Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Hỗ trợ phát triển chính thức ODA - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.72 KB, 88 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Lêi nãi ®Çu
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong đường lối đổi
mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và
ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó, nguồn vốn trong nước có ý nghĩa
quyết định và nguồn vốn ngoài nước có vai trò quan trọng.
Đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Vấn để tích luỹ vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang tính thời
sự cấp thiết hiện nay. Chiến lược lâu dài là phải huy động tối đa nguồn vốn
trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi mà nguồn vốn trong nước
còn hạn hẹp thì nguồn vốn nước ngoài là quan trọng, trên nguyên tắc đảm
bảo hiệu quả kinh tế và có khả năng trả nợ. Cùng với FDI, ODA tạo thành
nên vốn nước ngoài, và đã có đóng góp đáng kể trong việc cung cấp nguồn
vốn cho đầu tư phát triển.
Sau khi Việt Nam không còn nhận được viện trợ của Liên Xô đầu những
năm 90, chúng ra đã gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn cho đầu tư
phát triển. Tuy nhiên, đến tháng 10 năm 1993, khi vốn ODA xuất hiện trở lại
tại Việt Nam, nó đã đóng góp vào thành công to lớn của Việt Nam trên hầu
hết các ngành, các lĩnh vực, đặc biệt là cải thiện cơ sở hạ tầng và phát triển
xã hội. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn những tồn tại mà
nếu không được khăc phục kịp thời thì nó có thể ảnh hưởng không tốt đên
quan hệ của Việt Nam với các nhà tài trợ
Với đề tài “Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) – thực trạng và giải
pháp”, em mong muốn cung cấp những vấn đề chung nhất, có tính chất cơ
bản, đồng thời đưa ra giải pháp nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn
vốn ODA. Em xin chân thành cảm ơn cô Phạm Thị Thêu đã giúp đỡ em
hoàn thành đề tài này. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, đề tài không tránh
khỏi những thiếu sót, mong nhận được sự đóng góp của thầy co và các bạn.
Hà Nội ngày 30 tháng 11 năm 2004
Lê Mạnh Cường


1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ch¬ng I: Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ ODA
I. Những vấn đề cơ bản về ODA
ODA là tên gọi tắt của ba chữ tiếng Anh: Official Development Assistance, có
nghĩa là Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát triển chính thức.
Năm 1972, OECD, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển đã đưa ra định nghĩa
ODA là "một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích chính là thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Ðiều kiện tài chính của
giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất
25%".
Trên thế giới, việc cung cấp nguồn ODA thực chất đã được tiến hành từ
nhiều thập kỷ trước đây, bắt đầu bằng kế hoạch Marshall của Mỹ viện trợ cho các
nước Tây Âu nhằm khôi phục kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tiếp đó,
Hội nghị Colombo (năm 1955) hình thành những ý tưởng và nguyên tắc đầu tiên
về hợp tác phát triển. Sau khi OECD được thành lập vào năm 1960 và với sự ra
đời của Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) vào năm 1961, các nhà tài trợ đã tập hợp
lại thành cộng đồng nhằm phối hợp các hoạt động chung về hỗ trợ hợp tác phát
triển.
1. Các khái niệm
Nguồn vốn bên ngoài đưa vào các nước đang và chậm phát triển có
nhiều hình thức khác nhau. Phân theo đối tượng cho vay thì có :
- Tài trợ phát triển chính thức (Official Development Finance - ODF) là
nguồn tài trợ chính thức của chính phủ cho mục tiêu phát triển. Nguồn vốn
này bao gồm : hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance)
và các hình thức ODF khác. Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong nguồn ODF.
- Tín dụng thương mại từ các ngân hàng (Commercial Credit by Bank)
là nguồn vốn chủ yếu hỗ trợ cho hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) là loại

hình kinh doanh mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn tự thiết lập cơ sở sản
xuất, kinh doanh cho riêng mình, tự đứng ra làm chủ sở hữu, tự quản lý hoặc
thuê người quản lý cơ sở của mình (đầu tư 100% vốn), hoặc góp vốn với
một hoặc nhiều xí nghiệp của nước sở tại thiết lập cơ sở kinh doanh, rồi
cùng các đối tác của mình cùng làm chủ sở hữu và cùng quản lý cơ sở sản
xuất kinh doanh này (xí nghiệp liên doanh).
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Viện trợ cho không của các tổ chức chính phủ (NGO – Nongoverment
Organization).
- Tín dụng tư nhân : loại vốn này có ưu điểm là hầu như không gắn với
các ràng buộc về chính trị - xã hội, nhưng lại có nhược điểm là điều kiện cho
vay khắt khe (thời hạn hoàn vốn ngắn và mức lãi suất cao). Vốn được sử
dụng chủ yếu để đáp ứng các yêu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn
hạn. Vốn này cũng được dùng để đầu tư phát triển và mang tính dài hạn. Tỷ
trọng của vốn dài hạn trong tổng số có thể tăng lên đáng kể nếu triển vọng
tăng trưởng lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của các nước đi vay là
khả quan.
Vậy : hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) bao gồm các khoản viện trợ
không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ,
các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, các tổ
chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển.
2. Đặc điểm
2.1. Tính ưu đãi
Có 3 ưu điểm nổi bật của ODA để thể hiện tính ưu đãi cao là:
- Vốn ODA có thời hạn cho vay (hoàn trả vốn) dài. Nhiều khoản vay có
thời hạn cho vay rất dài (từ 30 đến 40 năm).
- Thời gian ân hạn (chỉ trả lãi, chưa trả gốc) cao : lên tới 10 năm. Các
khoản cho vay của Nhật Bản, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) có thời hạn
cho vay lên tới 40 năm, thời gian ân hạn là 10 năm.

- Lãi suất cho vay thấp (dao động bình quân từ 0,75% đến 2% năm).
Ba yếu tố này tạo nên “thành tố hỗ trợ” hay “yếu tố không hoàn lại”; yếu
tố này thấp nhất là 25% (viện trợ không hoàn lại có thành tố hỗ trợ là 100%.
Thành tố hỗ trợ chính là tiêu thức để phân biệt giữa viện trợ và cho vay
thương mại. Thành tố này được xác định dựa trên việc so sánh giữa lãi suất
viện trợ và lãi suất tín dụng thương mại (tiêu chuẩn quy ước là 10% năm).
Khi cấp một khoản cho vay dựa trên cơ sở thương mại thuần túy, thì nhân tố
viện trợ không hoàn lại là 0%, nhưng khi cấp viện trợ không hoàn lại thì nhân
tố viện trợ không hoàn lại là 100%. Nhân tố viện trợ không hoàn lại trong
ODA không được thấp hơn 25%.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
YẾU TỐ KHÔNG HOÀN LẠI TRONG ODA

Các hình thức Thời gian (năm) Yếu tố không
hoàn lại
Hoàn trả Ân hạn
Cho không 0
Vay thương mại(lãi suất 10% năm) 7 3 25
Vay thương mại(lãi suất 4% năm) 11 3 35
Vay thương mại(lãi suất 3% năm) 25 7 45
Vay thương mại(lãi suất 4% năm) 30 8 60
Vay thương mại(lãi suất 2,5% năm) 25 7 76
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vay thương mại(lãi suất 0% năm) 0
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngoài ra, tính ưu đãi của ODA còn thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho
các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Trên thế giới hiện

nay có khoảng chừng 150 quốc gia đang phát triển, chiếm khoảng 77% dân
số thế giới. Tuy nhiên, tổng sản phẩm quốc gia GNP của các quốc gia này chỉ
chiếm chưa tới 14% trong tổng số của toàn thế giới. Khoảng cách giàu nghèo
trên thế giới hiện nay có xu hướng ngày càng tăng thêm. Các nước đang
phát triển phải tìm cách thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
2.2. Tính điều kiện
Có hai điều kiện cơ bản nhất để các quốc gia đang phát triển có thể
nhận được ODA:
- Mức GDP bình quân đầu người thấp, nước có GDP bình quân đầu
người thấp thường nhận được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng
lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn. Cho đến
khi các quốc gia này vượt qua ngưỡng nhất định về đói nghèo thì sự ưu đãi
này sẽ giảm dần.
- Mục tiêu sử dụng vốn của các nước đang phát triển phải phù hợp với
phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận
ODA. Điều này có nghĩa là nước nhận được ODA sẽ sử dụng vốn đó vào
đâu? Có đúng với mục tiêu của các nước tài trợ đề ra hay không? Nếu vấn
đề này không được làm sáng tỏ thì cơ hội nhận được viện trợ ODA sẽ là rất
nhỏ.
2.3. Nguồn vốn ODA có khả năng gây nợ
Khi tiến hành tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, các quốc gia không phát
triển thường không nghĩ đến điều này vì ODA có tỷ lệ ưu đãi cao. Một số
quốc gia sử dụng không hiệu quả nên có thể tạo ra sự tăng trưởng nhất thời,
nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần, không có khả năng trả nợ.
Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho
sản xuất, nhất là cho xuất khẩu, trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu
thu ngoại tệ. Do đó trong khi quy hoạch chính sách phải phối hợp các loại
nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
3. Vai trò của ODA đối với các nước đang và chậm phát triển
3.1. Bổ sung cho nguồn vốn trong nước

6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tất cả các nước khi tiến hành chương trình công nghiệp hóa đều cần
vốn đầu tư lớn. Đó chính là trở ngại lớn nhất để thực hiện chương trình công
nghiệp hóa đối với các nước nghèo. Trong điều kiện này, với những thành
tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ, các nước tiến nhanh không chỉ
bằng khả năng tích lũy trong nước mà còn bằng cả tận dụng khả năng thời
đại. Bên cạnh nguồn vốn trong nước, còn có thể huy động nguồn vốn ngoài
nước, nhiều khi với khối lượng lớn. Tuy nhiên vốn trong nước có vai trò quan
trọng, vốn ngoài nước có khả năng thúc đẩy sự phát triển, song không phải
là yếu tố quyết định sự phát triển.
3.2. Tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, phát triển
nguồn nhân lực
Những lợi ích quan trọng mà hỗ trợ phát triển chính thức mang lại cho
các nước đang phát triển là khoa học, công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo
chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Đây mới chính là những lợi ích căn
bản, lâu dài đối với các nước nhận tài trợ. Có điều đây là những lợi ích khó
có thể lượng hóa được. Nhật Bản là quốc gia cung cấp nhiều ODA nhất cho
Việt Nam, trong đó có bộ phận hợp tác kỹ thuật.
3.3. Cải thiện cơ cấu kinh tế
Do dân số tăng nhanh, sản xuất chậm và cung cách quản lý kinh tế, tài
chính kém hiệu quả, các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước châu Phi,
đang vấp phải nhiều khó khăn kinh tế như nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân
thanh toán quốc tế ngày càng tăng. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia
đang cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với Ngân hàng thế
giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các tổ chức quốc tế khác để tiến hành
chính sách điều chỉnh cơ cấu. Chính sách này dự định chuyển chính sách kinh
tế nhà nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế
phát triển kinh tế tư nhân theo định hướng quốc gia.
3.4. Tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tạo điều

kiện mở rộng đầu tư phát triển
Các nhà đầu tư trực tiêp nước ngoài khi quyết định bỏ vốn vào một
nước nào đó luôn luôn quan tâm khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại quốc
gia đó. Họ cảnh giác với nguy cơ làm tăng phí tổn của chi phí đầu tư.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Một hạ tầng cơ sở yếu kém, như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh,
phương tiên thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng
lượng (điện, nhiên liệu) không đủ cho nhu cầu sẽ làm các nhà đầu tư nản
lòng.Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm các nhà đầu tư e
ngại. Mặt khác sử dụng ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung vào công trình sản xuất kinh
doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.Chính vì vậy mà ODA ngoài việc bản
thân nó là một nguồn vốn bỏ sung rất quan trọng cho các nước đang và
chậm phát triển thì nó còn có tác dụng tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo
điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các quốc gia này.
4. Phân loại
4.1. Theo tính chất
- Viện trợ không hoàn lại : các khoản cho không, không phải trả lại.
- Viện trợ có hoàn lại : các khoản cho vay ưu đãi (vay tín dụng với điều
kiện “mềm”).
- Viện trợ hỗn hợp : gốm một phần cho không, phần còn lại được thực
hiện theo hình thức vay tín dụng (có thể ưu đãi hoặc thương mại).
4.2. Theo mục đích
- Hỗ trợ cơ bản : là nguồn lực được đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế, xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản cho vay ưu đãi.
- Hỗ trợ kỹ thuật : là những nguồn lực dành cho chuyển gia tri thức,
công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu tiền đầu tư, phát triển
thể chế và nguồn nhân lực… Loại hỗ trợ này chủ yếu là viên trợ không hoàn
lại.

4.3. Theo điều kiện
- ODA không ràng buộc: việc sử dụng không bị ràng buộc bởi nguồn sử
dụng hay mục đích sử dụng.
- ODA có ràng buộc :
+ Bởi nguồn sử dụng : có nghĩa là việc mua sắm hàng hoá, trang thiết bị
hay dịch vụ bằng nguồn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ
sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương), hoặc các công ty của
các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
+ Bởi mục đích sử dụng : chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất
định hoặc dự án cụ thể.
- ODA có ràng buộc một phần : một phần chi ở nước viện trợ, phần còn
lại chi ở bất cứ nơi nào.
4.4. Theo hình thức
- Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án
cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không
hoặc vay ưu đãi.
- Hỗ trợ phi dự án: bao gồm các hình thức sau :
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán : thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp
(chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hoặc hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ
hoặc hàng hoá được chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng vào hỗ
trợ cho ngân sách.
+ Hỗ trợ trả nợ.
+ Viện trợ chương trình: là khoản ODA dành cho một mục đích tổng
quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó
sẽ được sử dụng như thế nào.
5. Xu hướng vận động của ODA trên thế giới
5.1. Vai trò của viện trợ đa phương đã thay đổi
Từ những năm 80, tỷ trọng viện trợ đa phương ngày càng tăng, từ

64,7% của các năm 1980 – 1982 lên hơn 73% năm 1994, Trong đó mức tăng
của viện trợ song phương không hoàn lại còn nhanh hơn nữa, từ 50% tổng
số ODA lên 61,1% tổng số ODA; ngược lại khoản ODA song phương có
hoàn lại giảm dần tỷ trọng từ 17,2% xuống còn 11,7%; mặc dù về giá trị tuyệt
đối vẫn tăng. Do viện trợ song phương tăng dần tỷ trọng, viện trợ đa phương
giảm tỷ trọng tương ứng, từ 32% của các năm 1980 – 1982 xuống còn gần
27% vào năm 1994. Trong đó, viện trợ đa phương không hoàn lại chỉ tăng tỷ
trọng chút ít, từ 15,2% lên 16,6%, hỗ trợ ứng tiền mua thiết bị giảm đáng kể.
5.2. Cạnh tranh để nhận được vốn ODA tăng lên
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Giống như mọi khoản chi tiêu công cộng, ODA là đối tượng cạnh tranh
gay gắt trong các ưu tiên phân phối ngân sách. Tuy nhiên, phân phối ODA lại
là nguồn vốn dễ thất thoát nhất vì nhìn chung, nó không được quy định chặt
chẽ bằng luật và các văn bản dưới luật. Gần đây, một số nước tài trợ có đặt
ra những tập hợp mục tiêu của viện trợ để đảm bảo việc phân phối viện trợ
được thực hiện đúng hướng. Cạnh tranh hiện nay xảy ra không chỉ trong
phạm vi quốc gia mà cả giữa các quốc gia với nhau. Ở châu Á hiện nay,
Trung Quốc là nước nhận được nhiều ODA nhất. Tuy nhiên vị thế này có lẽ
cũng không tồn tại được lâu trước sự cạnh tranh mạnh mẽ của Ấn Độ và các
nước ASEAN.
5.3. Triển vọng gia tăng viện trợ ít lạc quan
Mặc dù Liên hợp quốc đã đề xuất mục tiêu nâng tỷ lệ ODA/GNP lên
0,7% đối với các nước phát triển, nhưng có rất ít hy vọng ODA tăng đáng kể
trong những năm sắp tới. Hy vọng tăng viện trợ đặt ra nhiều nhất đối với
Nhật Bản và Pháp. Các nước Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Hà Lan đặt ra
nhiệm vụ giữ vững tỷ lệ ODA so với GNP; hy vọng Đức và Anh duy trì mức
viện trợ hiện tại; rất khó đánh giá triển vọng của Mỹ.
II. Kinh nghiệm về sử dụng ODA Nhật Bản ở các nước ASEAN
1. Phân tích

1.1. Tình hình chung
Trong số các quốc gia ASEAN, bốn thành viên cũ là Indonesia,
Philipines, Malaysia, Thái Lan là những nước quốc gia có số vốn vay lớn
nhất. Còn Singapore và Brunei ít vay Nhật Bản nhất vì thực tế, họ là những
quốc gia tương đối giàu có, nên không phải sử dụng vốn ODA Nhật Bản để
phát triển kinh tế. Hơn nữa, chúng ta còn thấy một thực tế rằng vốn vay
chiếm tỷ lệ khá lớn trong ODA.
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vốn ODA Nhật Bản cho ASEAN 10 vay đến 1998
Đơn vị : tỷ yên
STT Quốc gia Vay Viện trợ
Hợp tác
công nghệ
Tổng
1 Indonesia 3.432,3 189,7 207,4 3.829,4
2 Philipines 1.772,6 211,6 129,6 2.113,8
3 Thailand 1.665,4 161,4 161,8 1.998,6
4 Malaysia 754,0 11,9 83,3 849,2
5 Vietnam 520,2 77,3 22,1 619,6
6 Myanmar 405,5 159,3 19,1 583,6
7 Laos 9,1 66,3 18,1 93,5
8 Cambodia 2,3 54,7 13,1 70,1
9 Singapore 12,7 3,1 21,4 37,2
10 Brunei 0,0 0,0 39,3 39,3
Nguồn : Bộ Ngoại giao Nhật Bản (2000)
Vì vậy Việt Nam sẽ có thể rút ra các bài học kinh nghiệm bổ ích của bốn
thành viên cũ :Indonesia, Philipines, Malaysia và Thái Lan trong việc sử dụng
vốn vay của Nhật Bản trong suốt ba thập kỷ qua.
Vốn ODA Nhật Bản

cho 4 thành viên cũ của ASEAN vay đến 1998
Đơn vị : tỷ yên
Ngành
Indo
-nesia
Phili
-pines
Thái
Lan
Malay
-sia
Tổng
Giao thông 725,2 542,8 681,0 129,4 2.078.4
Năng lượng 616,5 244,7 296,3 372,4 1.529.9
Viễn thông 148,1 50,4 102,8 13,4 314.7
Công nghiệp 110,8 91,8 112,7 75,6 390.9
Nông nghiệp 408,5 138,2 164,8 0,0 711.5
Ngành khác 1.664,6 716,1 326,3 157,3 2.864,3
Tổng 3.673,7 1.784,0 1.683,9 748,1 7.889,7
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nguồn : Bộ Ngoại giao Nhật Bản (2000)
Vốn ODA của Nhật Bản được các quốc gia này sử dụng chủ yếu cho
các ngành giao thông và năng lượng. Ta có thể thấy rằng giao thông là khoản
mục đầu tư lớn nhất ở Indonesia, Philipines và Thái Lan trong khi năng
lượng được đầu tư lớn nhất ở Malaysia. Điều đó chứng tỏ rằng bốn quốc gia
này đã coi giao thông và năng lượng là những ngành quan trọng nhất trong
cơ sở hạ tầng và sử dụng vốn vay Nhật Bản một cách triệt để để phát triển
chúng.
Bàn tới “các ngành khác” bên cạnh những ngành nêu trên, thì các

ngành khác lại được Indonesia và Philipines đầu tư vốn vay lớn nhất. Điều
đó cũng có nghĩa rằng Indonesia và Philipines không sử dụng triệt để vốn
vay ODA của Nhật Bản cho những mục tiêu rõ ràng và trọng điểm. Các
ngành khác bao gồm nhiều khoản mục nhưng hầu hết trong số này không có
đóng góp hoặc đóng góp không đáng kể cho sự phát triển của cơ sở hạ
tầng. Mặt khác, “vốn vay hàng hoá” (chỉ có tác dụng cải thiện cán cân thương
mại) chiếm một tỷ trọng lớn tại Indonesia và Philipines. Con số cụ thể là
280,5 tỷ yên tại Indonesia và 178,6 tỷ yên tại Philipines. Nhưng bên cạnh đó,
Thái Lan và Malaysia đều không sử dụng vốn vay ODA cho mục đích đó.
Đánh giá từ thực tế trên, bốn quốc gia trên được chia làm hai nhóm : nhóm
sử dụng ODA của Nhật Bản hiệu quả và không hiệu quả. Malaysia và Thái
Lan ở nhóm trước còn Indonesia và Philipines ở nhóm sau. Bằng phần phân
tích dưới đây, chúng ta sẽ chứng minh được rằng Thái Lan là một quốc gia
sử dụng vốn ODA đạt hiệu quả cao nhưng trong khi Philipines lại không làm
được như vậy..
1.2. So sánh giữa Thái Lan và Philipines
Có thể so sánh Philipines với Thái Lan bởi dân số ( Thái Lan là 58 triệu
và Philipines là 67 triệu người) và khối lượng vốn vay của hai quốc gia này từ
Nhật Bản là tương đương. Mặt khác, Philipines và Thái Lan đều có những
tương đồng cho sự so sánh : cả hai nước có thu nhập trung bình với dân số
khoảng 60 triệu người.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Năm 1960, Philipines đã từng phát triển hơn Thái Lan : tổng so quốc
dân trên đầu người của Philipines là 253 USD, của Thái Lan là 97 USD.
Nhưng Thái Lan đã tăng trưởng nhanh chóng và theo kịp Philipines vào năm
1980 ( tổng sản phẩm quốc dân trên đầu người của Philipines là 675 USD,
của Thái Lan là 693 USD). Sau đó khoảng cách giữa hai quốc gia về tổng
sản phẩm quốc dân trên đầu người ngày càng lớn. Năm 1996, tổng thu nhập
quốc dân trên đầu người của Thái Lan đã tăng gấp 3 lần so với Philipines

(của Thái Lan là 3.018 USD, của Philipines là 1.132 USD).
Vốn vay ODA Nhật Bản
cho Philipines và Thái Lan đến 1998
Đơn vị : tỷ yên
Ngành
Philipines Thái Lan
1968
-1979
1980
-1989
1990
-1998
1967
-1979
1980
-1989
1990
-1998
Giao thông 43,1 155,1 344,6 45,2 247,8 388,0
Năng lượng 30,5 111,7 102,5 63,8 72,9 159,5
Viễn thông 0,2 46,4 3,8 43,6 50,7 8,5
Công nghiệp 17,0 38,8 36,0 10,0 84,6 18,2
Nông nghiệp 20,7 43,0 74,5 23,6 98,7 42,6
Ngành khác 77,4 281,2 356,6 19,4 69,3 237,6
Tổng 188,9 676,2 918,0 205,6 624,0 854,4
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nguồn : Bộ Ngoại giao Nhật Bản (2000)
Thái Lan đã sử dụng vốn vay Nhật Bản một cách mạnh mẽ cho giao
thông trong những năm 1980 (39,7% vốn vay ODA của Nhật Bản) trong khi

Philipines lại sử dụng vốn đó cho “các ngành khác” (41,6%). Trong đó, 49,7
tỷ yên cho “sắp xếp lại kế hoạch” và 98,1 tỷ yên cho “vốn vay hàng hoá”.
Đồng thời, Thái Lan đã sử dụng nhiều vốn vay Nhật Bản cho công nghiệp và
nông lâm thuỷ sản trong những năm 1980 còn Philipines sử dụng rất ít cho
ngành này.Thái Lan đã sử dụng ít vốn vay Nhật Bản cho ngành năng lượng
trong những năm 80 thế kỷ XX, trong khi Philipines sử dụng nhiều cho ngành
này.
Cơ cấu đầu ra của Philipines và Thái Lan
(Giá trị gia tăng được tính theo %GDP)
Ngành Năm Philipines Thái Lan
1980 25 23
1985 22 11
1980 39 29
1985 32 40
1980 26 22
1985 23 29
1980 36 48
1985 46 49
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nguồn : Ngân hàng thế giới (1997)
Có thể thấy rõ Thái Lan đã chuyển đổi cơ cấu kinh tế một cách nhanh
chóng, tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP đã tăng từ 28% năm 1980 lên
40% năm 1995, tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP đã giảm từ 23% năm
1980 xuống còn 11% năm 1995. Hơn nữa, tỷ trọng ngành sản xuất trong
GDP cũng tăng từ 22% năm 1980 lên 19% năm 1995. Kết quả này đã chứng
minh một sự thật rằng : Thái Lan đã đạt được những thành công trong công
nghiệp hóa.
Với Philipines thì ngược lại, tỷ trọng công nghiệp trong GDP giảm từ
39% năm 1980 xuống 32% năm 1995, trong khi tỷ trọng nông nghiệp trong

GDP cũng giảm từ 25% năm 1980 xuống 22% năm 1995. Tỷ trọng ngành
sản xuất trong GDP giảm từ 26% năm 1980 xuống 23% năm 1995. Kết quả
này cũng nói lên sự thất bại trong không chỉ công nghiệp hóa mà còn trong
cả lĩnh vực nông nghiệp. Đối với Philipines, tỷ trọng các ngành dịch vụ đã
tăng từ 36% năm 1980 lên 46% năm 1995. Tuy nhiên, nó không đóng góp gì
cho sự phát triển kinh tế. Đã có rất nhiều nông dân từ khu vực nông thôn đã
tràn về thành thị để kiếm việc làm nhưng ngành công nghiệp trong các khu
vực thành thị không đủ sức để tạo ra việc làm cho họ.
Tăng trưởng kinh tế ở Philipines và Thái Lan
(% tăng trưởng bình quân hàng năm)
Chỉ tiêu Thời kỳ Philipines Thái Lan
1980 – 1990 1,0 7,6
1990 -1995 2,3 8,4
1980 – 1990 14,9 3,9
1990 -1995 9,2 4,6
1980 – 1990 1,0 4,0
1990 -1995 1,6 3,1
1980 – 1990 - 0,9 9,9
1990 -1995 2,2 10,8
1980 – 1990 2,8 7,3
1990 -1995 2,7 7,8
1980 – 1990 3,5 14,0
1990 -1995 9,4 14,2
1980 – 1990 -2,1 9,4
1990 -1995 3,2 10,2
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nguồn : Ngân hàng thế giới (1997)
Bảng này cho ta thấy tương ứng với số liệu đã trình bày ở phần trên.
Cụ thể là tỷ lệ tăng trưởng trong ngành công nghiệp là 9,9% ở Thái Lan từ

năm 1980 đến năm 1999, trong khi ở Philipines là 0,9% trong cùng thời kỳ
này. Điều đó chứng tỏ ngành công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ ở Thái Lan
trong khi tốc độ tương ứng ở Philipines lại là một số âm
Mặt khác, tỷ lệ tăng trưởng trong nông nghiệp của Thái Lan là 4,0% từ
năm 1980 đến 1999, trong khi mức này ở Philipines chỉ là 1,0%. Như phân
tích ở phần trên, có thể thấy rẳng tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP của
Thái Lan liên tục giảm từ 23% năm 1980 xuống còn 11% năm 1995. Điều đó
không có nghĩa là nông nghiệp Thái Lan không tăng trưởng mà là do công
nghiệp tăng trưởng quá mạnh.
1.3. Sự khác nhau về chính sách kinh tế
Một thực tế nổi bật là công nghiệp hóa của Thái Lan đã bắt đầu trong
những năm 60 của thế kỷ XX dưới sự bảo trợ của chiến lược thay thế hàng
hoá nhập khẩu. Nhưng Thái Lan đã từng bước thay đổi chiến lược từ thay
thế hàng hoá nhập khẩu sang hướng về xuất khẩu thông qua sự xuất khẩu
hàng hoá được sản xuất. Đặc biệt, Kế hoạch kinh tế lần thứ ba từ 1972 đến
1976 đã bắt đầu một thời kỳ mạnh mẽ của sự khuyến khích sản xuất. Chính
vì điều này mà Thái Lan đã đạt được lợi thế so sánh cao trong khu vực.
Xuất khẩu và nhập khẩu của Philipines và Thái Lan
(triệu USD)
Philipines Thái Lan
Xuất khẩu Nhập khẩu Xuất khẩu Nhập khẩu
1986 4.771 5.046 8.872 9.173
1987 5.649 6.738 11.654 13.023
1988 7.032 7.164 15.953 20.285
1989 7.755 10.425 20.078 25.771
1990 8.068 12.244 23.070 33.771
1991 8.767 12.048 28.428 37.591
1992 9.752 14.490 32.472 40.868
1993 11.089 17.673 36.775 45.992
1994 13.304 21.278 45.130 54.459

1995 17.371 26.437 56.130 70.774
1996 20543 32.329 55.722 72.968
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tại Thái Lan, xuất khẩu tăng 81,8 lần trong khi kinh tế tăng trưởng là
25,1 lần trong cùng thời kỳ. Cụ thể, Thái Lan đã tăng xuất khẩu 7,5 lần trong
những năm 70, 3,1 lần trong những năm 80 và 2,4 lần trong những năm 90.
Với kết quả này, Thái Lan đã vượt được Philipines năm 1976 và sau đó đã
vượt xa Philipines.
Mức nhập khẩu của Thái Lan đã tăng 68,4 lần trong thời kỳ này trong
khi mức tăng trưởng là 30,4 lần. Cụ thể, Thái Lan đã tăng nhập khẩu 5,5 lần
trong những năm 70, 2,8 lần trong những năm 80 và 2,2 lần trong những
năm 90. Trong khi đó, Philipines tăng nhập khẩu 5,5 lần trong những năm 70,
1,4 lần trong những năm 80 và 2,6 lần trong những năm 90. Những con số
này rất có giá trị để khẳng định Philipines đã tăng cả xuất khẩu và nhập khẩu
1,4 lần trong những năm 80. Có thể khẳng định quan hệ kinh tế đối ngoại
của Philipines chưa thực sự phát triển.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ở Philipines và Thái Lan
(tỷ yên)
Năm 1985 1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994
Philipines 132 78 167 473 804 961 778 284 520 2374
Thái Lan 870 953 1947 6250 7995 8029 4988 10022 4285 5875
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nguồn : Cục Kế hoạch kinh tế Nhật Bản (1997)
Số liệu thống kê đã chứng minh rằng Thái Lan đã thành công trong
chính sách mở cửa bởi khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng mạnh
trong thời gian cuối những năm 80. Trong thời kỳ này, Thái Lan còn khuyến
khích các chiến lược hành động đa dạng sau: tạo điều kiện thuận lợi cho các

công ty xuất khẩu, khuyến khích các dự án lớn trong công nghiệp nặng, tăng
đầu tư để cải thiện kinh tế nông thôn, khuyến khích giảm bớt những thủ tục
trong lĩnh vực tài chính… Những chiến lược này đã đóng góp không chỉ cho
việc đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm công nghiệp mà còn tạo ra việc làm mới
trong lĩnh vực chế tạo. Chính vì vậy mà Thái Lan đã đạt được mức tăng
trưởng GDP cao trong thời kỳ vừa qua.
Đối với Philipines, nền kinh tế cũng tăng trưởng rất mạnh sau chiến
tranh thế giới II, sau đó mức tăng trưởng giảm dần nhưng tỷ lệ GNP trên đầu
người vẫn cao hơn Thái Lan cho tới năm 1979 (GNP/người của Philipines là
627 USD, của Thái Lan là 593 USD) Trong suốt thời kỳ này, Philipines vẫn
theo đuổi chính sách bảo hộ và đưa ra chính sách thay thế hàng nhập khẩu
như tăng cường quản lý nhập khẩu, duy trì tỷ giá hối đoái cao… Kết quả là
sự tăng trưởng không thể dựa vào thị trường nhỏ bé trong nước trong khi
sản xuất và việc làm cũng không tăng như mong muốn. Trước tình hình này,
chính phủ Philipines đã cố gắng đa dạng hóa chiến lược kinh tế nhằm
khuyến khích xuất khẩu để có thể tạm thời đưa nền kinh tế tăng trưởng cao.
Nhưng những xáo trộn về chính trị đã khiến cho công cuộc cải cách không
thành công. Kết quả là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thấp, khối lượng xuất khẩu
tăng chậm, không thu hút được thêm vốn đầu tư nước ngoài. Cuối cùng,
Philipines đã không sử dụng tốt vốn ODA Nhật Bản cho phát triển kinh tế
trong tình trạng này (Philipines đã sử dụng 153,3 tỷ USD vốn ODA Nhật Bản
cho việc sắp xếp lại kế hoạch từ năm 1985 đến 1992)
2. Bài học kinh nghiệm
Qua phần phân tích trên, có thể rút ra một số kinh nghiệm để Việt Nam
có thể sử dụng hiệu qủa vốn ODA của Nhật Bản nói riêng và ODA nói chung
cho sự nghiệp phát triển kinh tế mà Đảng và Nhà nước đã đề ra:
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Việt Nam thiếu vốn và công nghệ, nên sử dụng hiệu quả ODA mà trước
hết là vốn cho phát triển kinh tế và Việt Nam cũng phải nhận ra rằng không một

quốc gia nào có thể tăng trưởng ổn định nếu không có một chiến lược rõ ràng
và dài hạn. Đây chính là khâu yếu nhất trong xây dựng chiến lược của Việt
Nam. Bài học từ các nước NICs, các nước trong khu vực ASEAN cho thấy,
công nghiệp hoá là chiến lược hiệu quả nhất đối với Việt Nam. Có hai con
đường để công nghiệp hóa thành công là thay thế hàng nhập khẩu và hướng
về xuất khẩu, trong đó chiến lược hướng về xuất khẩu hiệu quả hơn bởi ví dụ
thực tế ở Philipines và Thái Lan đã chứng minh điều này.
- Việt Nam nên tập trung sử dụng vốn ODA để cải thiện cở sở hạ tầng.
Chúng ta đều biết rằng nguồn vốn ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi cao, mà
cơ sở hạ tầng đòi hỏi phải đầu tư vốn lớn, thời gian hoàn vốn lâu… Vậy sử
dụng ODA cho đầu tư phát triển cở hạ tầng là chiến lược sử dụng có hiệu
quả nhất. Đặc biệt, kinh nghiệm từ các quốc gia ASEAN cho thấy sử dụng
vào giao thông và năng lượng là hiệu quả hơn cả và thực tế cũng chứng
minh rằng giao thông và năng lượng là hai nhân tố không thể thiếu trong quá
trình công nghiệp hoá.
- Việt Nam nên kết hợp chiến lược công nghiệp hoá với chính sách mở
cửa nền kinh tế để đạt được hiệu quả tăng trưởng cao. Phần phân tích trên
đã chứng minh sự khác biệt về chính sách đã dẫn đến sự khác biệt về kết
quả như thế nào tại Thái Lan và Philipines. Mà cụ thể hơn chính là việc cải
thiện môi trường đầu tư thông qua cải cách thủ tục hành chính.
- Việt Nam nên đẩy mạnh chính sách ngoại giao nhằm nâng cao vị thế
của mình trên các diễn đàn, các tổ chức quốc tế. Có như vậy thì chúng ta
mới có thể có thêm nhiều sự hợp tác giúp đỡ từ bên ngoài để thực hiện mục
tiêu của mình.
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ch¬ng II: Thùc tÕ thu hót vµ sö dông vèn ODA
t¹i ViÖt Nam
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

I. Khái quát
1. Bối cảnh KT-XH thúc đẩy sự cần thiết thu hút vốn ODA vào Việt
Nam
Đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Vấn để tích luỹ vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang tính thời
sự cấp thiết hiện nay. Chiến lược lâu dài là phải huy động tối đa nguồn vốn
trong nước để chiếm tỷ lệ cao trong đầu tư. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi mà nguồn vốn trong nước
còn hạn hẹp thì nguồn vốn nước ngoài là quan trọng, trên nguyên tắc đảm
bảo hiệu quả kinh tế và có khả năng trả nợ. Cùng với FDI, ODA tạo thành
nên vốn nước ngoài, và đã có đóng góp đáng kể trong việc cung cấp nguồn
vốn cho đầu tư phát triển.
Sau khi Việt Nam không còn nhận được viện trợ của Liên Xô đầu những
năm 90, chúng ra đã gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn cho đầu tư
phát triển. Tuy nhiên, đến tháng 10 năm 1993, khi vốn ODA xuất hiện trở lại
tại Việt Nam, nó đã đóng góp vào thành công to lớn của Việt Nam trên hầu
hết các ngành, các lĩnh vực, đặc biệt là cải thiện cơ sở hạ tầng và phát triển
xã hội. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn những tồn tại mà
nếu không được khăc phục kịp thời thì nó có thể ảnh hưởng không tốt đên
quan hệ của Việt Nam với các nhà tài trợ
2. Khái quát chung về ODA ở Việt Nam
Trước năm 1991, nước ta nhận được ODA từ 3 nguồn cung cấp ODA
chủ yếu:
- Liên Xô cũ và một số nước XHCN khác.
- Một số nước thuộc tổ chức OECD.
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Một số tổ chức quốc tế, tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ.
Kể từ tháng 10 năm 1993, ODA dành cho Việt Nam được cung cấp chủ yếu
từ những nước thuộc tổ chức OECD, các tổ chức quốc tế và Liên hợp quốc.

Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ
các nước phát triển sang các nước đang và chậm phát triển. Liên hiệp quốc,
trong một phiên họp toàn thể của Ðại hội đồng vào năm 1961 đã kêu gọi các
nước phát triển dành 1% GNP của mình để hỗ trợ sự nghiệp phát triển bền
vững về kinh tế và xã hội của các nước đang phát triển.
Với tên gọi là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, ODA về nguyên tắc chỉ
tập trung cho việc khôi phục và thúc đẩy sự phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội
của một quốc gia như xây dựng đường xá, giao thông công cộng, các công
trình thuỷ lợi, bệnh viện, trường học, cấp thoát nước và vệ sinh môi trường,
vv... Những dự án được đầu tư từ nguồn vốn ODA thường là các dự án
không hoặc ít có khả năng sinh lời cao, ít có khả năng thu hút được nguồn
đầu tư tư nhân. Vì vậy, nguồn lực rất có ý nghĩa để hỗ trợ thực hiện các
chương trình, dự án phục vụ các lợi ích công cộng. ODA được thực hiện
thông qua các hình thức sau:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán
- Hỗ trợ chương trình
- Hỗ trợ dự án
Ðảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn lực phục vụ cho
công cuộc phát triển kinh tế và xã hội của đất nước, trong đó nguồn lực trong
nước có tính chất quyết định, nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng.
ODA là một nguồn lực bên ngoài nếu được kết hợp với các nguồn lực khác
một cách hợp lý và sử dụng có hiệu quả thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được
hiệu quả cao trong việc sử dụng ODA đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam được hiểu là hoạt
động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam với Nhà tài trợ, bao gồm : Chính phủ nước ngoài và
Các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia.
- Chính phủ nước ngoài : hiện nay Việt Nam nhận được vốn ODA từ 24
quốc gia trên thế giới bao gồm: Anh, Áo, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Đức, Hà

Lan, Hàn Quốc, Italia, Luxumbourg, Malaysia, Mỹ, Na Uy, Nhật Bản, New
Zealand, Australia, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển,
Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Singapore.
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia
+ Các tổ chức phát triển của Liên Hợp Quốc (LHP) như: Chương trình
Phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP); Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc
(UNICEF); Chương trình Lương thực Thế giới (WFP); Tổ chức Lương thực
và Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (FAO); Quỹ Dân số Liên hiệp quốc
(UNFPA); Quỹ Trang thiết bị của Liên hiệp quốc (UNDCF); Tổ chức Phát triển
Công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO); Cao uỷ Liên hiệp quốc về người tị
nạn (UNHCR); Tổ chức Y tế Thế giới (WHO); Cơ quan Năng lượng Nguyên
tử Quốc tế (IAEA); Tổ chức Văn hoá, Kho học và Giáo dục của Liên hiệp
quốc (UNESCO); Quỹ Quốc tế về Phát triển Nông nghiệp (IFAD); Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF); Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) và Ngân hàng Tái thiết Phát
triển Quốc tế (IBRD) thuộc Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB).
+ Liên minh Châu Âu (EU), Tổ chức hợp tác Kinh tế và Phát triển
(OECD), Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN).
+ Các Tổ chức Tài chính Quốc tế: Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB);
Quỹ các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC); Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB);
Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF); Quỹ Kuwait.
3. Lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA
3.1. Đối với vốn ODA không hoàn lại
Vốn ODA không hoàn lại được ưu tiên sử dụng cho những chương
trình, dự án thuộc các lĩnh vực :
- Xoá đói giảm nghèo, trước hết tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
xa;
- Y tế, dân số và phát triển;
- Giáo dục, phát triển nguồn nhân lực;

- Các vấn đề xã hội (tạo việc làm, cấp nước sinh hoạt, phòng chống
dịch bệnh, phòng chống các tệ nạn xã hội);
- Bảo vệ môi trường, bảo vệ và phát triển các nguồn tài nguyên thiên
nhiên; nghiên cứu khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và
triển khai;
- Nghiên cứu chuẩn bị các chương trình, dự án phát triển (quy hoạch,
điều tra cơ bản);
- Cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng lực của cơ quan
quản lý Nhà nước ở Trung ương, địa phương và phát triển thể chế;
- Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
3.2. Đối với vốn ODA vay ưu đãi
Vốn ODA vay được ưu tiên sử dụng cho những chương trình, dự án
thuộc các lĩnh vực :
- Xoá đói giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn;
- Giao thông vận tải, thông tin liên lạc;
- Năng lượng;
- Cơ sở hạ tầng xã hội (các công trình phúc lợi công cộng, y tế, giáo
dục và đào tạo, cấp thoát nước, bảo vệ môi trường);
- Hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế -
xã hội;
- Hỗ trợ cán cân thanh toán;
- Một số lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Trong quá trình thực hiện, danh mục và thứ tự các lĩnh vực được ưu
tiên sử dụng nguồn vốn ODA sẽ được Chính phủ điều chỉnh cho phù hợp với
từng giai đoạn phát triển.
II. Tình hình thu hút vốn ODA ở Việt Nam
1. Tình hình chung
Trong giai đoạn từ 1993 đến nay, Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ tích

cực của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc phát triển kinh
tế xã hội. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đã đóng vai trò quan
trọng, góp phần giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm
nghèo và cải thiện đời sống nhân dân.
Trong bối cảnh tình hình hiện nay, khi nguồn ODA khó có khả năng gia
tăng trong khi nhu cầu phát triển đòi hỏi nguồn lực này rất lớn, Chính phủ
Việt Nam cam kết hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng ODA.
Hiện nay Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác phát triển
với 25 nhà tài trợ song phương, 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức
phi Chính phủ nước ngoài (NGO). Từ năm 1993-2002, Việt Nam đã hợp tác
với cộng đồng các nhà tài trợ tổ chức thành công 9 Hội nghị Nhóm tư vấn
các nhà tài trợ (Hội nghị CG) và được cộng đồng tài trợ cam kết hỗ trợ
nguồn vốn ODA với giá trị là 22,55 tỷ USD Trong đó, mức cam kết năm sau
cao hơn năm trước và đạt đỉnh điểm trong năm 2002 với 2,5 tỷ USD . Số vốn
ODA cam kết nói trên bao gồm viện trợ không hoàn lại (khoảng 15 - 20%),
phần còn lại là vốn vay ưu đãi.
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong giai đoạn 1993-2002, các điều ước quốc tế về ODA đã được ký
kết với tổng giá trị đạt 16,6 tỷ USD, trong đó có 13,29 tỷ là vốn vay và 3,32 tỷ
là viện trợ không hoàn lại. Từ nguồn vốn ODA này, nhiều chương trình, dự
án đã được thực hiện, góp phần nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội.
Các lĩnh vực điện năng; giao thông vận tải, phát triển nông thôn và nông
nghiệp (bao gồm cả thuỷ lợi, lâm nghiệp và thủy sản); giáo dục và đào tạo,
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, phát triển khoa học và chuyển giao công
nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Cam kết và thực hiện ODA thời kỳ 1993-2002
Năm Cam kết (Tỷ USD)
Thực hiện (Tỷ

USD)
1993 1,810 0,413
1994 1,940 0,725
1995 2,260 0,737
1996 2,430 0,900
1997 2,400 1,000
1998 *2,200 1,242
1999 **2,210 1,350
2000 2,400 1,650
2001 2,400 1,500
2002 2,500 1,620
Tổng số 22.550 11,237
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Ðầu tư
Ghi chú: (*) Chưa kể 0,5 tỷ USD dự định hỗ trợ cải cách kinh tế
(**) Chưa kể 0,7 tỷ USD dự định hỗ trợ cải cách kinh tế
25

×