Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

một số biện pháp chơi chữ trên báo tuổi trẻ cười

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.96 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN

NGUYỄN THỊ NGÂN
MSSV: 6106408

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHƠI CHỮ TRÊN BÁO
TUỔI TRẺ CƯỜI

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: ThS. NGUYỄN THỊ THU THỦY

Cần Thơ, Năm 2014

1


ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Phạm vi nghiên cứu
3. Lịch sử nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHƠI CHỮ VÀ TUỔI TRẺ CƯỜI
1.1. Giới thiệu về Tuổi trẻ cười
1.2.



Chơi chữ và các cách chơi chữ

1.2.1. Chơi chữ là gì
1.2.2. Các cách thức chơi chữ
1.2.2.1. Các cách chơi chữ theo quan niệm của Cù Đình Tú
1.2.2.2. Các cách chơi chữ theo quan niệm của Lê Trung Hoa
và Hồ Lê
2.2.2.3. Các cách chơi chữ theo quan niệm của Triều Nguyên
CHƯƠNG II. CÁC CÁCH THỨC CHƠI CHỮ TRONG TUỔI TRẺ
CƯỜI
2.1. Tuổi trẻ cười chơi chữ bằng cách sử dụng cấu trúc đối nhau về

nghĩa
2.2. Tuổi trẻ cười chơi chữ bằng cách mô phỏng những sáng tác sẵn có
2.2.1. Tuổi trẻ cười chơi chữ bằng cách mô phỏng sáng tác dân

gian
2.2.1.1. Tuổi trẻ cười chơi chữ theo cách mô phỏng ca dao
2.2.1.2.

Tuổi trẻ cười chơi chữ theo cách mô phỏng tục ngữ,

thành ngữ
2


2.2.2. Tuổi trẻ cười chơi chữ bằng cách mô phỏng sáng tác văn

chương, khoa học

2.3. Tuổi trẻ cười chơi chữ dựa vào phong cách văn bản: giả từ điển
2.3.1. Tuổi trẻ cười chơi chữ bằng cách từ điển tra ngược
2.3.2. Tuổi trẻ cười chơi chữ bằng cách từ điển tra chéo
2.3.3. Tuổi trẻ cười chơi chữ bằng cách từ điển tra quanh

PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAMM KHẢO
MỤC LỤC

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Cuộc sống ngày càng hiện đại, theo đó, con người cũng ngày càng phát sinh
những nhu cầu phù hợp với sự phát triển của thời đại. Không chỉ có những đòi hỏi
về vật chất, cơ sở hạ tầng mà mỗi ngày, họ còn có những đòi hỏi cao hơn về giải trí,
thông tin,… Trong số ấy, không thể không nhắc đến báo chí – một kênh thông tin
khá phổ biến của xã hội. Không chỉ cung cấp thông tin cần thiết hàng ngày, báo chí
hàng giờ, nâng cao kiến thức, hiểu biết cho nhân loại, mà còn giúp con người thư
giãn, giải trí sau những giờ phút lao động thường nhật. Theo đó, nhu cầu của độc
giả đối với các trang báo cũng ngày một nâng cao, tinh tế và sâu sắc hơn.
Phát triển song hành cùng nhu cầu ngày càng cao của độc giả, Báo Tuổi Trẻ
cũng ngày càng phong phú, sâu sắc từ hình thức đến nội dung và trở thành một
trong những tờ báo hàng đầu Việt Nam. Tuổi Trẻ chú trọng cải tiến từ hình thức
trang báo đến nội dung nhằm ứng nhu cầu thông tin liên tục của độc giả. Sau gần
bốn mươi năm báo Tuổi Trẻ đã cho ra đời tám ấn phẩm bao gồm cả báo in và báo

mạng. Mỗi ấn phẩm có nội dung và hình thức phát hành khác nhau nhằm đáp ứng
nhu cầu và điều kiện đa dạng của độc giả. Và một ấn phẩm rất đắc của báo Tuổi Trẻ
chính là Tuổi Trẻ Cười, đây là ấn phẩm báo in cười thành công nhất trong tất cả các
báo cười hiện nay. Tuổi Trẻ Cười phản ánh tất cả những vấn đề trong cuộc sống xã
hội,…thông qua tiếng cười trào phúng hấp dẫn và cuốn hút người đọc vào từng kì
báo.
Ra đời từ năm 1983 và là một trong những tờ báo trào phúng có ý nghĩa nhân
văn nhất của nước ta, Tuổi Trẻ Cười đã ngày càng khẳng định vị trí ưu ái trong giới
độc giả. Với chơi chữ, Tuổi Trẻ Cười đã thực sự mang đến sự chiêm nghiệm cuộc
sống, nhận thức giá trị nhân sâu sắc qua từng tiếng cười châm biếm.
Là một độc giả say mê Tuổi trẻ cười, đồng thời nhận thấy những điều thú vị
và ý nghĩa qua từng bài viết, từng chuyên mục của tờ báo, người viết đã tìm đến đề
tài Một số biện pháp chơi chữ trên báo Tuổi Trẻ Cười. Qua đây, người viết
mong muốn dùng những hiểu biết của mình phần nào làm rõ những yếu tố tạo nên
4


tiếng cười của tờ báo, cũng như hi vọng tìm tòi, nghiên cứu cái hay, cái độc đáo của
tờ báo, đặc biệt về khía cạnh ngôn ngữ. Qua đó, người viết hi vọng sẽ góp phần làm
phong phú đề tài và giới thiệu Tuổi trẻ cười ngày càng đến gần hơn với đông đảo
độc giả.

2.

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU

Về mặt lí luận, vấn đề chơi chữ đã được trình bày khá đầy đủ trong công
trình Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng việt của Cù Đình Tú. Qua đó, Cù Đình
Tú đã khái quát những bình diện chơi chữ từ khái niệm, tác dụng, chức năng đến
những phương tiện chơi chữ thường gặp với những ví dụ cụ thể: Chơi chữ bằng các

phương tiện ngữ âm chữ viết (cùng âm, phiên âm tiếng nước ngoài, chiết tự), chơi
chữ bằng phương tiện từ vựng ngữ nghĩa (cùng nghĩa, nhiều nghĩa, trái nghĩa, cùng
trường ý niệm, yếu tố Hán Việt và thuần Việt), chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp
(đánh tráo quan hệ ngữ pháp trong câu, tách ghép yếu tố trong câu tạo nên quan hệ
ngữ pháp khác).
Bên cạnh công trình của Cù Đình Tú là công trình nghiên cứu của Đinh
Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa- Phong cách học tiếng Việt. Chơi chữ được trình
bày bao gồm: Lối nhại, lối tách từ, lối tách từ và ghép từ mới, phép đối, câu đố, nói
lái, dẫn ngữ tập Kiều. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ điểm qua chưa nêu rõ những đặc
điểm của từng cách chơi chữ.
Về mặt ứng dụng, có các công trình nghiên cứu hiệu quả như sau:
Thú chơi chữ của Lê Trung Hoa và Hồ Lê được xem là đóng góp cho sự
phong phú dữ liệu cho nghiên cứu chơi chữ. Thú chơi chữ nêu lên những ý nghĩa
của việc chơi chữ và những ứng dụng của nó. Trong công trình này đã tổng hợp 14
kiểu chơi chữ chính, nó được định nghĩa phân tích và có nguồn dữ liệu dẫn chứng
đa dạng: Chơi chữu bằng cách nói lái; Chơi chữ bằng cách đảo từ, đảo ngữ, đảo
cú; Chơi chữ bằng hiện tượng đồng âm; Chơi chữ bằng cách trùng điệp; Chơi chữ
bằng cách mô phỏng (nhại từ, nhại ngữ, nhại câu, nhại bài); Chơi chữ bằng các
hiện tượng đồng nghĩa; Chơi chữ bằng hiện tượng đồng âm và đồng nghĩa, Chơi
chữ bằng cách tạo ra hiện tượng nghịch nghĩa, nói ngược; Chơi chữ bằng các liên
nghĩa thật giả; Chơi chữ bằng cách sử dụng nghĩa phái sinh thật giả; Chơi chữ
bằng cách tả chữ, xáo chữ, chiết tự, tách từ; Chơi chữ bằng cách hạn vận, hạn từ;
5


Chơi chữ bằng thành ngữ, tục ngữ, ca dao; Cách chơi chữ chung quanh truyện
Kiều. Nghiên cứu không chỉ đề cập đến các cách chơi chữ trong văn chương mà
trong cả sinh hoạt hằng ngày.
Cù Đình Tú không chỉ trình bày quan niệm về chơi chữ ông còn trình bày
các kiểu loại chơi chữ:

-

Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết với các kiểu loại: dùng

các phương tiện cùng âm, dùng cách phiên âm tiếng nước ngoài, dùng cách điệp
âm, dùng cách chiết tự.
-

Chơi chữ bằng phương tiện từ vựng- ngữ nghĩa với các kiểu loại: dùng

từ cùng nghĩa,dùng từ nhiều nghĩa, dùng từ trái nghia, dùng các từ có cùng trường ý
niệm, dùng các từ tố Hán Việt và thuần Việt có nghĩa tương đương.
-

Chơi chữ bằng các phương tiện ngữ pháp với các kiểu loại: tách và ghép

các yếu tố trong câu theo những quan hệ ngữ pháp khác nhau, đánh tráo quan hệ
ngữ pháp trong câu
Triều Nguyên có nhiều công trình nghiên cứu về chơi chữ từ ca dao đến văn
chương. Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt của Triều Nguyên đã trình
bày về bản chất và kiểu dạng của nghệ thuật chơi chữ. Các hình thức chơi chữ trong
ca dao với các phương tiện chủ yếu: Ca dao chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm,
chữ viết; ca dao chơi chữ bằng phương tiện từ vựng- ngữ nghĩa; Chơi chữ bằng
phương tiện ngữ pháp; chơi chữ bằng cách nói lái. Trong đó mỗi phương tiện chơi
chữ được phân thành các kiểu loại cụ thể như sau: Ca dao chơi chữ bằng phương
tiện ngữ âm, chữ viết có 6 kiểu loại: Chơi chữ theo cách nhại, mô phỏng âm thanh;
chơi chữ theo cách điệp âm; chơi chữ bằng phương tiện cùng âm; chơi chữ theo
cách phiên âm chệch tiếng nước ngoài, chơi chữ bằng hình thức chiết tự Hán Việt.
Ca dao chơi chữ bằng phương tiện từ vựng- ngữ nghĩa có 6 kiểu loại: Chơi chữ
bằng cách dùng từ cùng nghĩa, chơi chữ bằng cách dùng từ nhiều nghĩa, chơi chữ

bằng cách dùng từ trái nghĩa, chơi chữ bằng cách dùng từ cùng trường ngữ nghĩa,
chơi chữ bằng cách dùng các đơn vị Hán việt và thuần Việt có ý nghĩa tương đương
và một số dạng chơi chữ hỗn hợp. Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp có 3 kiểu
loại: Chơi chữ bằng cách tách từ để đặt vào một cấu trúc đối xứng, chơi chữ bằng
cách đảo trật tự vị trí từ ngữ để làm thay đổi chức năng ngữ pháp ngữ nghĩa, chơi
6


chữ bằng cách tạo ra một ngữ cảnh để biến tên gọi sự vật, hiện tượng thành một
nòng cốt đơn. Chơi chữ bằng cách nói lái được Triều Nguyên phân thành 2 cách:
Nói lái theo cách hoán vị âm tiết rồi chuyển đổi dấu thanh, nói lái theo cách giữ
nguyên phụ âm đầu rồi hoán vị phần vần, dấu thanh có thể chuyển đổi hay giữ
nguyên. Bên cạnh việc lí giải các cách chơi chữ trong ca dao nghiên cứu còn lí giải
về bản chất và các kiểu dạng chơi chữ trong văn chương.
Bàn về các công trình nghiên cứu chơi chữ trong văn chương, Triều Nguyên
đã có những đóng góp không nhỏ với bốn công trình lớn nối tiếp nhau:
-

Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt- Chơi chữ bằng

phương tiện ngữ âm và chữ viết của Triều Nguyên đã tập trung phân tích về các
cách thức chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết. Nghiên cứu tập trung lí
giải cụ thể những kiểu dạng chơi chữ trong văn chương người Việt. Chơi chữ theo
cách cùng âm, chơi chữ theo cách nhại, cách gần âm, chơi chữ theo cách phiên âm
tiếng nước ngoài, chơi chữ theo cách điệp âm, chơi chữ theo cách nói lái, chơi chữ
theo cách đan xen ngôn ngữ giữa các ngôn ngữ, một số cách chơi chữ về chữ viếtchữ Hán, một số cách chơi chữ về chữ viết- Chữ quốc ngữ bằng cách cách thức
đánh vần chữ Quốc ngữ; đọc chữ cái chữ viết tắt chữ Quốc ngữ; Viết rút gọn tác
phẩm theo tự dạng Quốc ngữ và đồ hình. Với mỗi kiểu loại chơi chữ Triều Nguyên
đã lí giải và nêu những ví dụ cụ thể làm rõ vấn đề.
-


Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt- Chơi chữ bằng

phương tiện ngữ nghĩa nghiên cứu đã đi thẳng vào vấn đề các cách thức chơi chữ
trên phương tiện ngữ nghĩa cùng với các ví dụ điển hình. Chơi chữ theo cách dùng
nghĩa , chơi chữ theo cách trái nghĩa, chơi chữ theo cách nhiều nghĩa, chơi chữ
theo cách lệch nghĩ, chơi chữ theo hướng khoán nghĩa, chơi chữ theo cách bác bỏ
“A mà lại B”, chơi chữ bằng cách tạo nghĩa đôi về nghĩa, chơi chữ dựa vào trường
nghĩa , chơi chữ dựa vào sở chỉ Các cách chơi chữ được thể hiện trên cùng một
phương tiện ngữ nghĩa nên các cách thức tập trung triển khai bình diện về nghĩa, tạo
nên mối quan hệ giữa các cách thức chơi chữ.
-

Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt – Chơi chữ có sự tham

gia của ngữ liệu ngoài văn bản trình bày với ba vấn đề lớn gồm các cách chơi chữ
cụ thể, các vấn đề đóng góp cũng như hạn chế của nghiên cứu và một số vấn đề cần
bàn thêm. Triều Nguyên đã trình bày ba cách thức chơi chữ chủ yếu của phương
7


tiện: Chơi chữ theo cách tách một bộ phận ở ngữ liệu là tác phẩm văn học, văn hóa,
rồi đặt vào ngữ cảnh mới, mâu thuẫn với ý nghĩa vốn có của bộ phận được tách;
Chơi chữ theo cách dựa vào một tác phẩm trước để tạo nên một sáng tác mới bằng
cách phỏng tác, phóng tác, dịch lệch. Chơi chữ dựa vào Truyện Kiều như lẩy Kiều,
tập Kiều, đó và giải đó Kiều, câu đối và thơ thất ngôn từ Kiều, mô phỏng theo Kiều,
Bẻ lệch nghĩa Kiều, ngắt nhịp cho Kiều. Tổng hợp các nghiên cứu của Triều
Nguyên vấn đề đã được triển khai khá đầy đủ về lí thuyết lẫn thực tiễn. Bên cạnh đó
Triều Nguyên cũng đã tập hợp và lí giải hợp lí môt lượng lớn các dữ liệu sử dụng
nghệ thuật chơi chữ.

-

Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt - Chơi chữ bằng các

phương tiện ngữ pháp luật thơ và phong cách văn bản được Triều Nguyên phân
chia thành các kiểu dạng sau: Chơi chữ theo cách tách, ghép từ ngữ; Chơi chữ theo
cách đảo trật tự, vị trí của từ ngữ góp phàn làm thay đổi chức năng ngữ pháp, ngữ
nghĩa của văn bản; Chơi chữ theo cách chuyển từ ra ngữ, câu và rút gọn ngữ, câu;
Chơi chữ theo cách ngắt nhịp, buôn lững câu; Chơi chữ dưa vào phương ngữ tiềng
lóng; Chơi chữ dựa vào luật thơ và cấu trúc văn bản; Chơi chữ dựa vào phong
cách văn bản như hịch, cáo, sớ,văn tế, văn bia, giả kiểu từ điển (từ điển tra ngược
và từ điển tra tréo), giả kiểu khoa học, chính luận, hành chính.
Tuy có nhiều công trình nghiên cứu về chơi chữ từ lí thuyết tới ứng dụng
nhưng chưa có nghiên cứu nào về chơi chữ trên Tuổi trẻ cười.

3. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU NGHIÊN CỨU
Với việc thực hiện đề tài này, người viết hướng đến những mục đích nghiên
cứu như sau:
Về mặt khách quan Tuổi Trẻ Cười ngày càng được giới độc giả quan tâm bởi
yếu tố gây cười đã ăn sâu vào tâm trí người đọc. Với mong muốn khảo sát làm rõ
chơi chữ và cách thức chơi chữ tạo nên tính chất hài hước trong báo Tuổi Trẻ Cười,
người viết sẽ đi sâu tìm hiểu về các cách chơi chữ chủ yếu, từ đó nêu bật thông
điệp, nội dung truyền đạt, phản ánh trong ấn phẩm Tuổi Trẻ Cười.
Về phương diện chủ quan, người viết vô cùng yêu thích tờ báo này và rất có
hứng thú đi sâu tìm hiểu về cái đặc sắc trong tiếng cười của tờ báo qua việc phân
tích nghệ thuật chơi chữ. Vì vậy, người viết rất mong luận văn sẽ phần nào lột tả
8


được sự độc đáo của nghệ thuật này. Điều này giúp bản thân người viết và cả những

độc giả khi tiếp cận với luận văn sẽ phần nào hiểu thêm về giá trị sâu sắc qua nghệ
thuật chơi chữ mà Tuổi Trẻ Cười mang lại.
Nghiên cứu nhằm cung cấp một cái nhìn khá đầy đủ, toàn diện về nghệ thuật
chơi chữ trên Tuổi trẻ cười, trình bày những cách thức kiểu dạng chơi chữ phổ biến
và dễ nhận thấy với dẫn chứng cụ thể trên Tuổi trẻ cười.
Như vậy, nghiên cứu phải hệ thống hóa các phương tiện cách thức chơi chữ
trên Tuổi trẻ cười, chỉ ra giá trị thẩm mĩ khi sử dụng của các cách chơi chữ. Đồng
thời tổng hợp và phân tích dữ liệu từ Tuổi trẻ cười để dẫn chứng nhằm giúp người
đọc thưởng thức được cụ thể.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Hơn 30 năm tồn tại và phát triển, Tuổi Trẻ Cười đã mang đến cho người đọc
một góc nhìn về các khía cạnh cuộc sống, những trăn trở thời cuộc. Có cái cười vui
nhộn, có cái cười chua chát, có cái cười sâu cay. Tuổi trẻ cười phát hành hai số mỗi
tháng vào ngày 1 và 15 hàng tháng, đến nay Tuổi trẻ cười đã phát hành hơn 500 số
báo. Trong bài viết này người viết chỉ nghiên cứu về các cách thức chơi chữ phổ
biến và dễ nhận thấy trên Tuổi trẻ cười qua phạm vi 17 số báo: 471, 473, 475,
476,477, 478, 479,480, 482, 483, 484, 485, 489,490, 492, 493, 494.
5.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, người viết đã vận dụng một số phương pháp nghiên
cứu phổ biến phù hợp dưới đây:
Thứ nhất là phương pháp thống kê – phân loại :Trước hết phải sưu tầm tài
liệu, lập bảng thống kê và phân loại. Thống kê các hình thức, phương tiện chơi chữ
dựa trên tư liệu chơi chữ trong các số báo Tuổi trẻ cười. Qua đó, phân loại các cách
thức tạo nên cái hài trong chơi chữ nói chung và trên Tuổi trẻ cười nói riêng.
Thứ hai là phương pháp phân tích- tổng hợp: Phân tích dữ liệu theo định
hướng của các cách chơi chữ, qua đó giúp người đọc nhận thức về giá trị chơi chữ
trong Tuổi trẻ cười. Tổng hợp các cách thức chơi chữ được ứng dụng phổ biến trên
Tuổi trẻ cười.

9



10


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHƠI CHỮ VÀ TUỔI TRẺ
CƯỜI
I.

Giới thiệu về Tuổi Trẻ Cười

Báo Tuổi Trẻ ra đời chính thức ngày 2 tháng 9 năm 1975, đặt trụ sở đầu tiên
tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tiền thân của Tuổi Trẻ bắt đầu từ những tờ truyền
đơn và bản tin in roneo của sinh viên, học sinh Sài Gòn trong phong trào chống Mỹ.
Tuổi trẻ đã trải qua những chặng đường lịch sử đầy thăng trầm, nó có thể coi là một
trong những dẫn chứng điển hình về một tờ báo Việt Nam ít nhiều có tầm vóc và
chính kiến. Nhiều thế hệ phóng viên của Tuổi Trẻ đã tạo dấu ấn trên mặt báo và
được bạn đọc tại Việt Nam yêu thích như Hàng Chức Nguyên (cây bút viết phóng
sự về người nghèo trong xã hội), Thủy Cúc (chuyên mục Ký sự pháp đình), Cù Mai
Công, Binh Nguyên (ký sự đường xa), Hoài Lê (thể thao),... Là tờ báo tiên phong
trong tổ chức kinh doanh, báo Tuổi Trẻ có tiềm lực kinh tế thuộc loại mạnh nhất
trong các báo in ở Việt Nam. Do sức lan tỏa mạnh của tờ báo, các hoạt động từ
thiện - xã hội của báo Tuổi Trẻ khá mạnh góp phần làm thay đổi được số phận của
nhiều cá nhân, nhiều gia đình được tốt đẹp hơn.
Tuổi Trẻ Cười là một trong bốn ấn bản của báo Tuổi Trẻ, ra đời ngày
01/01/1984. Tuổi Trẻ Cười là tờ báo trào phúng duy nhất Việt Nam lúc đó, sau sự
thành công của báo Tuổi Trẻ Cười các báo cười khác cũng lần lượt ra đời như Làng
cười, Vui Cười,…nhưng xét cho cùng Tuổi Trẻ Cười vẫn thành công và được quan

tâm nhiều nhất.Báo Tuổi Trẻ Cười đã thực sự thành công trong suốt ba mươi năm
phát hành với những chuyên trang đặc trưng lí thú từ xã hội, pháp luật, thể thao,…
Trước hết là “Cười cái sự đời” với cây bút Đồ Bì chính là nhà văn nhà báo
Vũ Đức Sao Biển đảm nhiệm. Với chuyên trang này, nội dung mang một phong
cách chính luận phản ánh những vấn đề xã hội tiêu biểu nhất: “Cung điện ngâm
khúc”- những cơ quan hành chính được xây dựng hoành tráng, “Ăn cắp giờ công”,
“Hậu khẩu khổ- hậu khổ vì hộ khẩu”, “Cán bộ đánh bạc”,…

11


“Bức Tranh vân cẩu” phản ánh những vấn đề bất cập chưa có hướng giải
quyết là nổi lo của xã hội với những câu thơ dí dỏm. Đây là cái cười về nhân viên
hành chính cắt xén giờ công của cây bút Lê La:
“Coi quán như thể cơ quan
Gác lại bàn phím ta bàn chuyện…bia” (tr.9, TTC 477).
Một trong những mục lí thú của Tuổi trẻ cười là nhưng trang viết về hiện
tượng xã hội được khám phá: Đánh đề, bói toán, đột nhâp những nơi trá hình, trộm
kiểng, sơ chế thức ăn bẩn,…tất cả đều được làm rõ với những tình huống không
thiếu phần hài hước.
“Đáo tụng đình”, “Pháp sự lí đình” chuyên mục về pháp luật ở đây không
đơn thuần là những vụ phạm tội, xét xử với những lí lẽ biện minh vô cùng “ngây
ngô” của phạm nhân. “Bị cáo nói thiệt mà. Tự dung bị cáo thấy hay đau đầu, tai thì
nổi mụn nước đau lắm, là do bả ểm bùa bị cáo đó nên bị cáo mới giết bả” (Tr.13,
TTC 479).
Đồng hành cũng Tuổi trẻ cười là hàng loạt những sáng tác tranh biếm họa là
những hình ảnh sống động về các hiện tượng tiêu cực, bất cập trong xã hội. “Muôn
màu giao thông” cùng là những chuyên mục chính và hấp dẫn với sự hỗ trợ chủ yếu
từ tranh biếm họa. Hằng năm, Tuổi trẻ cười còn trao giải cho những bức tranh biếm
họa hay nhất về giao thông.

Bên cạnh những vấn đề chính trị xã hội Tuổi trẻ cười còn phản ánh nhiều vấn
đề về thể thao, gia đình, sức khỏe, giải đáp thắc mắc, thơ vui,….
Hiện nay, báo Tuổi Trẻ Cười được xem như một thư viện cười về nhiều lĩnh
vực từ chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục, gia đình,…tổng hợp mọi vấn đề đang
nhức nhói trong xã hội tạo nên một tràng cười giòn giã nhất.

II.
2.1.

Chơi chữ và các cách chơi chữ
Khái niệm về chơi chữ

Trong văn học Việt Nam, chơi chữ (còn được gọi là lộng ngữ) được sử dụng
khá phổ biến với nhiều quan điểm, khái niệm của các nhà nghiên cứu về chơi chữ
như sau:
-

Theo từ điển tiếng Việt, chơi chữ là “lợi dụng các hiện tượng đồng

âm, đa nghĩa,…trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định (như bóng gió,
châm biếm, hài hước,… trong lời nói”[Tr.166; 10],”một biện pháp tu từ, trong đó
12


ngữ âm, ngữ nghĩa văn tự, văn cảnh,…được vận dụng một cách đặc biệt nhằm đem
lại những liên tưởng bất ngờ lí thú” [Tr.404; 3].
-

Triều Nguyên là một trong nhà nghiên cứu có nhiều công trình về


chơi chữ, ông nhận định “chơi chữ là dùng các phương thức diễn đạt đặc biệt, sao
cho ở đó song song tồn tại hai lượng ngữ nghĩa (thông tin) khác hẳn nhau được
biểu đạt bằng cùng một hình thức ngôn ngữ, nhằm tạo nên sự thú vị mang tính chất
chữ nghĩa”[Tr.15; 4].
-

Theo PGS. Cù Đình Tú thì “chơi chữ là cách tu từ vận dụng linh hoạt

các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp của tiếng Việt nhằm tạo nên
phần tin khác loại song song tồn tại với tin cơ sở. Phần tin khác loại này- tức lượng
ngữ nghĩa mới- là bất ngờ về bản chất, không có quan hệ phù hợp với phần tin- tức
thông báo- cơ sở ” [Tr.206; 14]. Với định nghĩa này, Cù Đình Tú nêu lên tác dụng
chủ yếu của chơi chữ là tạo nên những liên tưởng bất ngờ, kích thích tình cảm và trí
tuệ con người. Bao gồm chức năng nhận thức và tình cảm. Chơi chữ phù hợp với
phong cách khẩu ngữ và chính luận nên thường được dùng để châm biếm, đã kích
hoặc vui đùa.
Chơi chữ được thể hiện ở tất cả các cấp độ, đơn vị của tiếng Việt, phạm vi
thể hiện rộng hơn các cách tu từ chỉ thể hiện ở một vài cấp độ, đơn vị nhất định như
từ hoặc câu.
Chơi chữ tạo ra hai lượng ngữ nghĩa mới, về bản chất không có quan hệ phù
hợp với lượng ngữ nghĩa cơ sở. Trong khi các cách tu từ khác các ý nghĩa do chúng
tạo ra luôn có nét tiếp cận hoặc tương đồng giữa hai đối tượng.
Do yêu cầu tương tác giữa chữ nghĩa và khả năng lĩnh hội nên chơi chữ
thường là văn bản hay thể loại ngắn, cực ngắn như câu đối, câu đố, ca dao, thơ tứ
tuyệt, truyện cười,… Muốn nhận ra cái hay của chơi chữ người đọc (người nghe)
phải đặt câu văn, câu nói trong mối quan hệ nhiều chiều, nhiều phía với các đơn vị
cùng bậc và khác bậc, nhằm khai thác tính chất nước đôi của các đơn vị ngôn ngữ
dựa vào sự hiện diện của văn cảnh.

2.2.


Các cách thức chơi chữ

Mỗi nhà nghiên cứu đều có những cách phân chia cách thức, kiểu loại chơi
chữ không giống nhau, mang quan niệm riêng của từng người.

2.2.1.

Các cách chơi chữ theo quan niệm cuả Cù Đình Tú
13


Cù Đình Tú phân chia chơi chữ ra bốn nhóm cách thức bao gồm: Chơi chữ
bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết
-

Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết với 6 kiểu dạng :
+ Dùng các phương tiện cùng âm:
“Bà già đi chợ cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng
Ông thầy xem quẻ nói rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn”
Trong đó, có 3 từ “lợi” lợi 1,2 là lợi ích, lợi 3 là lợi nướu.
+ Dùng cách phiên âm tiếng nước ngoài: Phiên âm các ngôn ngữ khác

sang chữ quốc ngữ
Ví dụ: Wesmoreland
Hakin

Vét mồ


hắc ín

+ Dùng cách điệp âm là xuất hiện khi các âm xuất hiện nhiều hơn mức
bình thường.
“Mênh mông muôn mẫu một màu mưa
Mỏi mắt miên man mãi mịt mờ
Mộng mị mỏi mòn mai một một
Mĩ miều may mắn mắn mây mà mơ”
+ Dùng cách chiết tự: Giảm bớt nét nào đó để làm thay đổi nghĩa của từ
Chữ đại là cả bỏ một nét ngang chữ nhân là người
-Chơi chữ bằng phương tiện từ vựng- ngữ nghĩa với 4 kiểu loại sau:
+ Dùng từ cùng nghĩa là dùng các từ cùng biểu thị một nội dung ngữ
nghĩa. Trong câu dưới đây, từ “chó” và “cầy” là hai từ cùng cùng nghĩa
“Đi tu phật bắt ăn chay
Thịt chó được ăn thịt cầy thì không.”
14


+Dùng từ nhiều nghĩa: là dùng các từ có khả năng tạo ra nghĩa khác
nhau trong từng ngữ cảnh khác nhau. Trong câu dưới từ “non” là một từ nhiều
nghĩa:
“Cò trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa”
+ Dùng từ trái nghĩa: dùng các từ đối nhau về nghĩa. Ví dụ: “Mỹ mà
xấu” trong đó, mỹ là đẹp trái nghĩa với xấu.
+ Dùng các từ tố Hán Việt và thuần Việt có nghĩa tương đương. Trong
ví dụ dưới đây bạch có nghĩa là trắng
“Da trắng vỗ bì bạch
Rừng sâu mưa lâm thâm”

-

Chơi chữ bằng các phương tiện ngữ pháp với 2 kiểu loại chủ yếu:
+ Tách và ghép các yếu tố trong câu theo những quan hệ ngữ pháp

khác nhau. Ví dụ: từ “tổ tôn” được tách như sau”
“Có tôn có tổ, có tổ có tôn, tôn tổ tổ tôn, tôn tổ cũ”
+ Đánh tráo quan hệ ngữ pháp trong câu. Ví dụ như:
“Ngũ phẩm sắc phong hàm cụ lớn
Trăm năm danh giá của bà to”
Theo Cù Đình Tú, tập Kiều là cách tu từ riêng, trong đó người ta mượn ý và
lời truyện Kiều làm phương tiện biểu đạt cho mình không phải là kiểu loại chơi chữ.

2.2.2. Các cách chơi chữ theo quan niệm của Lê Trung Hoa- Hồ

Theo hai nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa và Hồ Lê chơi chữ có 15 cách thức
cơ bản với những dữ liệu được phân tích cụ thể:
-

Chơi chữ bằng cách nói lái với 6 cách tạo nên bằng cách thay đổi vị

trí âm, vần và thanh điệu được trình bày với dữ liệu thực tế. Chẳng hạn “Quýt mơ
măng bông sên” đây không phải là một câu tiếng pháp thật ra là “Quăng sơ mít bên
sông”. Mang đến cho ngưới đọc sự bất ngờ thú vị.
15


-

Chơi chữ bằng cách đảo từ, đảo ngữ,đảo cú pháp được sử dụng khá


nhiều từ sáng tác văn chương đến ca dao, tục ngữ. Một vài ví dụ điển hình như:
sanh sự, sự sanh; Đại học, học đại, cá ăn kiến, kiến ăn cá,…
-

Chơi chữ bằng hiện tượng đồng âm được chia ra đồng âm thật sự như

đá (banh) và đá (cục), đồng âm có điều kiện như “Hoa Mua ai bán mà mua” mua
đầu là danh từ chỉ tên hoa, mua sau là hành động mua bán.
-

Chơi chữ bằng cách trùng điệp ( điệp âm, điệp ngữ, điệp vần, điệp

ngữ, điệp cú) được sử dụng ở tất cả các thể loại sáng tác văn chương, ca dao tục
ngữ, câu đối, câu vè,…Trường hợp điệp âm và điệp vần phổ biến hơn. Ví dụ: Thật
thà thẳng thắng thường thua thiệt; Lọc lừa lươn lẹo lại lên lương.
-

Chơi chữ bằng cách mô phỏng (nhại từ, nhại ngữ, nhại câu) là bắt

chước mô phỏng cái có sẵn để tạo ra cái mới na ná cái cũ. Ví dụ: Từ cách cấu tạo từ
ghép Hán Việt lực sĩ, nhạc sĩ, thạc sĩ…đã tạo ra từ thực sĩ nhằm mỉa mai những
người ăn hay hơn làm.
-

Chơi chữ bằng hiện tượng đồng nghĩa là các từ giống hoặc gần giống

nhau về mặt ý nghĩa. Ví dụ: các từ cùng nghĩa chỉ về “phụ nữ”
Nửa đêm giờ tí canh ba
Vợ tui, con gái, đàn bà, nữ nhi.

-Chơi chữ bằng hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa như trong “Qua đèo ngang”
có câu
“ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Nhớ nhà mỏi miệng cái gia gia”
-

Chơi chữ bằng cách nghịch nghĩa, nói ngược diễn ra ở cấp độ từ và

cú. Ví dụ: “Cái xấu của phái đẹp” trong đó, đẹp và xấu và hai từ có nghĩa trái
ngược.
-

Chơi chữ bằng liên từ nghĩa thật và liên từ nghĩa giả: Ví dụ

“Kiến đậu cành cam bò quấn quýt
Ngựa về làng Bưởi chạy lanh chanh” Đây là câu có cải hai liên nghĩa thật
“cam” và giả (đồng âm dị nghĩa) là quýt, bưởi, chanh.
16


-

Chơi chữ bằng cách sử dụng hiện tượng nghĩa phát sinh thật và giả:

nghĩa phái sinh là nghĩa sinh ra từ một từ gốc. Trong chơi chữ vơi dạng hiện và
dạng ẩn ví dụ: “Em vì tình mang ba lô đằng trước” nghĩa phái sinh của ba lô là bụng
bầu.
Các cách “tả chữ”, xáo chữ, chiết tự, tách từ: tả chử là miêu tả hình dáng của
chữ cái để dễ nhớ hoặc câu đố (O tròn như quả trứng gà), xáo chữ là tách các chữ
cái trong từ ngữ này gáp lại thành từ ngữ khác ( tên người Khánh Giư xáo chữ

thành Khái Hưng), chiết tự là tách các yếu tố tọa thành chữ trong chữ quốc ngữ
hoặc chữ Hán (“Nửa làm mứt, nửa nấu canh – Đến khi mất dấu, theo anh học trò” là
chữ Bí khi bỏ dấu là bi đồ chơi của học trò).
-

Chơi chữ bằng thành ngữ, ca dao, tục ngữ: có bốn cách là đưa ca dao

tục ngữ vào câu đố, mô phỏng các ca dao tục ngữ để tạo nên câu mới, đưa ca dao
tục ngữ vào câu đối, đưa ca dao tục ngữ vào thơ câu đối. Ví dụ cách chơi chữ đưa
ca dao tục ngữ vào câu đối:
“Má ơi đừng đánh con đau
Để con hát bội làm đào má coi” Trong đó, “con hát bội” cùng âm với tên một
loại côn trùng “con hát bội”.
-Chơi chữ bằng hạn vận, “hạn từ”: hạn vận là buộc phải theo một số quy
định nào đó trong làm thơ, hạn từ là số lượng từ nhất định trong là thơ.
-Chơi chữ chung quanh truyện Kiều như tập Kiều, lẩy Kiều, nhại Kiều, đố
Kiều,“đối” Kiều, ngắt câu, khoán thủ. Ví dụ theo cách nhại Kiều dựa trên câu “Có
tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữu tai một vần” như:
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tiền liền với chữ tiên một vần”

2.2.3. Các cách chơi chữ theo quan niệm của Triều Nguyên
Theo Triều Nguyên trình bày các kiểu loại chơi chữ bao gồm:
-

Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết với 8 kiểu loại:

17



+ Chơi chữ theo cách cùng âm xảy ra khi cùng một một tổ hợp âm
thanh nhưng có nhiều ý nghĩa khác nhau tương ứng, trong cùng một ngữ
cảnh.
Ví dụ: “Ví dầu ví dẫu ví dâu,
Ví qua ví lại, ví trâu vô chuồng”
Trong đó, ví có hai nghĩa một là “ví” biểu hiện của hò hát, “ví” hành
động dồn ép.
+ Chơi chữ theo cách nhại với các kiểu loại: nhại từ ngữ, nhại lời
nói, giọng nói, mô phỏng âm thanh. Ví dụ nhại từ ngữ:
“Chồng chổng, chồng chông
Chồng bát, chồng dĩa, nồi hông cũng chồng”
Các từ “chổng”, “chông” là các từ có nghĩa cùng với âm “chồng”
(chồng bát, dĩa) với “chồng” (người chồng) góp phần làm rõ hơn các từ này.
+ Chơi chữ theo cách phiên âm tiếng nước ngoài là cách chuyển một
từ ngữ thuộc ngôn ngữ khác tiếng Việt, ra dạng tiếng Việt có nghĩa và nghĩa
ấy không tương ứng với nghĩa vốn có. Các cách phiên âm từ tiếng Pháp,
phiên âm từ tiếng Anh, một số phiên âm từ vài ngôn ngữ khác, phiên âm từ
ngữ có tính chất thuật ngữ, tách ghép từ và đọc tên tắt tiếng nước ngoài.
Ví dụ phiên âm từ tiếng Anh: Excuse me

“Ếch kêu mi”.

+ Chơi chữ theo cách điệp âm với các kiểu điệp chủ yếu điệp phụ âm
đầu, điệp vần, điệp phụ âm đầu và vần, điệp thanh điệu, điệp tiếng và ngữ.
Ví dụ về điệp phụ âm đầu: “Tết tới túng tiền tiêu, tính toán tìm tay tử
tế” .
+ Chơi chữ theo cách lái âm (nói lái) với hai kiểu lái chỉ một tổ hợp
xuất hiện trên văn bản, lái cả tổ hợp cùng xuất hiện trên văn bản.
Ví dụ về chơi chữ một tổ hợp: “cô đạnh”
mắm với cà

“Đêm năm canh nằm sâu cô đạnh
18

canh độ, “má với cằm”


Ngày sáu khắc nhớ má với cằm”
+ Chơi chữ theo cách đan xen ngôn ngữ với các cách đan xen ngôn
ngữ đan xen thuần Việt – Hán Việt, đan xen thuần Việt- Pháp Việt, đan xen
Hán Việt- Pháp Việt, đan xen thuần Việt- Anh Việt.
Ví dụ:

“Hẩu lớ Khách đà năm bảy chú
Méc xì Tây cũng bốn năm ông”

Trong đó: “ Hẩu lớ” trong tiếng Hoa là được lắm, “Méc xì” (merci)
tiếng Pháp là cảm ơn
+ Một số cách chơi chữ về chữ viết : chữ Hán với các cách tách ghép
chữ Hán, chuyển hóa chữ Hán, đố chữ Hán, sấm kí có liên quan đến chữ
Hán, đọc nhầm chữ Hán, viết rút gọn tác phẩm theo tự dạng Hán và đồ hình.
“Chờ chàng chờ từ ngày một đến ngày mười
Chữ rằng, “đán tảo”, thiếp ngồi trông luôn”
Trong đó, “ngày” = “nhật” [日], “một” = “nhất” [一]; ghép “nhật”
trên “nhất” dưới thành “đán” [旦].
“ngày” = “nhật” [日], “mười” = “thập” [十 ]; ghép “nhật” trên “thập”
dưới thành tảo [早]. Hai từ “đán”, “tảo” đều có nghĩa là buổi sáng
+ Một số cách chơi chữ về chữ viết : chữ Quốc ngữ với các kiểu
dạng đánh vần chữ quốc ngữ, chuyển đổi các yếu tố thuộc bộ phận của âm
tiết chữ Quốc ngữ, đố chữ Quốc ngữ, đọc chữ cái, chữ viết tắt Quốc ngữ,
đọc nhầm đọc lệch do viết tắt chữ Quốc ngữ, , viết rút gọn tác phẩm theo tự

dạng Quốc ngữ và đồ hình.
Ví dụ: “Tiếp tiệp hoan hoàn, tê ư tư sắc tứ
Bình binh sự sứ, hát ô hô huyền hồ”
Trong đó, Năm tiếng cuối của hai vế “hát ô hô huyền hồ”, “tê ư tư
sắc tứ” là cách đánh vần chữ “tứ”, chữ “hồ”. Bốn tiếng đầu của hai vế “Tiếp
tiệp hoan hoàn”, “Bình binh sự sứ” mỗi cặp theo dạng điệp phụ âm đầu và
vần.
19


-

Chơi chữ bằng phương tiện ngữ nghĩa với 7 kiểu loại chủ yếu:
+ Chơi chữ theo cách dùng nghĩa với các kiểu loại chơi chữ bằng
cách tạo các từ ngữ cùng xuất hiện trên cùng một văn bản ngắn, đặt từ ngữ
cùng nghĩa vào các ngữ cảnh đối lập, giả cùng nghĩa, cùng nghĩa trong câu
đố, cách dùng nghĩa có kết hợp với các hình thức chơi chữ khác. Ví dụ về
cách dùng nghĩa của từ “vợ” cùng chỉ về “mẹ các con ta”, “phu nhân”, “bà
xã”:
“Vợ là mẹ các con ta,
Thường gọi bà xã, hiệu là phu nhân”
+ Chơi chữ theo cách trái nghĩa với các cách chơi chữ bằng cách
đặt cặp trái nghĩa A-B vào cấu trúc phủ định A mà (nhưng mà) B, đặt cặp
trái nghĩa AB –AC vào cấu trúc phủ định AB chứ không phải CD. Trong
câu sau với các cặp từ trái nghĩa “lành”-“chẳng lành”, “sâu”-“cạn”:
“Mình lành mà tiếng chẳng lành
Dạ sâu tiếng cạn, thực hành mà xem"
+ Chơi chữ theo cách nhiều nghĩa bằng các cách từ nhiều nghĩa
xuất hiện nhiều lần trong cùng một ngữ cảnh, từ nhiều nghĩa chỉ xuất hiện
một lần trong một ngữ cảnh nhất định.

“Sinh con rồi mới sinh cha,
Sinh cháu giữa nhà rồi mới sinh ông”
Trong đó, “sinh” ở đầu câu là sinh sản, sinh trong câu là tạo nên,
chuyển đổi.
+ Chơi chữ theo cách lệch nghĩa bằng các cách tạo từ ngữ lệch, tạo
sự hiểu lệch từ ngữ. ví dụ: ‘gô tang” đúng nghĩa là “cô tang”
“Lớp mười năm ngoái năm kia
Chương trình đâu có học về gô tang”
+ Chơi chữ theo hướng khoán nghĩa với các cách khoán nghĩa đặt ở
các vị trí đầu dòng, cuối dòng, giữa dòng và các vị trí khác. Ví dụ: hướng
khoán nghĩa đặt ở đầu câu ghép lại là “Chân lão cầm thú” nghĩa là “thật
quả cầm thú”
“ Chân tể tướng
Lão trung thần
20


Cầm chi phượng
Thú chi lân”
+ Chơi chữ theo cách bác bỏ “A mà lại B”, chơi chữ bằng cách tạo
nghĩa đôi về nghĩa. Chơi chữ dựa vào trường nghĩa như trực tiếp tạo ra các
từ cùng trường nghĩa, gián tiếp tạo ra các từ cùng trường nghĩa, tách trường
nghĩa trong câu đố, giả cùng trường nghĩa, hai từ ngữ cùng được tạo theo
lối sở thuộc hay ẩn dụ.
+ Chơi chữ dựa vào sở chỉ bằng cách tạo nhiều tổ hợp cùng sở chỉ,
tạo một tổ hợp có nhiều sở chỉ, tạo một tổ hợp không phải tên gọi thường
dùng, tạo lẫn trộn sở chỉ. Các cách chơi chữ được thể hiện trên cùng một
phương tiện ngữ nghĩa nên các cách thức tập trung triển khai bình diện về
nghĩa, tạo nên mối quan hệ giữa các cách thức chơi chữ.
-


Chơi chữ có sự tham gia của ngữ liệu ngoài văn bản Triều Nguyên đã

trình bày 3 kiểu loại chơi chữ chủ yếu:
+ Chơi chữ theo cách tách một bộ phận ở ngữ liệu là tác phẩm văn học,
văn hóa, rồi đặt vào ngữ cảnh mới, mâu thuẫn với ý nghĩa vốn có của bộ phận
được tách;
+ Chơi chữ theo cách dựa vào một tác phẩm trước để tạo nên một sáng
tác mới bằng cách phỏng tác, phóng tác, dịch lệch
+ Chơi chữ dựa vào Truyện Kiều như lẩy Kiều, tập Kiều, đó và giải đó
Kiều, câu đối và thơ thất ngôn từ Kiều, mô phỏng theo Kiều, Bẻ lệch nghĩa
Kiều, ngắt nhịp cho Kiều
-

Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp luật thơ và phong cách văn

bản với 6 kiểu loại:
+ Chơi chữ theo cách tách, ghép từ ngữ: tách từ song tiết AB đặt vào
cấu trúc đối xứng.
“Xa làm chi mà xa oan xa ức,
Xa tức xa tối xa vội xa vàng;
Không cho thiếp thở chàng than đôi lời “

21


Cấu trúc xAxB : xa oan xa ức (oan ức), xa tức xa tối (tức tối), xa vội
xa vàng (vội vàng).
Tách từ song tiết đặt vào cấu trúc khác:
“Bếp không có rác, gà bươi cóc;

Niêu chẳng còn meo, chuột gặm rùa.”
Khôi phục từ bị tách là : “Cóc rác”, “Rùa meo”
Tách ngữ: ngữ được sử dụng là ngữ cố định.
“Giang sơn một gánh cheo leo
Qua sông nỉ nước, qua đèo nỉ non”
“Nỉ nước, nỉ non” là một ngữ cố định.
+ Chơi chữ theo cách đảo trật tự, vị trí của từ ngữ góp phần làm thay
đổi chức năng ngữ pháp, ngữ nghĩa của văn bản. Với hai cách thức chủ yếu:
Đảo một bộ phận tùy chọn trong cấu trúc văn bản
“Sinh vi tài quan,
Tử nhập quan tài.
Kí sinh giả vinh,
Kì tử giả ai.”
Trong đó, tài quan là một chức quan nhỏ, quan tài là hòm, áo quan.
Đào toàn bộ văn bản theo một qui cách nhất định.
+ Chơi chữ theo cách chuyển từ ra ngữ, câu và rút gọn ngữ, câu:
Chuyển từ ra ngữ, câu:
“ Hổ mang là con rắn hổ có bầu” Hổ mang tên loài rắn độc bị biến
thành “con rắn hổ có chửa”. Tức là “hổ mang” bị tách thành hổ (cọp, rắn hổ)
là đề và mang (mang vác, có bầu) là phần thuyết để chơi chữ.
Rút gọn ngữ, câu là gạt ra khỏi ngữ một yếu tố, thành phần nào đó
khiến nghĩa bị biến đổi. Ví dụ: Quê hương chúng ta
chúng mình

đất mình,…
22

quê ta, đất nước của



Chúc hạnh phúc mãi mãi bên nhau cho đến ngày đầu bạc răng long
chức răng long
+ Chơi chữ theo cách ngắt nhịp, buôn lững câu: Mang hiện tượng
ngắt nhịp vào chơi chữ sẽ tạo ra cách ngắt nhịp không bình thường “Đừng
uống rượu…uống bia con nhé!”. Buông lững câu thường gặp ở cuối câu biểu
thị người nói diễn đạt chưa hết ý.
Trong một mẫu truyện ngắn đã vận dụng phương thức buôn lững
thành công
Ngữ: Thử đi
Ngôn: Mày là một thằng hâm…
Ngữ: Mày nói gì?
Ngôn: Tao bảo mày là thăng hâm…mộ bóng đá thứ thiệt đó.
+ Chơi chữ dựa vào luật thơ và phong cách văn bản
Chơi chữ dưa vào phương ngữ tiềng lóng: biểu hiện những biến thể
ngữ âm trong tiếng Việt.
A: Vợ mày chửa chửa
B: Chử chửa! thế vợ mày chửa chửa.
Theo phương ngữ Trung và Nam là
A: Vợ may có chửa chưa
B: Chưa chửa! thế vợ mày chửa chưa.
Chơi chữ dựa vào luật thơ và cấu trúc văn bản:Chơi chữ dựa vào luật
thơ với các cách: ngắt dòng thơ để ngắt đôi một từ, ngữ; dựa vào phối thanh
để thay đổi thanh điệu; vài kiểu chơi chữ kết hợp. Chơi chữ dựa vào cấu trúc
văn bản là phá vỡ một bộ phận theo thế cân bằng của cấu trúc là phải được
lập lại, chen vào cấu trúc một bộ phận cùng dạng nhưng có nội dung khác
biệt nhằm đánh lẫn nó vơi tổng thể mô hình
Hoan hô đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về
23



+ Chơi chữ dựa vào phong cách văn bản như hịch, cáo, sớ,văn tế, văn
bia, giả kiểu từ điển ( từ điển tra ngược và từ điển tra tréo, từ điển tra quanh),
giả kiểu khoa học, chính luận, hành chính.
Qua các nghiên cứu trên, người viết nhận thấy về số lượng các phép chơi chữ
theo các tác giả không giống nhau (Cù Đình Tú chia thành 12 phép chơi chữ, Lê
Trung Hoa và Hồ Lê chia thành 15 phép chơi chữ, Triều Nguyên chia thành 22
phép chơi chữ). Đồng thời cách sử dụng thuật ngữ các phép chơi chữ cũng khác
nhau (Lê Trung Hoa và Hồ Lê gọi là phép nhại thì Triều Nguyên gọi đó là phép mô
phỏng sáng tác sẵn có,…). Ngoài ra, phạm vi của các phép chơi chữ được các tác
giả giới hạn cũng khác nhau (Vơi tác giả Cù Đình Tú không xếp nói lái, tập Kiều
mà cho đó là một cách tu từ riêng biệt trong khi Triều Nguyên, Lê Trung Hoa và Hồ
Lê xếp chúng vào phép chơi chữ). Vì sự không thống nhất giữa các vấn đề trên nên
trong nghiên cứu này, người viết chỉ nghiên cứu về một số cách chơi chữ phổ biến
trên báo Tuổi Trẻ Cười.
-

Tuổi trẻ cười chơi chữ bằng cách mô phỏng những sáng tác có trước

-

Tuổi trẻ cười chơi chữ dựa vào phong cách văn bản: giả từ điển

-

Tuổi trẻ cười chơi chữ bằng cách sử dụng cấu trúc đối nhau về nghĩa

24



CHƯƠNG II.
MỘT SỐ CÁCH CHƠI CHỮ TRÊN BÁO TUỔI TRẺ CƯỜI
2.1. Tuổi trẻ cười chơi chữ theo cách trái nghĩa
Chơi chữ theo cách trái nghĩa có ba hình thức chủ yếu: đặt cặp trái nghĩa vào
cấu trúc phủ định (mà, nhưng mà); đặt cặp trái nghĩa vào cấu trúc phủ định (chứ
không phải) ; một số kiểu chơi chữ trái nghĩa khác như đặt cặp trái nghĩa đối phản
nghĩa. Dựa trên dữ liệu khảo sát, Tuổi trẻ cười sử dụng hai kiểu chủ yếu là đặt cặp
trái nghĩa vào cấu trúc phủ định mà (mà chẳng) và dùng cặp từ đối lập, trái nghĩa
trong câu
- Tuổi trẻ cười chơi chữ theo cách trái nghĩa bằng cách sử dụng các cặp trái
nghĩa. Các cặp từ trái nghĩa, đối lập tạo nên mâu thuẫn trong câu, dẫn đến một hàm
ý nhất định về nhất mạnh hay phản ánh về vấn đề, đối tượng. Trong 17 số báo khảo
sát Tuổi trẻ cười sử dụng 16 lần kiểu chơi chữ này:
1. “Rừng đi, biển ở lại” (Tr.10; TTC số 477)
2. “Anh béo hay anh gầy” (Tr. 28; TTC 477)
3. “Được và mất” (Tr.14; TTC số 480)
4. “Vô tiền khoáng hậu” (Tr.30; TTC số 480)
5. “Giống và khác nhau”
6. “Nhanh, chậm”

(Tr.14; TTC số 482)

(Tr. 14; TTC 484)

7. “Trong héo ngoài tươi” (Tr.16; TTC 484)
8. . “Có ít xít ra nhiều” (Tr.6; TTC 471)
9. “Thần khẩu hại xác phàm” (Tr.12; TTC 473)
10. “Ở chung, ăn riêng” (Tr.; TTC 473)
11. “Thả mồi bắt bóng” (Tr.8; TTC 488)
12. “Cột đi, họa ở lại” (Tr.10; TTC 488)

13. “Gần cầu dễ xa nhau” (Tr.11; TTC 488)
14. “Mất và được” (Tr.30; TTC 488)
15. “Đường rộng ý thức hẹp” (Tr.11; TTC 490)
25


×