Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 73 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 37 (2011-2015)

Đề tài:

NGƢỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giảng viên hƣớng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Trần Hồng Ca

Huỳnh Thị Trâm

Bộ môn: Luật Tƣ pháp

MSSV: 5117441
Lớp: Luật Hành chính – K37

Cần Thơ, 11/2014


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên em xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô của Trường Đại học Cần Thơ đã


tận tình giảng dạy, cung cấp lượng kiến thức vô cùng quý báu cho em trong chương trình
Đại học. Giúp em nắm vững những vốn lý thuyết để có thể tự tin vận dụng vào thực tiễn,
làm hành trang vững chắc bước vào cuộc sống, cải thiện kinh tế và có thể góp một phần
nhỏ của mình vào việc xây dựng xã hội phát triển.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên hướng dẫn – Cô Trần Hồng Ca, em
cảm ơn Cô đã giúp đỡ em trong thời gian em làm luận văn vừa qua. Cảm ơn Cô đã tận
tình sửa chữa, hướng dẫn em để em có thể hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp cử nhân
Luật như hôm nay.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các Thầy, Cô trong Hội đồng bảo
vệ luận văn tốt nghiệp đã cung cấp thêm những kiến thức mới để em có thể sửa chữa
những chỗ còn sai sót, cũng như bổ sung để vốn kiến thức của em được vững vàng hơn.
Cảm ơn các Thầy, Cô đã nhiệt tình góp ý giúp em có thể hoàn thiện hơn luận văn tốt
nghiệp của mình.
Em xin gửi lời chúc sức khỏe và thành công đến các Thầy, Cô!
Em xin chân thành cảm ơn!

GVHD: Trần Hồng Ca

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………..………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

GVHD: Trần Hồng Ca


SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

GVHD: Trần Hồng Ca

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƢỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY
RA ............................................................................................................................................. 3
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thiệt hại do tội phạm gây ra ......................................... 3
1.1.1. Khái niệm thiệt hại do tội phạm gây ra .................................................................. 3
1.1.2. Đặc điểm của thiệt hại do tội phạm gây ra ............................................................ 4
1.2. Khái niệm, đặc điểm của ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra và phân biệt
với một số khái niệm khác có liên quan............................................................................. 5
1.2.1. Khái niệm người bị thiệt hại do tội phạm gây ra ................................................... 5
1.2.2. Phân biệt khái niệm người bị thiệt hại do tội phạm gây ra với một số khái

niệm có liên quan .............................................................................................................. 6
1.2.3. Đặc điểm của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra ............................................. 8
1.2.3.1. Thiệt hại họ gánh chịu là thiệt hại do tội phạm gây ra ..................................... 8
1.2.3.2. Được tham gia tố tụng khi có sự công nhận của cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng ............................................................................................................. 9
1.3. Ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự 2003 ................................................................................................................................ 10
1.3.1. Người bị hại ........................................................................................................... 10
1.3.2. Nguyên đơn dân sự ............................................................................................... 11
1.3.3. Phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự .......... 12
1.4. Vị trí, vai trò của ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra ......................................... 14
1.5. Ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong lịch sử tố tụng hình sự ..................... 16
1.5.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988 ....................................................... 16
1.5.2. Giai đoạn 1988 đến trước 2003 ............................................................................ 17
1.5.3. Giai đoạn 2003 đến nay ........................................................................................ 17
CHƢƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
NGƢỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA .......................................................... 19
2.1. Quyền của ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra .................................................... 19
2.1.1. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu .................................................................. 19
2.1.2. Quyền được thông báo về kết quả điều tra .......................................................... 21
2.1.3. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch ........................................................................................................................ 22
2.1.4. Quyền đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường ............. 24
2.1.5. Quyền được tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến tranh luận tại phiên tòa để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình................................................................... 26
GVHD: Trần Hồng Ca

SVTH: Huỳnh Thị Trâm



NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

2.1.6. Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng .................................................................................................. 28
2.1.7. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường thiệt
hại cũng như hình phạt đối với bị cáo ........................................................................... 31
2.1.8. Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và trình bày lời buộc tội tại phiên tòa .... 35
2.1.9. Quyền được nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ
quyền lợi cho mình .......................................................................................................... 36
2.2. Nghĩa vụ của ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra ................................................ 38
2.2.1. Nghĩa vụ có mặt khi được triệu tập ...................................................................... 38
2.2.2. Không được từ chối khai báo ............................................................................... 39
2.2.3. Tuân thủ nội quy phiên tòa .................................................................................. 40
2.3. Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của ngƣời bị thiệt hại do tội phạm
gây ra .................................................................................................................................. 41
2.3.1. Đại diện đương nhiên theo pháp luật của người bị thiệt hại do tội phạm gây
ra ...................................................................................................................................... 41
2.3.2. Người đại diện theo ủy quyền của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra .......... 43
CHƢƠNG 3 NHỮNG HẠN CHẾ, GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN NGƢỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA ............. 45
3.1. Khái niệm ngƣời bị hại và nguyên đơn dân sự ........................................................ 45
3.1.1. Khái niệm người bị hại ......................................................................................... 45
3.1.1.1. Thực trạng và những tồn tại của khái niệm người bị hại ................................ 45
3.1.1.2. Hướng đề xuất hoàn thiện khái niệm người bị hại .......................................... 48
3.1.2. Khái niệm nguyên đơn dân sự .............................................................................. 49
3.1.2.1. Những tồn tại của khái niệm nguyên đơn dân sự ............................................ 49
3.1.2.2. Đề xuất hướng hoàn thiện khái niệm nguyên đơn dân sự ............................... 50
3.2. Quyền, nghĩa vụ của ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra ................................... 51
3.2.1. Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu .................................................................. 51
3.2.1.1. Những tồn tại của quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bị thiệt

hại do tội phạm gây ra .................................................................................................. 51
3.2.1.2. Đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu
cầu của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra ............................................................. 52
3.2.2. Quyền được thông báo kết quả điều tra ............................................................... 52
3.2.2.1. Những tồn tại của quyền được thông báo kết quả điều tra ............................. 52
3.2.2.2. Giải pháp góp phần hoàn thiện quyền được thông báo về kết quả điều tra ... 54
3.2.3. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án ............................................... 55
3.2.3.1. Những tồn tại của quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án .............. 55
GVHD: Trần Hồng Ca

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

3.2.3.2. Giải pháp góp phần hoàn thiện quyền kháng cáo bản án, quyết định của
Tòa án ........................................................................................................................... 56
3.2.4. Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập...................................................................... 56
3.2.4.1. Những hạn chế của nghĩa có mặt theo giấy triệu tập của người bị thiệt hại
do tội phạm gây ra ........................................................................................................ 56
3.2.4.2. Những giải pháp góp phần hoàn thiện quy định về nghĩa vụ có mặt theo
giấy triệu tập của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra .............................................. 57
3.2.5. Nghĩa vụ khai báo của người bị hại ..................................................................... 58
3.2.5.1. Những hạn chế về nghĩa vụ khai báo của người bị hại ................................... 58
3.2.5.2. Giải pháp góp phần hoàn thiện quy định về nghĩa vụ khai báo của người bị
hại ................................................................................................................................. 58
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Trần Hồng Ca


SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta ngày
càng mở rộng hợp tác quốc tế nhằm nắm bắt, tận dụng thời cơ phát triển kinh tế về mọi
mặt. Bên cạnh những lợi ích của việc hội nhập kinh tế thế giới thì cũng có không ích
những thử thách đặt ra đối với nước ta, mà đặc biệt đó là tình hình tội phạm ngày càng
gia tăng và phức tạp với những thủ đoạn tinh vi. Đối mặt với những khó khăn đó đòi hỏi
pháp luật nước ta phải hoàn thiện hơn để phù hợp với tình hình thực tế, để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra vì người bị thiệt hại do tội
phạm gây ra là chủ thể chịu thiệt thòi nhất trong vụ án hình sự.
Theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 thì người bị thiệt hại do tội phạm
gây ra gồm có người bị hại và nguyên đơn dân sự. So với Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 thì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã bổ sung quy định thêm một số quyền của
người bị hại và nguyên đơn dân sự theo hướng nâng cao vai trò của họ trong tố tụng hình
sự.
Tuy nhiên bên cạnh những đổi mới thì cũng còn tồn tại những hạn chế trong nhận
thức và pháp luật thực định, thực tiễn áp dụng pháp luật cũng gặp không ít khó khăn. Sai
lầm trong việc xác định tư cách tham gia tố tụng của người bị hại và nguyên đơn dân sự
mà nguyên nhân là do khái niệm người bị hại và nguyên đơn dân sự còn nhiều hạn chế.
Tình trạng vi phạm quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra không
được đảm bảo. Ví dụ tình trạng người bị hại không được thông báo về kết quả điều tra…
Vì vậy cần phải sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến người bị thiệt hại do tội
phạm gây ra nhằm nâng cao vị trí, vai trò của chủ thể này trong tố tụng hình sự. Có như
vậy sẽ đảm bảo được quyền của người bị hại và nguyên đơn dân sự, mặt khác đảm bảo

tranh tụng công khai, dân chủ khi có sự thực hiện đầy đủ quyền tố tụng của các bên trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra là một việc làm quan trọng mang tính cấp thiết,
đây cũng chính là lý do người viết chọn đề tài Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong
tố tụng hình sự Việt Nam làm luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự, cùng với những bất cập của pháp luật
và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, từ đó đưa ra kiến nghị với hoạt động lập pháp và
hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Luận văn tập trung nghiên cứu về
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra, bao gồm người bị hại và nguyên đơn dân sự.
GVHD: Trần Hồng Ca

1

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Nhiệm vụ nghiên cứu nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là tập trung làm rõ những
vấn đề sau:
- Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề nhận thức về người bị thiệt hại do tội phạm
gây ra trong tố tụng hình sự ở khía cạnh lý luận và pháp lý.
- Phân tích các quyền và nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự
- Đánh giá thực trạng áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam để tìm hiểu mức độ
đảm bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự.
- Đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam 2003 về người bị hại và nguyên đơn dân sự.

3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài này tập trung nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra như: Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò, quyền và
nghĩa vụ, người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra được quy
định trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. Qua quá trình nghiên cứu người viết cũng
đưa ra một số tồn tại và hướng đề xuất góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm
đảm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của
Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, bảo vệ quyền con người.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp tham khảo các tư liệu trong
các công trình đã công bố.
5. Cấu trúc luận văn
Trong nội dung nghiên cứu của đề tài thì ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài
liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài gồm có ba chương cụ thể như sau:
Chương 1 Lý luận chung về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
Chương 2 Quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại do tội
phạm gây ra
Chương 3 Những hạn chế, giải pháp góp phần hoàn thiện quy đinh liên quan đến
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra.

GVHD: Trần Hồng Ca

2

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƢỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA
Khi một chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định thì vấn đề xác định
đúng tư cách chủ thể, cũng như quyền và nghĩa vụ của chủ thể ấy là vấn đề rất cần thiết
nhằm đảm bảo quyền lợi của họ. Bởi vì nếu không xác định được tư cách tham gia tố
tụng của họ thì cũng không xác định được họ có quyền và nghĩa vụ gì theo quy định của
pháp luật. Trong tố tụng hình sự cũng vậy, việc xác định đúng tư cách tham gia tố tụng
cũng rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Vì mỗi
chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ khác nhau, nếu xác định sai tư cách tham gia tố tụng
không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của họ mà còn có thể dẫn đến bản án, quyết định
không phù hợp thực tế khách quan hoặc nghiêm trọng hơn còn có thể dẫn đến oan sai
trong quá trình tố tụng.
Do đó chương này tập trung làm rõ khái niệm người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
và các khái niệm pháp lý có liên quan, giúp người đọc nắm vững các lý luận liên quan
đến người bị thiệt hại do tội phạm gây ra và đặc điểm của họ. Làm tiền đề để dễ dàng tìm
hiểu các chương sau, bên cạnh đó còn giúp tìm hiểu người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
gồm những ai. Đặc điểm của từng nhóm người và cách thức phận biệt họ. Và cuối cùng
là quá trình hình thành của nhóm người bị thiệt hại do tội phạm gây ra, vị trí, vai trò của
họ trong tố tụng hình sự.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thiệt hại do tội phạm gây ra
1.1.1. Khái niệm thiệt hại do tội phạm gây ra
Khi tội phạm xuất hiện xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ,
trong đó có quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Khi này xuất hiện người bị thiệt hại
do tội phạm gây ra. Trước hết cần tìm hiểu thiệt hại do tội phạm gây ra là gì.
Thiệt hại do tội phạm gây ra là những tổn thất, mất mát trực tiếp hoặc gián tiếp do
tội phạm xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ về thể chất, tinh thần, tài
sản, tình trạng mất trật tự an toàn xã hội, trật tự pháp luật. Đó là những thiệt hại đáng kể
cho các quan hệ xã hội bị xâm hại.
Các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ là những quan hệ xã hội quan trọng đồng

thời cũng là khách thể bảo vệ của luật hình sự, những quan hệ xã hội đó đã được quy
định rất cụ thể tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, bao gồm: độc lập,
chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức,
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp

GVHD: Trần Hồng Ca

3

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đây là các
quan hệ xã hội gắn liền với lợi ích của Nhà nước, mọi công dân và toàn xã hội; và khi bị
xâm hại có thể làm ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội.1
Thiệt hại gây ra cho các khách thể được thể hiện qua sự biến đổi tình trạng bình
thường cho các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Sự biến đổi
có thể là sự biến đổi tình trạng bình thường của thực thể tự nhiên của con người thường
được gọi là thiệt hại về thể chất. Các thiệt hại này bao gồm thiệt hại về tính mạng (hậu
quả chết người như tội giết người), thiệt hại về sức khoẻ (hậu quả thương tích hoặc các
tổn hại cho sức khoẻ) như ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người
khác. Ngoài thiệt hại về thể chất, hành vi phạm tội còn có thể gây ra những thiệt hại tinh
thần. Đó là những thiệt hại gây ra cho nhân phẩm, danh dự, tự do của con người. Sự biến
đổi tình trạng bình thường của các đối tượng vật chất là khách thể của quan hệ xã hội
được gọi là thiệt hại vật chất. Các thiệt hại này có thể dưới dạng tài sản bị phá hoại, bị
huỷ hoại, hoặc dưới dạng tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép...2
1.1.2. Đặc điểm của thiệt hại do tội phạm gây ra

Thứ nhất, thiệt hại do tội phạm gây ra phải là những thiệt hại đáng kể xét tính gây
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội về mặt khách quan nghĩa là gây ra hoặc đe
dọa gây ra những thiệt hại cho các quan hệ xã hội. Một hành vi vi phạm chuẩn mực
chung của xã hội nào cũng có tính nguy hiểm và có khả năng trực tiếp hoặc gián tiếp gây
ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội. Tuy nhiên để xác định hành vi gây nguy hiểm (nghĩa
là khả năng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại) có “đáng kể” hay không thì phải
thông qua việc đánh giá tổng thể các yếu tố khác nhau: Tính chất và tầm quan trọng của
khách thể bị xâm hại, tính chất của hành vi khách quan, tính chất và mức độ lỗi, động cơ,
mục đích phạm tội, thời gian, địa điểm, mục đích thực hiện tội phạm, nhân thân người
phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Hành vi chửi
mắng ông bà, cha mẹ… bị xem là hành vi vi phạm đạo đức. Hành vi này về bản chất có
tính nguy hiểm nhất định cho xã hội. Tuy nhiên so với các hành vi vi phạm khác thì mức
độ nguy hiểm vẫn còn hạn chế chưa “đáng kể”.3
Thứ hai, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và thiệt hại để xác
định một thiệt hại có phải là do hành vi phạm tội gây ra hay không thì điều kiện tất yếu là
giữa hành vi phạm tội và thiệt hại đó phải có mối quan hệ nhân quả với nhau, nghĩa là từ
nguyên nhân là hành vi tội phạm xảy ra thì mới dẫn đến hậu quả bị thiệt hại cho các
khách thể bị xâm hại.
1

Phạm Văn Beo, Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.115.
Luật học, daitudien.net: Hậu quả của tội phạm, [truy cập ngày 18-07-2014].
3
Phạm Văn Beo, Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.115.
2

GVHD: Trần Hồng Ca

4


SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Để xác định được mối quan hệ nhân quả này trước hết cần dựa vào mặt thời gian,
hành vi phạm tội phải là hành vi xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian. Khi nguyên nhân
xảy ra thì khi này hậu quả mới được phát sinh, vì vậy quá trình này cần một khoảng thời
gian nhất định mà nguyên nhân là cái phải diễn ra trước. Ví dụ, người dân phát hiện A
đang thực hiện hành vi giao cấu với C lúc này C đã chết. Sau khi khám nghiệm biết được
C đã chết trước khi A thực hiện hành vi giao cấu, C chết là do bị A dùng thắt lưng xiết cổ
trước đó. Như vậy hành vi giao cấu xảy ra sau hậu quả chết người, hành vi xiết cổ có mối
quan hệ nhân quả với hậu quả này.
Không chỉ vậy, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả còn thể hiện
qua tính tất yếu và nội tại trong mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả, nghĩa là trong
điều kiện nhất định hành vi đó phải tất yếu dẫn đến kết quả nhất định chứ không thể có
kết quả khác. Cần xem xét hậu quả nguy hiểm xảy ra phải là sự hiện thực hóa khả năng
thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi trái pháp luật.4 Ví dụ chị A đến phẩu thuật
thẩm mỹ tại thẩm mỹ viện không có giấy phép phẫu thuật thẩm mỹ, trong quá trình thẩm
mỹ do không có trình độ chuyên môn nên ca phẫu thuật đã không có kết quả như mong
đợi mà còn làm cho A bất tỉnh, do hoảng sợ và tưởng rằng A đã chết nên nhóm người này
đem A vứt xuống sông. Sau khi thi thể được phát hiện và khám nghiệm thì kết quả là A
chết do ngạc nước, nghĩa là khi bị nhóm người này ném xuống sông thì A vẫn còn sống.
Do đó A chết không phải do phẫu thuật thẩm mỹ mà là do bị ném xuống sông. Hành vi
ném xuống sông có mối quan hệ nhân quả với hậu quả chết người mặc dù hành vi phẫu
thuật thẩm mỹ trái phép vẫn có khả năng dẫn đến hậu quả tử vong.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra và phân biệt với
một số khái niệm khác có liên quan
1.2.1. Khái niệm người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự là cá nhân, cơ quan, tổ

chức bị thiệt hại hoặc đe dọa bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, các quyền và lợi
ích hợp pháp khác và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng công nhận.5 Để làm
rõ khái niệm người bị thiệt hại do tội phạm gây ra, cần làm rõ một số khái niệm sau liên
quan đến đối tượng là chủ thể bị thiệt hại do tội phạm gây ra gồm có:
Đầu tiên phải nói đến đó là cá nhân, đây là chủ thể trung tâm, phổ biến nhất của
quan hệ pháp luật trong một quốc gia.6 Cá nhân dùng để chỉ một con người cụ thể của
một cộng đồng, thành viên của xã hội. Cá nhân bao gồm công dân Việt Nam, người nước
4

Phạm Văn Beo, Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.186.
Lê Nguyên Thanh, Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam, tp.Hồ Chí Minh, 2012,
tr.9.
6
Phan Trung Hiền, Lý luận về Nhà nước và pháp luật, tập 2, Nxb.Chính trị Quốc gia-sự thật, Hà Nội, 2009, tr.101102.
5

GVHD: Trần Hồng Ca

5

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

ngoài, người không quốc tịch. Cá nhân tồn tại độc lập và có thể phân biệt với cá nhân
khác, tập thể hoặc một xã hội. Ví dụ: Giấy khai sinh, chứng minh nhân dân…
Chủ thể cũng khá phổ biến trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự đó là tổ chức,
thuật ngữ tổ chức được nhiều ngành khoa học qsử dụng với nghĩa không giống nhau, theo
đó khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với nghĩa hẹp là tập thể của con người

tập hợp lại với nhau để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu
xác định của tập thể đó.7 Trên phương diện ngôn ngữ tùy theo ngữ cảnh, tính chất, yêu
cầu, mục đích,… có thể sử dụng các thuật ngữ: Cơ quan, đơn vị, pháp nhân, đơn vị, công
ty,… thay thế thuật ngữ tổ chức.8 Theo luật học thì tổ chức là chủ thể của quan hệ pháp
luật, theo khoa học luật dân sự thì tổ chức sẽ được công nhận là pháp nhân khi đáp ứng
được các điều kiện quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự: Được thành lập hợp pháp, có cơ
cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó, nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Ở Việt
Nam tổ chức bao gồm: Nhà nước nói chung, Cơ quan Nhà nước, Tổ chức xã hội, các loại
hình doanh nghiệp. So với cá nhân thì tổ chức không thể tham gia một số quan hệ pháp
luật đặc thù.9 Tổ chức ở nước ta khá đa dạng, hình thành bằng những con đường khác
nhau, với mục đích hoạt động khác nhau song vẫn là chủ thể của quan hệ pháp luật.
1.2.2. Phân biệt khái niệm người bị thiệt hại do tội phạm gây ra với một số khái niệm
có liên quan
Bên cạnh việc làm rõ chủ thể của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra gồm đối
tượng nào thì cần so sánh với một số khái niệm có liên quan để nhận thức rõ và chính xác
hơn về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra.
Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra khi tham gia vào tố tụng hình sự sẽ được gọi
chung là nhóm người tham gia tố tụng, nhưng ngoài người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
thì nhóm người tham gia tố tụng còn có các chủ thể khác. Thông qua việc tìm hiểu khái
niệm người tham gia tố tụng sẽ giúp nhận thức rõ hơn về người bị thiệt hại do tội phạm
gây ra trong tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng là những chủ thể có quyền và lợi ích
của bản thân cần được bảo vệ trước pháp luật, những người có nghĩa vụ pháp lý phải
tham gia vào việc giải quyết các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình
sự và những người tham gia tố tụng để hỗ trợ pháp lý cho những người tham gia tố tụng

7

Khoa học tổ chức quản lý – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.Thống kê, Hà Nội, 1999, tr.25.
Tạ Ngọc Hải, Viện khoa học tổ chức Nhà nước, Khái niệm, phân loại và các đặc trưng cơ bản của tổ chức từ giác

độ khoa học tổ chức nhà nước, 2014, [Truy cập ngày
15/11/2014].
9
Phan Trung Hiền, Lý luận về nhà nước và pháp luật, tập 2, Nxb.Chính trị Quốc gia-sự thật, Hà Nội, 209, tr.104.
8

GVHD: Trần Hồng Ca

6

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

khác.10 Khi tham gia vào quan hệ tố tụng nhóm người tham gia tố tụng sẽ thực hiện nghĩa
vụ của mình với tư cách cá nhân hoặc tổ chức không mang quyền lực Nhà nước. Theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì người tham gia tố tụng bao gồm:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Pháp luật quy định các
quyền và nghĩa vụ tương ứng với từng chủ thể. Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách
nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia
tố tụng. Có thể thấy mối quan hệ giữa người tham gia tố tụng và người bị thiệt hại do tội
phạm gây ra là khái niệm người tham gia tố tụng sẽ rộng hơn và bao gồm cả người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra.
Một chủ thể có rất nhiều điểm tương đồng với người bị thiệt hại do tội phạm gây ra,
tuy nhiên họ chỉ khác nhau ở việc có được pháp luật công nhận tư cách tham gia tố tụng
hay không đó là nạn nhân của tội phạm. Theo từ điển luật học thì nạn nhân của tội phạm
là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản do hành vi

phạm tội gây ra. Cá nhân có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hoặc người
không quốc tịch. Đối với cơ quan, tổ chức phải được thành lập hợp pháp và đồng thời các
cơ quan, tổ chức này phải tồn tại vào thời điểm hành vi phạm tội xảy ra. Ở nạn nhân của
tội phạm và người bị thiệt hại do tội phạm gây ra có những nét tương đồng nhau, đều là
cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp
pháp khác. Tuy nhiên điểm khác nhau cơ bản giữa nạn nhân của tội phạm và người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra là ở người bị thiệt hại do tội phạm gây ra phải được cơ quan
có thẩm quyền công nhận tư cách tham gia tố tụng.
Trường hợp 1: Hành vi phạm tội tác động đến nạn nhân của tội phạm gây ra thiệt
hại, ví dụ: A đánh B gây thương tích 30%. B đã bị hành vi cố tình gây thương tích của A
xâm hại trực tiếp sức khỏe. Trường hợp này nếu tham gia vào tố tụng thì nạn nhân của tội
phạm sẽ được tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại thông qua sự thừa nhận của cơ
quan tiến hành tố tụng.
Trường hợp 2: Hành vi phạm tội tác động đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ đồng thời gián tiếp gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức. Ví dụ: A thực hiện
hành vi cướp tài sản trên đường, sau đó bỏ chạy vô tình đâm vào xe bán hàng của anh C
gây thiệt hại về tài sản cho C. Trong trường hợp này nạn nhân của tội phạm là anh C nếu
được tham gia tố tụng thì sẽ tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự.
Việc phân biệt người bị thiệt hại do tội phạm gây ra với nạn nhân của tội phạm có ý
10

Mạc Giáng Châu-Nguyễn Chí Hiếu, Giáo trình luật tố tụng hình sự, phần 1 – Những vấn đề chung của luật tố
tụng hình sự, 2010, tr.49.

GVHD: Trần Hồng Ca

7

SVTH: Huỳnh Thị Trâm



NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

nghĩa rất quan trọng vì quyền của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra và nạn nhân của
tội phạm có sự khác biệt cơ bản. Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội
phạm gây ra, nếu tội phạm không được phát hiện họ sẽ không được tham gia vào quá
trình tố tụng. Không được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận là người bị hại hoặc
nguyên đơn dân sự thì họ không được hưởng các quyền của người bị hại và nguyên đơn
dân sự.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Điều 54 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 quy định người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không khái niệm thế
nào là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Trong một số tài liệu
bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, có tác giả đưa ra định nghĩa “người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự được hiểu là người không tham gia vào việc
thực hiện tội phạm hoặc có tham gia vào việc thực hiện tội phạm mà không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, hoặc được miễn trách nhiệm hình sự nhưng vẫn phải tham gia vào tố
tụng để xử lý theo pháp luật về quyền hoặc nghĩa vụ về tài sản của họ có liên quan đến
tội phạm”. Hoặc “người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có quyền lợi
nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi quyết định của Tòa án”. Nhìn chung các quan điểm
này đều khẳng định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không phải là bị
can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự….11 Bên cạnh đó tham khảo
Bộ luật tố tụng dân sự thì người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể hiểu là:
“Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến việc xét xử vụ án hình sự của Tòa án và
được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”. 12 Họ có thể liên quan đến hành vi phạm tội của bị
cáo nhưng cũng có thể chỉ liên quan đến vật chứng, tài sản, đến trách nhiệm dân sự trong
vụ án hình sự.
1.2.3. Đặc điểm của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
1.2.3.1. Thiệt hại họ gánh chịu là thiệt hại do tội phạm gây ra
Tội phạm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,

do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài
11

Phan Thanh Tùng, Tòa án nhân dân tối cao, Một số vấn đề về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự,
/>_details=1, [truy cập ngày 21/09/2014].
12
Đinh Văn Quế, Tòa án nhân dân tối cao, Một số quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng,
/>=1&item_id=9522874, [Truy cập ngày 21/09/2014].

GVHD: Trần Hồng Ca

8

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.13 Dù tội phạm có hoàn thành hay chưa thì tội phạm
cũng đã xâm phạm đến khách thể và gây thiệt hại trên thực tế. Một người chưa bị hành vi
phạm tội xâm hại thì không thể gọi họ là người bị thiệt hại do tội phạm gây ra.
Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra phải gánh chịu những thiệt hại trực tiếp hoặc
gián tiếp từ hành vi phạm tội gây ra, những thiệt hại này bao gồm thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác. Thiệt hại về thể chất tức là

thiệt hại về tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về tinh thần là thiệt hại về danh dự, nhân
phẩm... Thiệt hại về tài sản là trường hợp tài sản của người bị hại bị mất, bị chiếm đoạt,
bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng. Ngoài ra người bị hại có thể bị xâm phạm các quyền và
lợi ích hợp pháp khác như: Xâm phạm chổ ở, bị bắt trái pháp luật…
Đối với người bị hại chịu thiệt hại trực tiếp từ tội phạm nghĩa là thiệt hại do tội
phạm trực tiếp gây ra hoặc đe dọa gây ra. Ngoài ra người bị hại còn có thể có thiệt hại
gián tiếp. Nhưng điều kiện tối thiểu là họ phải có một thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm
tội.
Đối với nguyên đơn dân sự hành vi phạm tội không trực tiếp tác động, không cố ý
nhằm gây thiệt hại cho nguyên đơn dân sự. Nói cách khác, thiệt hại của nguyên đơn dân
sự không phải là đối tượng của tội phạm. Thiệt hại của nguyên đơn dân sự là hậu quả
gián tiếp do tội phạm gây ra. Những thiệt hại này có thể là thiệt hại về tài sản hoặc những
thiệt hại khác dẫn đến những tổn thất về vật chất những thiệt hại do uy tín, danh dự bị
xâm hại…
Ví dụ: A đánh B gây thương tích cho B làm B phải nghỉ việc không thể tiếp tục đi
làm. Trong trường hợp này B bị hành vi phạm tội cố ý gây thương tích của A gây thiệt
hại về sức khỏe (thể chất) đây là thiệt hại trực tiếp do A gây ra. Ngoài ra, do không đủ
sức khỏe đi làm B phải nghỉ việc là mất thu nhập, đây là thiệt hại gián tiếp mà B phải
gánh chịu vì hành vi phạm tội cố ý gây thương tích của A.
1.2.3.2. Được tham gia tố tụng khi có sự công nhận của cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng
Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra phải được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng công nhận tư cách tham gia tố tụng thông qua các văn bản của cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án: 14
Đối với Cơ quan điều tra, trong giai đoạn khởi tố, điều tra, tư cách của những người
13

Điều 8, Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009.
Thái Chí Bình, Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong trường hợp xác định không đúng người tham gia tố
tụng theo pháp luật tố tụng hình sự Việt nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2, 1/2011.

14

GVHD: Trần Hồng Ca

9

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

tham gia tố tụng trong đó có người bị thiệt hại do tội phạm gây ra được thể hiện ở các
quyết định, biên bản liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra như: Quyết định khởi tố vụ
án hình sự, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, bản kết luận điều tra… Trong các
hình thức thể hiện này, tư cách của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra được thể hiện
trong các quyết định, biên bản trước khi kết thúc điều tra có thể thay đổi, nhưng tư cách
của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra thể hiện trong bản kết luận điều tra là kết quả
chính thức, không thay đổi. Bởi vì, bản kết luận điều tra thể hiện sự đánh giá toàn diện
của Cơ quan điều tra về các vấn đề liên quan đến vụ án, tư cách người tham gia tố tụng
trong đó có người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong vụ án là văn bản đánh dấu việc kết
thúc quá trình điều tra để chuyển sang giai đoạn truy tố.
Đối với Viện kiểm sát, cũng như Cơ quan điều tra, khi vụ án chuyển sang giai đoạn
truy tố, hình thức công nhận tư cách của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra được thể
hiện qua biên bản ghi lời khai, các quyết định truy tố có liên quan, cáo trạng hoặc quyết
định truy tố và danh sách những người cần triệu tập tham gia phiên tòa… Trong số các
hình thức trên thì cáo trạng hoặc quyết định truy tố là hình thức xác định cuối cùng tư
cách người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trước khi chuyển hồ sơ cho Tòa án xét xử.
Ngoài ra người bị thiệt hại do tội phạm gây ra còn được xác định trong danh sách những
người cần triệu tập ra trước phiên tòa.
Đối với Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, tư cách người bị thiệt hại do tội

phạm gây ra được thể hiện trong các quyết định, lệnh có liên quan; trong đó quyết định
đưa vụ án ra xét xử và bản án là hình thức thể hiện tư cách của người bị thiệt hại do tội
phạm gây ra rõ nhất. Trong các văn bản tố tụng được Tòa án ban hành, nếu quyết định
đưa vụ án ra xét xử được xem là văn bản khởi đầu của sự thể hiện tư cách tham gia tố
tụng của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra thì bản án được xem là nơi xác định chính
thức tư cách của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra, vì đây là văn bản quan trọng nhất
và đánh dấu kết quả của toàn bộ giai đoạn xét xử sơ thẩm.
1.3. Ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
2003
1.3.1. Người bị hại
Người bị hại là một thuật ngữ quen thuộc trong khoa học pháp lý tố tụng hình sự.
Tuy nhiên pháp luật tố tụng hình sự các nước không thống nhất trong việc sử dụng thuật
ngữ người bị hại. Chẳng hạn luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga hay
Việt Nam dùng thuật ngữ “người bị hại”, trong khi đó pháp luật Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa thì dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngoài ra người bị hại còn được gọi là

GVHD: Trần Hồng Ca

10

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

“người bị thiệt hại”, hay gọi là “nạn nhân”, hay “dân sự nguyên cáo”.15 Pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam sử dụng thuật ngữ người bị hại, theo ngôn ngữ pháp lý thì người bị hại
là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị
thiệt hại chỉ có thể là thể nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản chứ không
thể là pháp nhân.16 Tại điều 51 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã định nghĩa cụ thể người bị

hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Theo thuật ngữ
này thì người bị hại trong tố tụng hình sự chỉ có thể là một con người cụ thể, bị hành vi
phạm tội gây thiệt hại về thể chất, tính mạng, sức khỏe), tinh thần (danh dự, nhân phẩm)
hoặc tài sản.17
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn không phải vụ án nào, tội phạm nào cũng có
người bị hại. Ví dụ như tội gây rối trật tự công cộng thì hành vi xâm hại hướng tới là trật
tự công cộng, hay nói cách khác đối tượng tác động của tội phạm này là trật tự công
cộng. Do vậy vụ án có tội danh này không có người bị hại. Nếu hành vi gây rối trật tự
công cộng gây thiệt hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người nào đó
thì tùy trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu với tội danh tương ứng
hoặc là yếu tố định tội hoặc tăng nặng của tội gây rối trật tự công cộng.
Ví dụ: Tại sân vận động có một trận bóng đá đang diễn ra, có một nhóm thanh niên
có hành vi quá khích gây rối trật tự công cộng làm mọi người hoản loạn bỏ chạy, họ giẫm
đạp lên nhau gây hậu quả chết người. Trong trường hợp này họ chỉ bị truy cứu về tội gây
rối trật tự công cộng, hậu quả trên không thể truy cứu thành tội phạm độc lập.
Người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người tham gia tố tụng và họ không
mang quyền lực Nhà nước. Việc thừa nhận người nào đó là người bị hại phải theo giấy
triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.18 Việc tham gia tố tụng của người
bị hại không chỉ góp phần khôi phục, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã bị tội
phạm xâm hại mà còn góp phần quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ
án.
1.3.2. Nguyên đơn dân sự
Theo quy định tại khoản 1 điều 52 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì “Nguyên
đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu
bồi thường thiệt hại”, theo quy định trên thì điều kiện để xác định nguyên đơn dân sự
trong vụ án hình sự đó là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và phải
có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Thiếu một trong hai tiêu chí trên thì không thể trở
15

Lê Tiến Châu, Người bị hại trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý, số 1/2007.

Trường Đại học luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb.CAND 1999, tr.198.
17
Nguyễn Ngọc Anh, Bình Luận khoa học Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2003, Nxb.Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2009, tr.103.
18
Khoản 4, Điều 51, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
16

GVHD: Trần Hồng Ca

11

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

thành nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự.
Nguyên đơn dân sự có thể là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra, những thiệt hại này có thể là thiệt hại về tài sản hoặc những thiệt hại khác dẫn đến
những tổn thất về vật chất như những thiệt hại do danh dự, uy tín bị xâm hại… Nguyên
đơn dân sự cũng có thể là cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi
phạm tội gây ra.
Tuy nhiên khác với người bị hại, nguyên đơn dân sự (trong trường hợp là cá nhân)
không phải là nạn nhân trực tiếp của tội phạm, mặc dù bị thiệt hại nhưng thể chất, tinh
thần, tài sản của họ không phải là đối tượng của tội phạm.
Nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự khác với nguyên đơn trong vụ án dân sự:
Trong vụ án dân sự người khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình là nguyên đơn dân sự nhưng không phải người yêu cầu khởi kiện nào cũng bị thiệt
hại. Thiệt hại không chỉ là thiệt hại về vật chất mà còn có những thiệt hại khác, và nhất

thiết không phải là thiệt hại do tội phạm gây ra. Còn nguyên đơn dân sự trong vụ án hình
sự chỉ có một loại thiệt hại đó là thiệt hại về vật chất và thiệt hại đó chỉ do tội phạm gây
ra.19
Ví dụ 1: A đánh B trong quán ăn, do hành vi đánh B, A đã làm vỡ cốc, chén trong
quán… trong trường hợp này chủ quán có quyền đòi A bồi thường thiệt hại.
Ví dụ 2: A bị B đánh trọng thương, A phải nghỉ việc. Trước khi bị đánh A là người
khỏe mạnh là lao động chính trong gia đình, nay bị thương làm giảm sút thu nhập, một
người chị trong gia đình A phải nghỉ việc để chăm sóc A. Người chị cũng có quyền đòi
bồi thường phần thu nhập bị giảm sút do phải nghỉ việc chăm sóc A. Nếu A chết thì
những người A đã nuôi dưỡng và trợ cấp khi còn sống có quyền đòi bồi thường vì thu
nhập bị mất hoặc bị giảm sút. Tuy nhiên trong trường hợp này những người đòi bồi
thường phải làm đơn yêu cầu và chứng minh được sự thiệt hại.
1.3.3. Phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
Cùng giống nhau đều là người bị thiệt hại do tội phạm gây ra, tuy nhiên giữa người
bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự có những điểm khác biệt cơ bản sau:
Thứ nhất về thiệt hại, người bị hại là chủ thể gánh chịu thiệt hại trực tiếp từ hành vi
phạm tội gây ra, nghĩa là thiệt hại do tội phạm trực tiếp gây ra hoặc đe dọa gây ra. Ngoài
ra người bị hại còn có thể có thiệt hại gián tiếp. Nhưng điều kiện tối thiểu là họ phải có
một thiệt hại trực tiếp từ hành vi phạm tội. Những thiệt hại họ phải gánh chịu là những

19

Đinh Văn Quế, Điều kiện trở thành nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự, Báo pháp luật tp.HCM, 2014,
[truy cập ngày 26-7-2014].

GVHD: Trần Hồng Ca

12

SVTH: Huỳnh Thị Trâm



NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản, hoặc xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp
khác. Còn đối với nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự thì hành vi phạm tội không trực
tiếp tác động, không cố ý nhằm gây thiệt hại cho nguyên đơn dân sự. Nói cách khác, thiệt
hại của nguyên đơn dân sự không phải là đối tượng của tội phạm. Thiệt hại của nguyên
đơn dân sự là hậu quả gián tiếp do tội phạm gây ra. Những thiệt hại này có thể là thiệt hại
về tài sản hoặc những thiệt hại khác dẫn đến những tổn thất về vật chất những thiệt hại do
uy tín, danh dự bị xâm hại…nhưng thiệt hại thường thấy nhất ở nguyên đơn dân sự đó là
thiệt hại về tài sản.
Thứ hai về chủ thể chịu thiệt hại, đối với người bị hại chủ thể chịu thiệt hại là con
người cụ thể bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, thể chất, tinh thần, tài sản là đối tượng
của tội phạm. Còn đối với nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự gồm có cá nhân, cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Nguyên đơn dân sự cũng có thể là
cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra.
Thứ ba về điều kiện chủ thể, đối với người bị hại thì trong vụ án hình sự thì khi họ bị
thiệt hại do tội phạm gây ra thì đương nhiên sẽ được công nhận tư cách tham gia tố tụng
là người bị hại. Còn đối với nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự thì ngoài bị thiệt hại
do tội phạm gây ra họ phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại thì mới được công nhận
tư cách tham gia tố tụng là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự.
Thứ tư về quyền lợi của người bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự theo
quy định của pháp luật, sự khác biệt cơ bản về quyền của người bị hại và nguyên đơn dân
sự là người bị hại sẽ được kháng cáo nội dung bản án về phần hình phạt đối với bị cáo,
còn nguyên đơn dân sự thì không. Bên cạnh đó trong một số trường hợp người bị hại
được quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì khi này người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp họ được trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Quyền này chỉ có ở người bị hại
còn nguyên đơn dân sự thì không. Về phần này sẽ được phân tích rõ hơn ở chương 2 quy
định của pháp luật về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự.

Thứ năm về nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật, đối với người bị hại có nghĩa vụ khai báo, nếu từ chối mà
không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều 308 Bộ luật
hình sự 1999 sửa đổi bổ sung 2009. Riêng đối với nguyên đơn dân sự họ có nghĩa vụ
trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc đòi bồi thường thiệt hại.
Bảng tóm tắt so sánh giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự.
Tư cách tham Người bị hại
gia tố tụng

GVHD: Trần Hồng Ca

Nguyên đơn dân sự

13

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Thiệt hại

Thiệt hại họ phải gánh chịu là Thiệt hại họ gánh chịu không là
đối tượng trực tiếp của tội đối tượng trực tiếp của tội
phạm

phạm

Thiệt hại về thể chất, tinh Thường là thiệt hại về tài sản
thần, tài sản

Chủ thể

Là cá nhân, cơ quan, tổ chức

Là cá nhân

Điều kiện chủ Chỉ cần có thiệt hại

Có thiệt hại và phải có đơn yêu

thể

cầu bồi thường thiệt hại đó

Quyền

Có quyền kháng cáo về phần Không có quyền đó
hình phạt đối với bị cáo

Nghĩa vụ

Nghĩa vụ khai báo, nếu từ Nghĩa vụ trình bày trung thực
chối mà không có lý do chính những tình tiết liên quan đến
đáng thì có thể phải chịu việc đòi bồi thường thiệt hại
trách nhiệm hình sự theo điều
308 Bộ luật hình sự 1999 sửa
đổi bổ sung 2009

Quy định khác


Trường hợp vụ án được khởi Không được trình bày lời buộc
kiện theo yêu cầu của người tội tại phiên tòa
bị hại thì người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của
họ trình bày lời buộc tội tại
phiên tòa.

Có trường hợp người bị hại có thể đồng thời là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình
sự, trong trường hợp này họ đồng thời có quyền của người bị hại và nguyên đơn dân sự.
Tuy nhiên họ chỉ cần sử dụng quyền của người bị hại là đủ. Thực tiễn xét xử các cơ quan
tiến hành tố tụng chỉ cần xác định họ tham gia tố tụng với tư cách người bị hại là đủ,
không cần phải xác định họ là nguyên đơn dân sự vì không cần thiết.20
1.4. Vị trí, vai trò của ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam thì người bị thiệt hại do tội
20

Đinh Văn Quế, Điều kiện trở thành nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự, Báo pháp luật tp.HCM, 2014,
[truy cập ngày 26-7-2014].

GVHD: Trần Hồng Ca

14

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

phạm gây ra tham gia vào quá trình tố tụng hình sự với tư cách là người tham gia tố tụng,
họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân liên quan đến vụ

án. Họ có một vị trí quan trọng trong công cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm với
mục đích góp phần làm sáng tỏ vụ án, truy cứu đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra có vị trí quan trọng trong tố tụng hình sự là
còn vì xuất phát từ lời khai của họ, lời khai của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra là
nguồn cung cấp chứng cứ quan trọng cho cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng. Lời khai của người bị thiệt hại như dựng lại hiện trường của vụ án đã xảy, với tư
cách là chủ thể bị thiệt hại thì lời khai của họ cung cấp cơ bản chính xác hơn những tình
tiết đã xảy ra của vụ án. Đặc biệt pháp luật tố tụng hình sự cho phép người bị hại thực
hiện chức năng buộc tội đối với trường hợp yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và tiền đề thực
hiện chức năng buộc tội đó cũng xuất phát từ lời khai của người bị hại. Tuy nhiên, lời
khai buộc tội của người bị hại chỉ có sức thuyết phục khi lời khai đó phản ánh một cách
trung thực, chính xác những gì xảy ra trong vụ án là có tội phạm xảy ra và đã xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra.
Người bị thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc đại diện của họ khi tham gia tố tụng là
một bên trong tranh tụng, góp phần vào quá trình đi tìm sự thật của vụ án, công lý và sự
công bằng của pháp luật. Khi thực hiện hành vi phạm tội, một mặt người phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự với tính chất là một chế tài được áp dụng đối với người gây
thiệt hại không chỉ làm tăng khả năng trừng trị mà còn có ý nghĩa giáo dục đối với bản
thân họ và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Do vậy, vị trí của người bị thiệt hại do
tội phạm gây ra càng được khẳng định hơn nữa.
Việc xác định vai trò của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra là rất quan trọng.
Được thể hiện như sau:
Thứ nhất: Cung cấp chứng cứ làm rõ sự thật khách quan của vụ án hình sự. Do
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra là đối tượng chịu thiệt hại từ tội phạm (người bị hại
chịu thiệt hại trực tiếp từ tội phạm). Họ biết rất rõ về những tình tiết của vụ án, họ có thể
cung cấp các tài liệu mà các cơ quan chức năng cũng như các chủ thể khác không thể có
được. Từ những tài liệu chứng cứ này mà các cơ quan có thể thực hiện một số hoạt động
nghiệp vụ, để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đồng thời giải quyết vụ án được nhanh
chóng, chính xác, đúng đắn và thuyết phục. Ngoài ra còn giúp các cơ quan chức năng

phát hiện những thiếu sót, từ đó có những giải pháp hữu hiệu hơn để phòng ngừa tội
phạm. Vì vậy khi tham gia tố tụng người bị thiệt hại do tội phạm gây ra có nghĩa vụ phải
khai báo trung thực.

GVHD: Trần Hồng Ca

15

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Thứ hai: Việc tham gia tố tụng của người bị thiệt hại do tội phạm gây ra giúp xác
định chính xác, đầy đủ thiệt hại do tội phạm gây ra, là điều kiện cần thiết giúp giải quyết
vụ án hình sự. Việc xác định thiệt hại do tội phạm gây ra có ý nghĩa rất quan trọng có thể
làm thay đổi quyền và nghĩa vụ cũng như tư cách tố tụng của các bên.
Ví dụ: Trước đây Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã phạt nguyên Tổng giám đốc
Tổng công ty Dâu tằm tơ Việt Nam (VISERI) Dương Xuân Túy 10 năm tù về tội cố ý
làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Tòa án
căn cứ vào kết quả của Hội đồng giám định tài chính từ tháng 1 đến tháng 4/2005, hành
vi sai phạm của bị cáo đã làm VISERI thua lỗ gần 4,3 tỷ đồng.
Xét xử phúc thẩm, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí
Minh đã hủy bản án này để điều tra xét xử lại từ đầu. Theo tòa, số tiền VISERI thua lỗ
mà bản án sơ thẩm quy kết chỉ dựa vào số liệu kế toán 2005 mà chưa tách bạch trong thời
gian VISERI có chủ trương giảm giá sản phẩm gây thiệt hại bao nhiêu; chưa làm rõ hành
vi của bị cáo là trái quy định nào; án sơ thẩm không đưa đại diện VISREI tham gia tố
tụng là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.21
Qua vụ án ta thấy việc xác định chưa chính xác thiệt hại mà bị cáo gây ra đã làm ảnh
hưởng đến kết quả vụ án. Vì vậy việc xác định mức thiệt hại cũng như vai trò của người

bị thiệt hại do tội phạm gây ra có thể xem là rất quan trọng và cần thiết trong vụ án hình
sự.
1.5. Ngƣời bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong lịch sử tố tụng hình sự
1.5.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988
Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, có ba Bộ luật tố tụng hình sự khác nhau áp
dụng tại Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Trong đó theo Điều 20 và 31 Bộ luật tố tụng hình
sự Bắc kỳ đã phân loại người tham gia tố tụng thành: Bị can, bị cáo, người làm chứng,
người bị hại. Chưa có quy định nào đề cập đến nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự.
Tại Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao thì lần đầu
tiên khái niệm người bị hại được ghi nhận như sau “công dân đã bị kẻ phạm pháp xâm
hại đến thể chất, tài sản hoặc xâm phạm về tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm
cắp, lừa đảo…). Riêng về vấn đề nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự cũng đã được đề
cập đến trong thông tư này, nhưng quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự chưa được
quy định một cách cụ thể. Thông tư chỉ ghi nhận nguyên đơn dân sự có quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại.

21

Hoàng Yến, án kéo rê vì xác định thiệt hại không rõ, Báo mới, 2012, , [06/8/2014].

GVHD: Trần Hồng Ca

16

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.5.2. Giai đoạn 1988 đến trước 2003

Thời kỳ này đánh dấu sự pháp điển hóa pháp luật tố tụng hình sự với việc ra đời Bộ
luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây được
xem là “bước nhảy” trong lịch sử phát triển pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt
Nam. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 (Quốc hội thông qua ngày 28/6/1988,
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1989) là kết quả tổng hợp hơn 40 năm hoạt động tư pháp
hình sự, là sự thể chế hóa đường lối đổi mới trong lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội
phạm. Sự ra đời của Bộ luật đã đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp tố tụng
hình sự của nước ta, nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, người tham gia tố tụng nói chung và người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra nói riêng.
Ngoài Hiến pháp năm 1992 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, quyền của người
bị thiệt hại do tội phạm gây ra còn được ghi nhận trong các văn bản như: Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự năm 1989, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
hình sự ngày 30/6/1990, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự
ngày 22/12/1992, Pháp lệnh thi hành án hình phạt tù 1993, Nghị định 06-CP ngày
16/9/1993 của Chính phủ ban hành quy chế trại giam, Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2000.22
Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003 khái niệm những người thuộc nhóm
người bị thiệt hại do tội phạm gây ra cũng đã được ghi nhận. Tại khoản 1 Điều 39 và
khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định “người bị hại là người bị
thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra”, “Nguyên đơn dân
sự là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức bị thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra và có đơn
yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Bên cạnh đó quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại do
tội phạm gây ra cũng được ghi nhận, tuy giai đoạn này đã dánh dấu và ghi nhận bước
phát triển vược bậc trong việc ghi nhận và tôn trọng quyền của người bị thiệt hại do tội
phạm gây ra. Nhưng một thực tế phải thừa nhận là người bị thiệt hại do tội phạm gây ra
và quyền lợi của họ không được ghi nhận trong Hiến pháp. Người bị thiệt hại do tội phạm
gây ra và quyền lợi của họ được nhắc đến rất khiêm tốn và mờ nhạt trong Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam năm 1988, quy định mới chỉ được ghi nhận mang tính chất thừa nhận
mà chưa có các quy định vê thủ tục, quy trình cũng như các biện pháp nhằm đảm bảo cho

các quy định được thực thi trên thực tế.
1.5.3. Giai đoạn 2003 đến nay
Các văn bản pháp luật liên quan đến người bị thiệt hại do tội phạm gây ra và quyền
của họ trong hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn từ 2003
22

Đinh Thị Mai, Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2014, tr.91.

GVHD: Trần Hồng Ca

17

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


NGƯỜI BỊ THIỆT HẠI DO TỘI PHẠM GÂY RA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

đến nay hầu hết là các văn bản còn hiệu lực thi hành.
Hiện tại người bị thiệt hại do tội phạm gây ra và quyền lợi của họ vẫn chưa được ghi
nhận trong Hiếp pháp. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là văn bản pháp luật quan trọng
nhất, quy định tập trung các khái niệm của nhóm người bị thiệt hại do tội phạm gây ra:
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, quyền và nghĩa vụ của họ. Bộ luật tố tụng hình sự 2003
ra đời thay thế Bộ luật tố tụng hình sự 1988, bên cạnh đó cũng đã khắc phục được những
hạn chế của Bộ luật tố tụng hình sự 1988. Cụ thể tại Điều 51 và 52 Bộ luật đã quy định
về người bị hại và nguyên đơn dân sự như sau “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”, “Nguyên đơn dân sự là cơ quan, cá nhân, tổ
chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Ngoài ra còn
có các văn bản khác: Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009, Pháp lệnh điều tra
hình sự năm 2004…
Tóm lại, từ việc tìm hiểu về khái niệm, đặc điểm của người bị thiệt hại do tội phạm

gây ra cũng như việc xác định người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự
gồm có người bị hại và nguyên đơn dân sự; đồng thời nhận thức được vị trí, vai trò của
họ trong tố tụng hình sự giúp ta thấy được tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi của
nhóm người này trong tố tụng hình sự. Thông qua việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ sẽ góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Việc nghiên cứu sẽ là nền
tảng đễ hiểu hơn về người bị thiệt hại do tội phạm gây ra trong tố tụng hình sự Việt Nam.

GVHD: Trần Hồng Ca

18

SVTH: Huỳnh Thị Trâm


×