Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.02 KB, 98 trang )

Lời nói đầu
ục tiêu mà tất cả các quốc gia đều mong muốn vơn tới đó là sự phát triển và
thịnh vợng. Song để đạt đợc điều này, đòi hỏi mỗi nớc đều phải tự xây dựng các
chính sách kinh tế, chính trị, xã hội sao cho vừa phát huy nội lực, khắc phục đợc
khó khăn và yếu kém vừa tránh đợc sự tụt hậu xa đối với xu thế chung.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển, xây dựng nền kinh tế thị trờng
theo hớng mở, nằm trong khu vực kinh tế Châu á Thái Bình Dơng - vòng cung
kinh tế đang phát triển năng động nhất thế giới, lại vấp phải nhiều khó khăn thử
thách: nền công nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất phục vụ xây dựng và phát triển
kinh tế vừa thiếu vừa lạc hậu, hệ số cơ giới hoá thấp, đội ngũ cán bộ khoa học
còn nhiều bất cập về số lợng và trình độ, nền tài chính quốc gia còn quá eo hẹp
cha đáp ứng mức cần thiết nhu cầu phát triển kinh tế xã hội .
Khắc phục tình trạng trên và nhằm thực hiện đờng lối công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc thì một trong những tiền đề nhằm phát triển kinh tế là vốn
bởi sẽ là không tởng khi nói đến phát triển kinh tế mà không có vốn hay không
đủ vốn.
Thực tế, không quá khó khăn khi nhận thức rằng nguồn vốn có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế nhng sẽ là khó khăn khi đi tìm kiếm nó.
Câu hỏi đặt ra là: vốn đợc khơi nguồn từ đâu?
Theo nh tuyên bố của Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá VII của Đảng:
Để công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc cần huy động đợc nguồn vốn sẵn có
với sử dụng có hiệu quả, trong đó nguồn vốn trong nớc là quyết định, nguồn
vốn bên ngoài là quan trọng.
Nội lực rất nhiều nhng có một vấn đề đặt ra: bằng cách nào để khơi
thông, thu hút đợc ? Nh chúng ta đã biết, trong nền kinh tế cạnh tranh hiện nay,
có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đờng khác nhau có khả năng cung cấp
dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận đợc
M
1
là huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thơng mại (NHTM) -
là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong thế giới kinh doanh tiền tệ,


NHTM đợc coi là trung gian tài chính lớn nhất, quan trọng nhất.
Cùng với việc nhận thức về vai trò của nguồn vốn đối với sự phát triển
kinh tế đất nớc, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Hà Nội - chi nhánh trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam, rất quan tâm đến công tác huy động vốn, với phơng
châm kinh doanh nguồn vốn huy động để nâng cao hoạt động kinh doanh. Tôi
xin chọn đề tài: Giải pháp tăng cờng công tác huy động vốn tại Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội.
Với lợng thời gian thực tập, kiến thức hạn chế, kinh nghiệm thực tế cha
có, nhìn nhận một vấn đề lớn sẽ không thể tránh khỏi sai làm thiếu sót. Em rất
mong nhận đợc sự đóng góp của thầy cô và các bạn để bài viết của em tốt hơn,
hoàn thiện hơn.
Kết cấu đề tài gồm 3 chơng:
Chơng I: Một số vấn đề chung về hoạt động huy dộng vốn của
NHTM.
Chơng II: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nôị.
Chơng III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cờng công
tác huy động vốn tại NHNo & PTNTHN
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Hoàng Xuân Quế và
các anh chị trong phòng kế hoạch NHNo & PTNTHN đã hớng dẫn, chỉ bảo
nhiệt tình, giúp em hoàn thành chuyên đề này.



2
Chơng I:
Một số vấn đề chung về hoạt động huy động
vốn của ngân hàng thơng mại
1.1. Ngân hàng thơng mại và hoạt động của Ngân

hàng thơng mại trong nền kinh tế thị trờng.
1.1.1. Khái quát về NHTM
Tính cho đến thời điểm hiện nay, ngân hàng thơng mại đã có một tuổi đời
hoạt động tơng đối dài, tuy nhiên bất cứ khi nào đề cập tới NHTM ta không thể
bỏ qua lịch sử ra đời của nó. NHTM là một trung gian tài chính ra đời dựa trên
cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá và dựa trên sự khác biệt về
tiền tệ giữa các vùng các khu vực.
Hình thức ngân hàng sơ khai, đầu tiên là nhận tiền gửi và cho vay một
phần số tiền đó. Hình thức này xuất hiện là do một số ngời có nhu cầu cất trữ số
tiền của mình, trớc nhu cầu đó một số thơng gia đã đứng ra làm nhiệm vụ trông
coi, cất giữ hộ tiền và tiến hành thu phí giữ hộ tiền. Trong quá trình cất giữ hộ,
các thơng gia đã nhận thấy trong kho cất giữ tiền của mình luôn tồn tại một l-
ợng tiền d thừa, vì thực tế không bao giờ ngời gửi tiền lại rút hết tiền và rút tiền
cùng một lúc, thờng có rất nhiều đến gửi tiền và rút tiền. Trong khi đó, có rất
nhiều ngời có nhu cầu vay vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh. Vì vậy các
thơng gia đã bắt đầu sử dụng một phần tiền thừa trong két ra để đem đầu t và
thu lãi, từ đó họ có thêm một phần lợi nhuận.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đã xuất hiện nhiều hình thức ngân
hàng khác nhau, song đến nay ngân hàng đã trở thành một tổ chức kinh doanh
tiền tệ chuyên nghiệp mà hoạt động thờng xuyên và chủ yếu vẫn là nhận tiền
gửi của khách với cam kết hoàn trả lại đúng số tiền đó cộng thêm một phần lãi
và sử dụng số tiền đó để cho vay, đầu t và thực hiện một số nghiệp vụ khác.
3
Ngân hàng đợc coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá
trong kinh tế thị trờng, một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản
xuất xã hội. Với vai trò nh trên, ngân hàng không thể đứng ngoài hoạt động của
bất cứ quốc gia nào. Vì vậy, mỗi nớc đều xây dựng những khung pháp lý quy
định, giới hạn hoạt động cuả ngân hàng. Mỗi nớc khác nhau sẽ có một khái
niệm và mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau. Thông thờng, ngời ta phải dựa
vào tính chất và mục đích, đối tợng hoạt động của nó trên thị trờng tài chính.

Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở hành nghề thờng xuên nhận của công chúng dới hình thức ký
thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Luật ngân hàng của ấn Độ, năm 1959 bổ sung ngân hàng là cơ sở nhận
các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu t.
Luật ngân hàng của Đan Mạch, năm 1930 Những nhà băng thiết yếu
gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thơng mại
và các giá trị địa ốc, các phơng tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp
vụ chuyển ngân....
Các cách định nghĩa trên chỉ khác nhau về mặt thể hiện, song phân tích
khai thác nội dung đều có một điểm chung là tính chất nhận tiền ký thác - tiền
gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng cho vay, chiết khấu và các nghiệp
vụ kinh doanh khác.
Đối với bản thân Việt Nam, trong bớc chuyển đổi sang kinh tế thị trờng
có sự quản lý của Nhà nớc, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Mọi ngời đợc tự do kinh doanh theo
pháp luật đợc bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu
có thể đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Theo hớng
này, nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra tiền đề cần thiết đòi hỏi sự
ra đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính năm 1990 định
nghĩa: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động thờng xuyên và chủ
yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền
4
đó để cho vay thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phơng tiện thanh
toán.
Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/QH10) điều 20: NHTM là
loại hình tổ chức tín dụng đợc thc hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh khác có
liên quan. Trong đó Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và

dịch vụ ngân hàng với nội dung thờng xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền
này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Thông thờng, các nớc có thể sử dụng các loại mô hình NHTM nh sau: mô
hình truyền thống và mô hình hiện đại.
Mô hình truyền thống: gồm có các ngân hàng đa năng và các
ngân hàng chuyên doanh.
Mô hình phổ biến hiện nay (mô hình hiện đại): gồm có các
ngân hàng thơng mại - các định chế tài chính lớn, các ngân hàng
phát triển, các ngân hàng có quy chế chuyên môn hoá, các ngân
hàng có quy chế đặc biệt.
Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng, mỗi loại ngân hàng đều
mang những nét đặc trng phù hợp với điều kiện cuả thời kỳ đầu chuyển đổi
của nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc. Cụ thể Việt Nam có
các loại hình ngân hàng sau:
NHTM quốc doanh: Loại ngân hàng này đợc coi là chiếm vị thế
trong hệ thống tổ chức tín dụng của nớc ta. Hình thức sở hữu là doanh
nghiệp Nhà nớc, thành lập, cấp vốn chịu sự quản lý cuả Nhà nớc, hoạt động
trong tất cả các lĩnh vực ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đối với mọi thành
phần kinh tế, mọi lĩnh vực sản xuất lu thông, xây dựng trong và ngoài nớc.
Hiện nay có 6 ngân hàng quốc doanh là: Ngân hàng công thơng, Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng đầu t và phát triển, Ngân
hàng ngoại thơng, Ngân hàng ngời nghèo, Ngân hàng phát triển nhà ở
Đồng bằng sông Cửu Long.
NHTM cổ phần: là loại hình ngân hàng phải đợc thành lập theo luật
công ty cổ phần, thuộc sở hữu của các cổ đông, ngời góp vốn, trên cơ sở tự
5
nguyện của các cổ đông trong việc góp vốn và hoạt động theo luật pháp quy
định.
Ngân hàng liên doanh: là loại hình ngân hàng đợc thành lập trên cơ
sở hợp đồng liên doanh, vốn điều lệ là vốn góp của ngân hàng Việt Nam và

ngân hàng nớc ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của
pháp luật Việt Nam.
Chi nhánh ngân hàng liên doanh: là một bộ phận của ngân hàng n-
ớc ngoài hoạt động tại Việt Nam chịu sự điều tiết của luật pháp Việt Nam.
Ngân hàng đầu t: là những ngân hàng tập trung huy động vốn trung,
dài hạn và đầu t trung dài hạn vì sự phát triển, hoạt động đầu t chủ yếu
thông qua các dự án.
Ngân hàng chính sách: thông thờng là những NHTM 100% vốn Nhà
nớc hoặc NHTM cổ phần (sở hữu Nhà nớc và các tổ chức kinh tế quốc
doanh) đợc thành lập để phục vụ một hoặc một số chính sách của Nhà nớc,
nó hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, chênh lệch giữa chi phí huy
động vốn và sử dụng vốn sẽ đợc Nhà nớc bù đắp.
Ngân hàng hợp tác: là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể,
đợc các thành viên tự nguyện thành lập lên không phải vì mục tiêu lợi
nhuận mà vì mục tiêu tơng trợ lẫn nhau về vốn và các dịch vụ ngân hàng.
Nguyên tắc thành lập và hoạt động của loại hình này là tự nguyện, dân chủ,
bình đẳng, tự trang trải mọi chi phí và tự chịu trách nhiệm.
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, thông qua các nghiệp vụ của mình
nhằm điều hoà, cung cấp vốn cho hoạt động của cả nền kinh tế. Với trình độ
phát triển của khoa học hiện đại hiện nay, hoạt động của ngân hàng đã ngày
càng trở nên phong phú hơn song ngân hàng vẫn luôn duy trì 3 mảng nghiệp vụ
cơ bản sau:
6
a. Nghiệp vụ huy động vốn.
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất của một ngân hàng.
Vốn đợc ngân hàng huy động dới nhiều hình thức khác nhau và sử dụng (sau
khi đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt buộc) với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi.
Nguồn vốn của NHTM gồm vốn tự có (vốn chủ sở hữu), vốn vay, vốn khác.
Ngân hàng thờng sử dụng các nghiệp vụ huy động vốn sau:

Vốn tự có của ngân hàng: là nguồn vốn thuộc sở hữu của riêng các
NHTM. Thực tế nguồn vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả động kinh
doanh của bản thân NHTM, nó đóng góp một phần đáng kể vào hoạt động
kinh doanh cuả các NHTM.
Nghiệp vụ tiền gửi: phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp
vào để thanh toán hoặc nhằm mục đích bảo quản tài sản qua đó NHTM có
thể huy động đợc. Ngoài ra các ngân hàng còn huy động các khoản tiền
nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình gửi vào ngân hàng với mục đích h-
ởng lãi.
Nghiệp vụ tiền vay: phản ánh quá trình tạo ra nguồn vốn bằng cách
vay các tổ chức tín dụng trên thị trờng tiền tệ và vay ngân hàng trung ơng
(NHTW) dới các hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm... mục đích tạo
sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi họ không tự cân
đối đợc trên cơ sở khai thác tại chỗ.
Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Ngân hàng sử dụng nghiệp vụ
này để thu hút các khoản vốn có tính chất dài hạn của ngân hàng vào nền
kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn giúp NHTM tăng cờng tính ổn định
vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
Nghiệp vụ huy động vốn khác: Thông qua nghiệp vụ này NHTM có
thể tạo vốn cho mình thông qua việc nhận làm đại lý hay uỷ thác vốn cho
các tổ chức cá nhân trong và ngoài nớc.
b. Nghiệp vụ sử dụng vốn.
7
Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian đi vay để cho vay. Do
vậy mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng sau khi đã huy động đợc một lợng
vốn là làm sao sử dụng nguồn vốn mà không bị rơi vào tình trạng kẹt vốn. Ngân
hàng cần phải nghiên cứu và đa ra chiến lợc sử dụng vốn của mình.
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống
kê, nhìn chung thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt

động cho vay. Thành công hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ
yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất
phát từ chính sách cho vay của ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại
bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn
gốc và phơng pháp hoàn trả...
Theo mục đích việc cho vay bao gồm: cho vay bất động sản, cho vay
thơng mại, cho vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho vay thuê mua và
khác.
Theo kỳ hạn: ngân hàng cung cấp các loại cho vay ngắn hạn (loại
cho vay này nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán tạm thời, tiêu dùng và đầu t
ngắn hạn, thời hạn dới 1 năm); cho vay trung và dài hạn (loại cho vay này
phục vụ mục tiêu đầu t trung và dài hạn của khách hàng, thời hạn thờng trên
1 năm).
Theo hình thức bảo đảm, khoản mục cho vay sẽ bao gồm:
Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế
chấp; tài sản cầm cố; đợc sự bảo lãnh của của ngời thứ ba.
Cho vay không có bảo đảm (tín chấp): là loại cho vay không có
tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của ngời thứ ba, mà việc cho
vay chỉ dựa trên uy tín của bản thân khách hàng.
Theo phơng pháp hoàn trả, khoản mục cho vay sẽ bao gồm:
Cho vay trả góp (khách hàng phải trả vốn gốc và lãi theo định
kỳ).
8
Cho vay phi trả góp (khách hàng thanh toán một lần theo kỳ hạn
đã thoả thuận).
Cho vay hoàn trả theo yêu cầu (khách hàng vay có thể hoàn trả
bất cứ lúc nào khi có thu nhập).
Hai là tiến hành đầu t
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt
những nhu cầu khác nhau. Với t cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh

vực dịch vụ dịch vụ, đòi hỏi Ngân hàng phải luôn nắm bắt đợc thông tin, đa
dạng các nghiệp vụ để cung cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế.
Ngoài hình thức phổ biến là cho vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu t.
Có 2 hình thức chủ yếu mà các ngân hàng thơng mại có thể tiến hành là:
Đầu t vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu t góp
vốn vào các doanh nghiệp, các công ty khác.
Đầu t vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Ba là nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia
tiến hành sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu lớn lao ấy là
hàng loạt các nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an
toàn. Nghề ngân hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt
động của mình, ngân hàng không thể bỏ qua sự an toàn. Vì vậy, ngoài
việc cho vay và đầu t để thu đợc lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một
phần nguồn vốn huy động đợc để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán
và thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Trung ơng đề ra.
c. Nghiệp vụ khác.
9
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều các lợi thế. Một trong
những lợi thế đó là hình thức ngân hàng đóng vai trò trung gian tiến hành các
hoạt động thanh toán cho khách hàng thông qua các hình thức nh séc, thẻ thanh
toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hoặc dựa trên việc hạch toán vào
các tài khoản có liên quan đến đối tợng đó. Cụ thể:
Dịch vụ thanh toán hộ: trên cơ sở khách hàng gửi tiền và mở tài
khoản giao dịch tại ngân hàng, ngân hàng có thể đứng ra thanh toán hộ cho
khách hàng của mình về các khoản tiền mua bán, dịch vụ thông qua việc
thu hộ, chi hộ khách hàng bằng các hình thức trên.
Dịch vụ môi giới, mua, bán chứng cho khách hàng và làm đại lý phát
hành chứng khoán cho công ty.

Các nghiệp vụ trung gian khác: dịch vụ uỷ thác, bảo quản hộ các
chứng từ có giá cho khách hàng thuê két sắt. Ngoài ra, ngân hàng còn thực
hiện một số dịch vụ trung gian khác.
Tóm lại, ba nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng
tồn tại và phát triển vững mạnh trong môi trờng cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thờng xuyên tác động qua lại với
nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hởng tới quyết định sử dụng vốn, ngợc lại nhu
cầu sử dụng vốn ảnh hởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động. Các
nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhng mục đích chính là
thu hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có
hiệu quả.
1.1.3. Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế.
NHTM ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế: cơ sở nền sản
xuất và lu thông hàng hoá, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến
hoạt động của các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của
mình nhất là chức năng trung gian tín dụng NHTM đã trở thành một bộ phận
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự đóng góp này thể hiện nh sau:
Thứ nhất ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
10
Vốn đợc tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân,
doanh nghiệp và Nhà nớc trong nền kinh tế. Theo sự suy luận này, muốn có
nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Tăng thu
nhập quốc dân đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô về cả chiều rộng lẫn
chiều sâu của sản xuất và lu thông hàng hoá, song khi đẩy mạnh sự phát
triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn. Khi nền kinh tế
ngày càng phát triển sẽ tạo ra càng nhiều nguồn vốn. Ngân hàng huy động
các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần
kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi đợc giải phóng từ quá trình sản xuất, từ
nguồn tiết kiệm của dân c...) thông qua các nghiệp vụ đặc biệt là tín dụng,
ngân hàng thơng mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp

thời cho quá trình tái sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh
tế. Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính là ngân hàng thơng mại.
Thứ hai, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trờng .
Nh chúng ta đã biết, nền kinh tế thị trờng là nền kinh tế trong quá
trình vận động chịu tác động của rất nhiều các quy luật kinh tế khách quan
nh quy luật cung, cầu, cạnh tranh. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền
kinh tế này cũng không thoát khỏi sự tác động mạnh mẽ của các quy luật
kinh tế khách quan đó. Họ không những phải đáp ứng nhu cầu thị trờng về
phơng diện giá cả, khối lợng, chất lợng, chủng loại mà còn đòi hỏi phải thoả
mãn trên phơng diện thời gian, địa điểm. Do vậy, nâng cao chất lợng lao
động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, cải tiến máy móc trang
thiết bị, tìm tòi sử dụng các nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất
một cách thích hợp chính là nhân tố quan trọng giúp doanh nghiệp đáp ứng
một cách tốt nhất các yêu cầu của thị trờng. Vì những hoạt động này đòi hỏi
khối lợng vốn lớn (thông thờng vợt quá khả năng vốn tự có của doanh
nghiệp). Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến với ngân
hàng xin vay vốn. Hoạt động tín dụng đã khiến ngân hàng trở thành chiếc
11
cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trờng, tạo chỗ đứng vững chắc trong cạnh
tranh của ngân hàng.
Thứ ba, NHTM là công cụ để Nhà nớc điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trờng, hoạt động của NHTM
nếu có hiệu quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nớc điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM
trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lợng tiền trong
lu thông. Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM
thực hiện việc dắt dẫn các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trờng
điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng
theo phơng châm Nhà nớc điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị tr-

ờng.
Thứ t, NHTM là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế.
Xu thế chung hiện nay là toàn cầu hoá, khu vực hoá, sự phát triển của
các quốc gia không thể tách rời, độc lập riêng biệt mà luôn cần phải có sự gia
lu hợp tác tơng trợ lẫn nhau. Chính xu thế đó đã khiến các quốc gia tuy cách
xa nhau về mặt địa lý vẫn xích lại gần nhau hơn. Xu thế này xuất hiện trong
nền kinh tế thị trờng, khi mà các mối giao lu quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày
càng đợc mở rộng thì nhu cầu giao lu kinh tế xã hội giữa các nớc trên thế giới
lại ngày càng trở nên bức bách. Bởi sự phát triển của nền kinh tế mỗi quốc
gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận
không thể thiếu, cấu thành nên sự phát triển đó. NHTM với các hoạt động
nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ hối đoái và các
nghiệp vụ khác nó đã góp phần thúc đẩy ngoại thơng mở rộng, thực hiện vai
trò điều tiết nền tài chính trong nớc phù hợp với sự vận động của nền tài
chính quốc tế.
1.2. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thơng
mại.
12
Nh trình bày ở phần trên sự ra đời và phát triển của ngân hàng là tất yếu
đối với nền sản xuất và lu thông hàng hoá. Vậy những yếu tố nào cấu thành nên
điều tất yếu đó? Mọi sự vật hiện tợng luôn tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng, tác động qua lại lẫn nhau, sự vật này tồn tại đợc là nhờ có sự tồn tại của
sự vật khác mà theo nh các quy luật của lĩnh vực triết học là cái chung và cái
riêng. Bản thân ngân hàng, để đợc coi là bà đỡ cho nền sản xuất hàng hoá,
hay trái tim cung cấp máu cho mọi tế bào của đời sống kinh tế xã hội, thì
hoạt động huy động vốn không thể đứng ngoài.
1.2.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng th ơng mại.
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nớc khác nhau các trung gian
tài chính lại đợc phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung

là vai trò chủ đạo của các ngân hàng thơng mại đóng góp khối lợng tài sản và
tầm quan trọng đối với nền kinh tế. Để có đợc vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố
lợi nhuận lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà các NHTM phải có trớc tiên là
vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thơng mại tạo lập
hoặc huy động đợc, dùng để cho vay, đầu t hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh
doanh khác.
Về thực chất, thì nguồn vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc
dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng, mà ngời
chủ sở hữu để thực hiện các mục đích khác nhau gửi vào ngân hàng. Nh vậy
ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dới hình thức tiền
tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ kích thích mọi hoạt động
kinh tế phát triển.
1.2.2. Phân loại nguồn vốn của ngân hàng th ơng mại.
Một doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thu đợc lợi nhuận cao là một
doanh nghiệp biết tận dụng mọi khả năng, nắm bắt thông tin chớp mọi thời
cơ. Với ngân hàng, khả năng hàm chứa những nhân tố bản thân ngân hàng
13
sẵn có và đi khai thác. Vốn chính là khả năng của ngân hàng. Trong tổng
nguồn vốn hoạt động của ngân hàng, mỗi loại lại có những tính chất và vai trò
riêng, do vậy nhiệm vụ của ngân hàng là phải biết phân loại vốn đầu vào, trên
cơ sở đó sẽ phân bổ đầu ra một cách hợp lý. Xét về kết cấu và tính chất vốn
kinh doanh của ngân hàng thơng mại bao gồm: vốn tự có, vốn huy động, vốn đi
vay, vốn khác. Thông thờng nguồn vốn của NHTM đợc phân chia nh sau:
a. Vốn tự có (Vốn CSH)
Đây là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, chỉ chiếm một tỷ
trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, có 3 chức năng quan trọng khiến nó không
thể thiếu trong hoạt động của mỗi ngân hàng: chức năng bảo vệ, chức năng điều
chỉnh, chức năng hoạt động. Ba chức năng này đã giúp ngân hàng có thể đi vào
hoạt động và đảm bảo an toàn cho quá trình hoạt động. Vốn tự có gồm:

Vốn tự có ban đầu:
Vốn này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và là điều kiện pháp lý bắt buộc khi
bắt đầu thành lập ngân hàng. Nó đợc hình thành từ cá nhân (NHTM t nhân),
do ngân sách Nhà nớc cấp (NHTM quốc doanh), do bán cổ phần, cổ phiếu
(NHTM cổ phần), từ sự đóng góp giữa các bên (NHTM liên doanh).
Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động:
Vốn này có thể là đợc cấp thêm (bổ sung không mang tính chất th-
ờng xuyên vì nó chỉ có đợc khi cấp thêm, bán thêm cổ phần, cổ phiếu), bổ
sung từ lợi nhuận (mang tính chất thờng xuyên và chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong vốn tự có của ngân hàng thơng mại). Ngoài ra, vốn tự có còn đợc bổ
sung từ quỹ phúc lợi, khen thởng, dự phòng rủi ro (mỗi ngân hàng khác
nhau sẽ quy định một tỷ lệ trích lập riêng), quỹ thặng d vốn (phần chênh
lệch đánh giá lại tài sản mang lại, nó phụ thuộc vào khả năng đầu cơ của
mỗi hoạt động của mỗi NHTM).Tuy nguồn gốc hình thành của vốn tự có
khác nhau nhng chúng đều có điểm chung sau:
14
Không hoàn lại, vì ngân hàng sử dụng vốn tự có chủ yếu để mua
sắm các loại TSCD, công nghệ ngân hàng, thành lập các chi nhánh, hùn
vốn đầu t cổ phiếu... nên nó chỉ giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt
động kinh doanh của mình mà không hề trực tiếp mang lại lợi nhuận.
Nhỏ, tỷ lệ vốn tự có/ tổng nguồn vốn =1/20, đây là tỷ lệ thông th-
ờng.
Việt Nam hiện có 6 NHTM quốc doanh là Ngân hàng Ngoại thơng,
Ngân hàng Công thơng, Ngân hàng Đầu t và Phát triển, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ ngời nghèo, Ngân hàng nhà
ở Đồng bằng sông Cửu Long. Vốn điều lệ của NHNT, NHCT, NHĐT&PT là
1100 tỷ VND, NHNo&PTNTVN là 2200 tỷ VND - đây là nguồn vốn do Nhà n-
ớc cấp ban đầu. Tính đến tháng 10/1998, trên địa bàn thủ đô Hà Nội có 6
NHTMCP trong đó NHTM Kỹ thơng, NHTMCP Châu á Thái Bình Dơng có
vốn điều lệ là 70 tỷ VND, NHTMCP quân đội có vốn điều lệ 100 tỷ VND,

NHTMCP quốc tế và NHTNCP nhà Hà Nội có vốn điều lệ 50 tỷ VND.
b. Vốn huy động:
Nếu vốn tự có để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động kinh doanh cuả các
ngân hàng thơng mại thì vốn huy động chính là nhân tố thúc đẩy hoạt
động kinh doanh của ngân hàng mở rộng hay thu hẹp quy mô. Trong
tổng nguồn vốn của ngân hàng thơng mại đây là phần vốn chiếm tỷ trọng
lớn nhất, có vai trò quan trọng nhất. Nó đợc hình thành từ các nguồn sau:
Từ nguồn tiền gửi.
Trong nền kinh tế luôn tồn tại những ngời thừa vốn và những ngời
thiếu vốn. NHTM đã biết điều hoà cái mâu thuẫn này bằng việc sử dụng các
công cụ, và các nghiệp vụ của mình huy động các nguồn vốn trong xã hội.
Dới đây là một số hình thức mà NHTM có thể sử dụng để huy động vốn từ
nguồn tiền gửi:
Thứ nhất, tiền gửi thanh toán (hay tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi giao dịch).
15
Đây là khoản tiền đúng nh tên gọi của nó là thời gian gửi tiền
không xác định, khách hàng (cá nhân , tổ chức) có quyền rút tiền ra bất
cứ lúc nào. Mục đích của khách hàng đối với loại tiền này là hởng những
tiện ích trong thanh toán khi có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời
không phải là khoản để dành.
Thứ hai, tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,
tổ chức tín dụng.
Ngợc với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với
thời gian xác định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là ngời gửi
chỉ đợc rút tiền khi đến thời hạn nh đã thoả thuận có thể là 1tháng,
3tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm hoặc hơn 1năm. Theo quy định, ngân
hàng có quyền từ chối việc rút tiền trớc thời hạn của ngời gửi tiền. Tuy
nhiên, ở một số nớc, quy định này đã đợc nới lỏng: các ngân hàng cho

phép ngời gửi tiền đợc rút ra trớc hạn nhng phải báo trớc cho ngân hàng
một khoảng thời gian nhất định, nếu không báo trớc ngời gửi sẽ không đ-
ợc hởng lãi suất hoặc rất thấp.
Thứ ba, tiền gửi tiết kiệm của dân c.
Đi đôi với sự phát triển của nền kinh tế là sự gia tăng mức tăng thu
nhập của ngời dân. Khi mức thu nhập vợt quá chi tiêu thì lúc đó sẽ xuất
hiện hiện tợng tích trữ tiền. Hình thức tiền gửi tiết kiệm là hình thức
thông qua đó ngời dân không những vừa đảm bảo số tiền của mình không
bị mất mát (xét trong điều kiện nền kinh tế không có yếu tố lạm phát) mà
còn sinh sôi nảy nở thêm. Tiền gửi loại này có rất nhiều các hình thức:
Cổ điển và phổ biến nhất hiện nay là loại tiền gửi tiết kiệm (passbook
saving account). Ngoài ra, còn có chứng chỉ tiết kiệm (Savings
certificates).
16
Từ nguồn tiền vay
Vốn đi vay là quan hệ vay mợn giữa NHTM với NHTW, hoặc giữa
các NHTM với nhau , các tổ chức tín dụng khác. Trong một số trờng hợp khi
các ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động
thì NHTM có thể đi vay.
Vay của NHTW.
NHTW là ngời cho vay cuối cùng trong nền kinh tế, là ngân hàng của
các ngân hàng. Bất kỳ ngân hàng thơng mại nào khi đợc NHTW cho phép
thành lập và hoạt động đều đợc hởng quyền vay tiền tại NHTW khi thiếu
hụt dự trữ bắt buộc hay thiếu tiền đáp ứng nhu cầu thanh toán. Tuỳ theo
mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của ngân hàng thơng mại
xin vay đợc chia thành: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vay để thanh toán và vay
để tái cấp vốn. Tuy nhiên do vốn vay NHTW là quan hệ trực tiếp giữa
NHTM với NHTW nằm trong sự điều tiết của chính sách tiền tệ. Vì vậy,
không phải lúc nào việc đi vay vốn vủa NHTW cũng diễn ra suôn sẻ.
Vay các TCTD

Trong trờng hợp đó, NHTM có thể huy động bằng cách vay vốn của
các tổ chức tín dụng khác bằng việc mời họ tham gia hình thức cho vay
đồng tài trợ cho các dự án phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, phục vụ
đời sống; hoặc hình thức vay qua đêm trên thị trờng tiền tệ.
Một nguồn vốn vay khác mà ngân hàng có thể huy động: là phát
hành kỳ phiếu có mục đích, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác. Nếu
những hình thức huy động trên là hình thức huy động mang tính bị động thì
hình thức này là hình thức chủ động. Cụ thể: Khi ngân hàng phát hành trái
phiếu, kỳ phiếu có nghĩa là ngân hàng phát hành một giấy nhận nợ đối với
khách hàng của mình, nhằm huy động vốn có mục đích, có kỳ hạn rõ ràng.
Giữa phát hành kỳ phiếu và trái phiếu khác nhau ở chỗ: kỳ phiếu có mục
17
đích thờng đợc sử dụng linh hoạt còn trái phiếu thờng đợc phát hành với
quy mô lớn đồng loạt trong cả hệ thống ngân hàng.
c. Vốn khác
Nguồn vốn này có đợc là nhờ vào lợi thế hoạt động của ngân hàng thơng
mại. Ví dụ, trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã tạo đợc
một nguồn vốn gọi là nguồn vốn trong thanh toán: vốn trên tài khoản mở th tín
dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức và các khoản phong toả do
ngân hàng chấp nhận các hối phiếu thơng mại. Các khoản tiền này đợc gọi là
khoản tiền tạm thời nhàn rỗi vì thực tế nó tạm thời đợc trích vào tài khoản này
và đợc nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng. Hay thông qua nghiệp vụ làm đại
lý, ngân hàng thơng mại cũng thu hút đợc một lợng vốn đáng kể trong quá
trình thu hoặc chi hộ khách hàng làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác, nhận
và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu t. Nguyên nhân, việc phát
tiền đợc thực hiện theo tiến độ công việc nên ngân hàng có thể sử dụng tạm
thời khoản tiền đó vào kinh doanh.
1.2.3. Sự cần thiết phải tăng c ờng công tác huy động vốn của NHTM.
a. Đối với nền kinh tế
Nh đã đề cập ở phần trên, sẽ là không tởng khi nói tới sự phát triển kinh

tế lại không có vốn hay thiếu vốn. Vốn thực sự có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế. Vốn có thể huy động qua nhiều kênh khác nhau, tuy nhiên có 3 kênh
chủ yếu là: qua kênh ngân sách Nhà nớc, qua thị trờng chứng khoán, qua các tổ
chức tài chính trung gian.
Đối với các nớc có thị trờng vốn và thị trờng tài chính, tiền tệ phát triển
thì huy động vốn qua các kênh này không mấy khó khăn ngợc lại đối với các
nớc đang phát triển nh Việt Nam thì nguồn vốn của các trung gian tài chính -
NHTM chính là kênh huy động vốn có hiệu quả phục vụ cho nhu cầu phát triển
kinh tế xã hội. Cụ thể:
Kênh ngân sách nhà nớc không có khả năng đáp ứng đầy đủ các
18
yêu cầu của thực tế đặt ra do mức động viên tài chính vào ngân sách nhà n-
ớc chỉ ở mức 20-21%, còn lại đợc phân phối vào các thành phần kinh tế và
khu vực dân c; gánh nặng trả nợ của ngân sách Nhà nớc cho những món vay
từ những năm 1990 trở về trớc để đáp ứng nhu cầu chi để đầu t phát triển,
chi thờng xuyên đã đến hạn thanh toán và nếu không trả sẽ dẫn đến nợ ngân
sách Nhà nớc chồng chất, tất yếu sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế
xã hội .
Kênh thị trờng chứng khoán: đây là kênh huy động vốn trung và dài
hạn có hiệu nhất, tuy nhiên do thị trờng chứng khoán Việt Nam mới đi vào
hoạt động sự hiểu biết của công chúng còn hạn chế (thậm chí đối với nhiều
ngời dân khái niệm về thị trờng chứng khoán còn hết sức lạ lẫm và mơ hồ),
hàng hoá còn nghèo nàn, hệ thống luật pháp còn cha đầy đủ.
Do vậy chỉ còn một kênh duy nhất là huy độngvốn thông qua NHTM.
b. Đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động kinh doanh cũng phải
có vốn, vì vốn là năng lực chủ yếu quyết định đến khả năng, quy mô hoạt động.
Ngân hàng là một doanh nghiệp, đòi hỏi một lợng lớn vốn mới có thể thực hiện
kinh doanh. Nguồn vốn này cho phép ngân hàng mở rộng, đa dạng hoá các hình
thức kinh doanh, giảm thiểu rủi ro trong khi thực hiện đi vay và cho vay. Sau

đây là những lợi ích mà nguồn vốn đem lại cho ngân hàng:
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng vì
khác với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thờng, hoạt
động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng có những đặc trng riêng, vốn không
chỉ là phơng tiện kinh doanh chính mà còn là đối tợng kinh doanh chủ yếu.
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trờng tiền tệ
(thị trờng vốn ngắn hạn) và thị trờng chứng khoán (thị trờng vốn dài hạn).
Quá trình kinh doanh tiền tệ của ngân hàng đợc mã hoá bằng công thức T-
19
T, trong đó T là nguồn vốn bỏ ra ban đầu, T là nguồn vốn thu về sau một
quá trình đầu t, tiến hành hoạt động kinh doanh: T>T. Từ công thức này, có
thể khẳng định ngân hàng nào trờng vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh
trong cạnh tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu cần thiết (vốn điều lệ)
theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng trởng nguồn
vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Vốn quyết định quy mô tín dụng và các hoạt động khác của ngân
hàng.
Trong điều kiện bình thờng, đầu vào luôn ảnh hởng trực tiếp tới
đầu ra. Đối với ngân hàng, vốn chính là yếu tố đầu vào; tín dụng, đầu t... là
yếu tố đầu ra. Vì vậy, so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có
khoản mục đầu t và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi khối lợng cho vay
của các ngân hàng này cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay
đợc tại các thị trờng trong vùng thậm chí trong nớc và cả quốc tế, thì các
ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi nhỏ, hẹp chủ yếu trong cộng
đồng. Hơn nữa, vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ thờng không phản ứng
nhanh nhạy đợc trớc những đợt biến động về lãi suất, ảnh hởng trực tiếp đến
khả năng thu hút vốn đầu t từ tầng lớp dân c và các thành phần kinh tế.
Chúng ta có thể lấy một ví dụ trên địa bàn một ngân hàng nào đó nhu cầu
vốn rất lớn, nếu ngân hàng không huy động vốn đợc thì không thể tiến hành

cho vay, đến đây xảy ra 2 trờng hợp: nếu khả năng vốn của ngân hàng dồi
dào, thì chắc chắn ngân hàng sẽ đáp ứng đợc nhu cầu cho vay, có đủ điều
kiện mở rộng thị trờng tín dụng và các dịch vụ ngân hàng; ngợc lại ngân
hàng đó sẽ vấp phải vô vàn khó khăn.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thơng trờng.
Mất tiền bạc là mất ít, mất danh dự là mất nhiều, mất niềm tin là
mất tất cả. Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tởng lẫn nhau, vì bản chất
20
của ngân hàng là đi vay để cho vay, nếu không có uy tín thì ngân hàng
không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín đợc thể
hiện ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng
thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng
lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ
lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng
nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh
với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu
quả, góp phần vừa giữ đợc chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng
trên thơng trờng.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trờng.
Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với
ngân hàng vốn chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân
hàng. Thực tế đã chứng minh: quy mô vốn, trình độ nghiệp vụ, phơng tiện
kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn
vốn lớn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc mở rộng quan
hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lợng tín dụng,
chủ động về thời hạn, lãi suất. Kết quả của sự gia tăng trên giúp ngân hàng
kinh doanh đa năng trên thị trờng, phân tán rủi ro, tạo thêm vốn cho ngân
hàng và khi đó, tất yếu trên thơng trờng sức cạnh tranh của ngân hàng sẽ

tăng lên.
1.2.4. Các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM trong nền
kinh tế thị tr ờng
NHTM làm nhiệm vụ đi vay (tạo vốn) và cho vay hoặc đầu t với mục
đích hởng chênh lệch lãi suất. Quá trình tạo vốn của ngân hàng thơng mại đợc
thực hiện dới các hình thức sau:
a. Nếu căn cứ theo thời gian huy động.
21
Huy động ngắn hạn :đặc điểm là chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng
nguồn vốn huy động, đợc sử dụng chủ yếu để cho vay ngắn hạn nhỏ hơn 1
năm, lãi suất đợc huy động thờng thấp
Huy động trung hạn: loại vốn này có thời hạn từ 1 đến 5 năm (Việt
Nam chỉ từ 1 đến 3 năm), ngân hàng sử dụng chủ yếu cho các doanh nghiệp
vay khoản tín dụng trung hạn: đầu t cải tiến công nghệ, sản phẩm.
Huy động dài hạn: đây là khoản vay mà ngân hàng huy động từ 5
năm trở lên, chi phí cho việc huy động này cao, đợc ngân hàng dùng cho
các khoản tín dụng dài hạn: đầu t xây dựng cơ bản, mở rộng sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
b. Nếu căn cứ vào đối t ợng huy động
Huy động vốn từ dân c.
Vốn này có nguồn gốc là những khoản dự phòng cho tiêu dùng và rủi
ro trong tơng lai. Khi xã hội ngày càng phát triển thì những khoản dự phòng
này cũng tăng lên. Nắm bắt đợc quy luật này, NHTM đã sử dụng nghiệp vụ
huy động để tăng thêm nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và thu
đợc lợi nhuận.
Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên
các đơn vị này thờng gửi một khối lợng lớn tiền vào ngân hàng để hởng tiện
ích trong thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các
đối tợng này thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức

kinh tế và đáp ứng yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các
khoản phải thu và các khoản phải thanh toán nên luôn tồn tại một số d tiền
gửi nhất định tại ngân hàng. Nguồn này đợc ngân hàng huy động, có chi phí
thấp và sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả trung hạn. Tuy
nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc vào quy
mô, loại hình của doanh nghiệp.
22
Huy động từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
Việc vay vốn này nhằm giải quyết tình trạng thiếu vốn của ngân
hàng. Theo quy định, ở Việt Nam vốn vay giữa hai ngân hàng đợc thoả
thuận bằng hợp đồng tín dụng, vốn cho vay phải đợc bảo đảm bằng hình
thức thế chấp hoặc cầm cố bằng tài sản đi vay; tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại
NHTW, các chứng từ có giá khác. Trong trờng hợp, các NHTM đã vay mợn
lẫn nhau nhng vẫn thiếu vốn, mất khả năng thanh toán thì NHTM có thể vay
NHTW thông qua việc chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá. NHTW
tiến hành vai trò ngời cứu cánh cuối cùng bằng việc cho vay để bổ sung
nguồn vốn tín dụng ngắn hạn theo kế hoạch đã phân phối cho các ngân
hàng quốc doanh; tái chiết khấu các thơng phiếu, trái phiếu kho bạc mà các
tổ chức tín dụng đã cho khách hàng vay cha đáo hạn.
Ngoài hình thức vay NHTW, các NHTM còn tiến hành vay ở các
ngân hàng và các tổ chức tín dụng, Việt Nam hoạt động vay mợn này chủ
yếu đợc diễn ra thông qua thị trờng nội tệ (hình thành giữa các NHTM,
TCTD và NHTW, đợc thành lập 07/1993 sau một thời gian hoạt động đã
giúp các NHTM Việt Nam bổ sung nguồn vốn, khắc phục thiếu hụt trong
thanh toán); qua thị trờng ngoại tệ (thành lập 10/1994 giúp NHTM giải
quyết sự khan hiếm ngoại tệ).
c. Căn cứ vào công cụ huy động
Đây là hình thức huy động mà đợc các NHTM hay sử dụng nhất. Các
công cụ huy động này gồm:
Huy động tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi có thể phát hành séc).

Đây là loại tiền gửi mà chủ nhân có thể rút tiền hoặc trả cho bên thứ
ba bằng cách phát hành séc; ở các nớc phát triển loại tiền gửi này phần lớn
đợc rút thông qua điện thoại hay máy rút tiền tự động ATM. Đặc điểm quan
trọng, đối với ngời gửi là: chuyển nhợng dễ dàng, mục đích giao dịch là
chính, thờng đợc mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lại lãi suất
cụ thể. Đối với ngân hàng, chỉ cần bỏ ra một chút chi phí cho việc quản lý
23
tài khoản hoặc trả lãi (nếu có thì cũng rất nhỏ. Số d của loại tiền này phụ
thuộc vào từng thời kỳ trong năm và khả năng của ngân hàng trong việc dự
đoán về sự biến động.
Ngân hàng thờng bảo quản loại tiền gửi trên hai loại tài khoản: tài
khoản thanh toán và tài khoản vãng lai.
Tài khoản thanh toán là loại tài khoản mà chủ nhân của tài khoản
có toàn quyền sử dụng số tiền trong phạm vi số d tiền gửi (loại tài khoản
này luôn có số d).
Tài khoản vãng lai là tài khoản thờng đợc sử dụng cho các tổ chức
kinh tế, nó có thể có số d bên có và bên nợ. D bên có phản ánh số tiền hiện
có trong tài khoản của khách hàng, ngợc lại số d bên nợ phản ánh khoản tín
dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay. Lãi suất bên nợ cũng nh bên có
đều do ngân hàng và khách hàng thoả thuận.
Do tiền gửi có không có kỳ hạn có chi phí huy động thấp, nếu thu hút
đợc số lợng khách hàng lớn, bảo đảm luôn có một số d ổn định, ngân hàng
có thể dễ dàng trong việc đa dạng hoá nghiệp vụ của mình thông qua việc
mua các loại chứng khoán có tính linh hoạt cao nh kỳ phiếu, tín phiếu kho
bạc. Vì vậy, trên thực tế các ngân hàng đã dần dần xoá bỏ sự khác biệt giữa
hai loại tài khoản này.
Đối với Việt Nam thì loại tiền gửi này tồn tại thông qua các hình thức
nh sau: tài khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế, và khoản tiền gửi của các
cá nhân. Việt Nam là nớc có tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt thấp,
để khuyến khích việc thanh toán qua ngân hàng, các ngân hàng thơng mại

Việt Nam đã từng áp dụng việc trả lãi cho loại tiền gửi này(0,5% đối với tài
khoản tiền gửi giao dịch của các đơn vị, tổ chức kinh tế).
Trên thế giới, ở các nớc phát triển loại tiền gửi này chiếm một vị trí
quan trọng trong kết cấu nguồn vốn của ngân hàng thơng mại (ở Mỹ loại
này chiếm khoảng 30% tiền gửi ngân hàng).
Tóm lại, loại tiền gửi này có đặc điểm là tính ổn định thấp (muốn sử
dụng có hiệu quả nguồn này phải mở rộng quy mô huy động vốn); chi phí
24
huy động rẻ (có những ngân hàng áp dụng mức lãi 0% hoặc nếu có thì cũng
rất thấp); luôn là đối tợng phải chịu dự trữ bắt buộc, điều này tạo nên một
chi phí thực cao hơn chi phí danh nghĩa; có tính thanh khoản cao.
Huy động tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
Nếu tiền gửi không kỳ hạn số d tăng giảm phụ thuộc vào tình hình
sản xuất kinh doanh của khách hàng gửi tiền, thì tiền gửi tiết kiệm và tiền
gửi có kỳ hạn lại phụ thuộc vào lãi suất.
Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền mà chủ nhân có quyền rút ra theo
nh thời hạn đã đợc thoả thuận với ngân hàng, mục đích của loại tiền gửi
này là hởng lãi chứ không phải là hởng các tiện ích trong thanh toán. Đặc
điểm của loại tiền gửi này là không đợc dùng để thanh toán; hiệu quả sử
dụng nguồn này đối với ngân hàng rất cao vì nó có thời hạn rõ ràng; chi
phí để huy động đối với ngân hàng là khá đắt vì lãi suất huy động thờng
cao (thông thờng lãi suất tỷ lệ thuận theo thời gian: thời gian gửi càng dài
thì lãi suất phải trả càng cao). Mỗi nớc lại có cách huy động tiền gửi này
riêng.
Tiền gửi có kỳ hạn ở Mỹ chiếm 39% tiền gửi ngân hàng, đặc điểm
là các chứng chỉ tiền gửi đợc ghi rõ hạn định và giá trị thanh toán, việc
rút trớc thời hạn sẽ bị phạt, đôi khi mức phạt vợt quá tiền lãi đợc hởng
tính đến ngày rút tiền. ở Đức họ đã khắc phục việc rút vốn trớc thời hạn
gây bất lợi cho khách bằng cách cấp cho họ một khoản tín dụng và coi
khoản tiền gửi theo kỳ hạn là khoản đảm bảo cho tín dụng đó. Lãi suất

đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ
theo sự lựa chọn của khách hàng, với loại tiền gửi có lãi suất linh hoạt,
khách hàng có thể gửi thêm tiền trớc hạn định.
Việt Nam hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi
(kỳ phiếu) đã xuất hiện với các thời hạn 3 tháng, 6 tháng. Tuy hình thức
này mới đợc xuất hiện và đợc sử dụng vài năm trở lại đây nhng nó đã
phát huy đợc vai trò của mình trong việc tạo vốn cho các ngân hàng bằng
25

×