hành vi phạm tội. Chính vì mối quan hệ gần
gũi đó mà có khi họ không muốn giải quyết bằng pháp luật mà có thể giải quyết
bằng sự hòa giải, thỏa thuận giữa các bên để bảo đảm lợi ích, danh dự, uy tín…. cho
các bên.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu


17

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

1.2.

Luận văn tốt nghiệp

Cơ sở lý luận về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại

1.2.1. Tầm quan trọng và ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của ngƣời bị hại
1.2.1.1.

Tầm quan trọng của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị

hại
Xây dựng và hoàn thiện chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại là một trong những mục tiêu mà pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam luôn
quan tâm và chú trọng. Bởi lẽ, đây là những trường hợp nhằm đảm bảo quyền, lợi
ích hợp pháp, danh dự, nhân phẩm của công dân, thể hiện sự tôn trọng từ phía Nhà
nước đối với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Hay nói khác hơn là người bị
hại đương nhiên có quyền được Nhà nước bảo vệ trước các nguy cơ xâm hại từ
người phạm tội. Họ có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm.
Và họ cũng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự hoặc
không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với những trường hợp mà hành vi phạm tội

có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, tội phạm ít nghiêm trọng, không có tình tiết
tăng nặng định khung hình phạt và thuộc các trường hợp quy định tại Điều 105 Bộ
luật Tố tụng hình sự. Và khi họ đã cân nhắc giữa yêu cầu khởi tố và không yêu cầu
khởi tố sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của mình như thế nào. Vì vậy, việc khởi tố vụ
án hình sự có tầm quan trọng không những đối với người bị hại mà còn có tầm quan
trọng đối với Nhà nước cũng như trật tự an toàn xã hội:
Đối với người bị hại: bảo vệ chính quyền lợi cũng như danh dự, nhân phẩm
của người bị hại. Hay nói khác hơn là tạo điều kiện để người bị hại được cân nhắc
tính toán việc khởi tố có quá bất lợi cho lợi ích của họ hay không. Vì khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại là trường hợp do tính chất của vụ án và vì lợi
ích của người bị hại, các cơ quan có thẩm quyền không tự ý quyết định việc khởi tố
vụ án hình sự, mà việc khởi tố vụ án được thực hiện theo yêu cầu của người bị hại.
Đối với cơ quan tiến hành tố tụng: làm phát sinh quyền hạn của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án thực hiện các hành vi tố tụng nhằm phát hiện chính xác,
nhanh chóng và xử lý nghiêm minh các trường hợp phạm tội. Và đương nhiên
những trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại chỉ trong giới
hạn Nhà nước và xã hội chấp nhận được để bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều được
xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, người phạm tội và không làm oan người
GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp


vô tội. Khi người bị hại yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố vụ án hình sự tức
là họ mong muốn kẻ phạm tội phải bị trừng trị bằng pháp luật nên quá trình giải
quyết vụ việc có thể nhanh chóng hơn vì có sự hợp tác từ phía người bị hại tạo
thuận lợi cho việc điều tra làm rõ vụ án.
Đối với trật tự an toàn xã hội: bảo vệ các quyền và tự do của công dân, góp
phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong toàn xã hội. Việc khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại như đã phân tích bên trên là thể hiện sự
tôn trọng của Nhà nước đối với quyết định của người bị hại. Họ có quyền tự do
chọn lựa cách giải quyết sao cho phù hợp với lợi ích của mình. Nếu giữa người
phạm tội và người bị hại có thể thỏa thuận dàn xếp với nhau thì không có tội phạm
hình sự xảy ra. Người thực hiện hành vi phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình
sự nặng nề. Hơn nữa, sự cân nhắc, phối hợp của người bị hại với các cơ quan có
thẩm quyền cũng góp phần kịp thời phát hiện, phòng ngừa đấu tranh ngăn chặn các
loại tội phạm nguy hiểm.
1.2.1.2. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
Pháp luật ghi nhận những trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại là xuất phát từ lợi ích của người bị hại. Như đã phân tích ở trên đây là
một trường hợp đặc biệt và nó thể hiện ở một số ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, thể hiện được tính dân chủ trong nhân dân, quan tâm đến nguyện
vọng cũng như tạo điều kiện cho người bị hại có sự cân nhắc tính toán xem khi yêu
cầu khởi tố thì có phù hợp với lợi ích của mình không.
Thứ hai, thể hiện một khía cạnh của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự
nước ta. Nói cách khác, chính vì khởi tố vụ án hình sự trái với ý muốn của người bị
hại nên có thể gây thêm những mất mát, thiệt hại cho họ, vì vậy mà các nhà làm luật
đã quy định những trường hợp cụ thể cần khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại để đảm bảo lợi ích cho người bị hại cũng như phù hợp với lợi ích của
Nhà nước.
Thứ ba, đều là các tội ít nghiêm trọng nên có thể giải quyết bằng con đường
hành chính, dân sự, giảm bớt việc phải giải quyết bằng việc truy cứu trách nhiệm

hình sự.

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

19

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại

Luận văn tốt nghiệp

Thứ tƣ, nếu cơ quan có thẩm quyền chủ động khởi tố có thể gây thêm những
tổn thất về tinh thần, làm lộ bí mật đời tư của người bị hại, phá vỡ sự tha thứ, hoà
giải và thoả thuận bồi thường giữa các bên.
Thứ năm, để hạn chế những trường hợp quyết định khởi tố có thể mang lại lợi
ích rất nhỏ cho xã hội nhưng lại gây thiệt hại lớn hơn cho lợi ích của người bị hại.
Đây là một điểm cần được quan tâm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Bởi lẽ, quá trình xử lý vụ án là mang lại sự công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất về tài sản và tinh thần
mà tội phạm đã gây ra cho người bị hại. Vậy nếu xử lý vụ án mà mang lại những
tổn thất lớn hơn cho người bị hại thì điều này hoàn toàn vô lý. Điển hình như những
vụ án cưỡng dâm, người bị hại không yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khởi tố vì để
bảo vệ danh dự cho mình, nhưng cơ quan này vẫn khởi tố thì vô hình chung điều
này làm lộ bí mật đời tư của người bị hại, tiếp tục làm họ bị tổn thương về mặt tinh
thần. Như vậy, việc đưa vụ án ra giải quyết có thể răn đe được những người khác
thực hiện hành vi phạm tội nhưng lại dẫn đến thiệt hại vô cùng to lớn cho người bị
hại như trên thì cần có sự cân nhắc. Bởi lẽ, người bị hại có quyền bảo vệ danh dự,

uy tín của mình vì đó là lợi ích, danh dự của cá nhân họ. Nên việc yêu cầu khởi tố
hay không là quyền của họ trong các trường hợp họ được pháp luật cho phép yêu
cầu khởi tố vụ án hình sự. Nếu vụ việc có thể giải quyết bằng sự thỏa thuận thì pháp
luật cũng không nên quá nguyên tắc mà gây ra những thiệt hại lớn hơn cho người bị
hại.
1.2.2.
Nguyên tắc cơ bản bảo vệ ngƣời bị hại trong các trƣờng hợp khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của ngƣời bị hại
1.2.2.1. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, là hiện tượng tiêu cực mang
tính khách quan trong đời sống xã hội. Do đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự
người phạm tội cũng là một đòi hỏi mang tính khách quan và luôn thường trực đặt
ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ
án hình sự là một nguyên tắc quan trọng trong chế định các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, đặt ra trách nhiệm bảo đảm tính hiệu quả, chủ
động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện trách nhiệm khởi tố vụ
án hình sự và truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, trong việc thực hiện
phần lớn các nhiệm vụ, mục tiêu của Tố tụng hình sự được xác định tại Điều 1 Bộ

GVHD: Th.S Mạc Giáng Châu

20

SVTH: Huỳnh Thủy Tiên


×