Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất giống lúa om 4218 vụ hè thu năm 2013 tại xã thới xuân, huyện cờ đỏ thành phố cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 49 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
-oOo-

NGUYỄN HOÀNG SANG

ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 4218 VỤ HÈ THU NĂM 2013
TẠI XÃ THỚI XUÂN, HUYỆN CỜ ĐỎ
THÀNH PHỐ CẦN THƠ

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC

Cần Thơ, 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
-oOo-

Luận văn tốt nghiệp
Ngành: NÔNG HỌC

ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 4218 VỤ HÈ THU NĂM 2013
TẠI XÃ THỚI XUÂN, HUYỆN CỜ ĐỎ
THÀNH PHỐ CẦN THƠ

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN:


SINH VIÊN THỰC HIỆN:

GS. TS. NGUYỄN BẢO VỆ

NGUYỄN HOÀNG SANG

ThS. TRẦN THỊ BÍCH VÂN

MSSV: 3108401
LỚP: NÔNG HỌC K36

Cần Thơ, 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
------ O  ------

Luận văn tốt nghiệp kỹ sƣ ngành Nông học
ĐỀ TÀI:

“ẢNH HƯỞNG MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 4218 VỤ HÈ THU 2013
TẠI XÃ THỚI XUÂN, HUYỆN CỜ ĐỎ
THÀNH PHỐ CẦN THƠ”

Sinh viên thực hiện: NGUYỄN HOÀNG SANG
Kính trình lên Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.

Cần Thơ, ngày


tháng

năm 2013

Cán bộ hướng dẫn

GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ

ThS. Trần Thị Bích Vân

i


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA NÔNG NGHIỆP & SINH HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN DI TRUYỀN GIỐNG NÔNG NGHIỆP
------ O  ------

Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp nhận luận văn tốt nghiệp Kỹ sƣ ngành
Nông học với đề tài:

“ẢNH HƯỞNG MẬT ĐỘ SẠ ĐẾN NĂNG SUẤT
GIỐNG LÚA OM 4218 VỤ HÈ THU 2013
TẠI XÃ THỚI XUÂN, HUYỆN CỜ ĐỎ
THÀNH PHỐ CẦN THƠ”

Do sinh viện NGUYỄN HOÀNG SANG thực hiện và bảo vệ trƣớc Hội đồng
Ý kiến của Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp .....................................................
.............................................................................................................................

.............................................................................................................................
Luận văn tốt nghiệp đƣợc Hội đồng đánh giá ở mức: ............................................

Cần Thơ, ngày

tháng

năm 2013

Thành viên hội đồng

..................................

.................................
DUYỆT KHOA

Trưởng khoa Nông Nghiệp & SHƯD

ii

............................


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết
quả đƣợc trình bày trong luận văn tốt nghiệp là trung thực và chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kỳ công trình luận văn nào trƣớc đây.

Tác giả luận văn


Nguyễn Hoàng Sang

iii


LỜI CẢM TẠ
Xin kính dâng lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ đã có công ân sinh thành,
nuôi dƣỡng, suốt đời tận tụy, lo lắng cho con ăn học nên ngƣời.
Thành kính biết ơn thầy Nguyễn Bảo Vệ và cô Trần Thị Bích Vân đã tận tình
hƣớng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm quý báu, giúp đỡ chỉ bảo tôi nhiều điều trong
suốt thời gian thực hiện thí nghiệm và hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành biết ơn cố vấn học tập cô Trần Thị Thanh Thủy cùng với quí
thầy cô bộ môn Di Truyền Giống Nông Nghiệp, bộ môn Khoa Học Cây Trồng cũng
nhƣ thầy cô Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng Dụng đã truyền đạt kiến thức, tận
tâm hƣớng dẫn, dìu dắt, rèn luyện tôi trong suốt những năm học tại trƣờng Đại Học
Cần Thơ.
Xin cám ơn toàn thể các bạn trong và ngoài lớp Nông học K36 đã giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.

Nguyễn Hoàng Sang

iv


TIỂU SỬ CÁ NHÂN
1. LÝ LỊCH

Họ và tên: Nguyễn Hoàng Sang
Giới tính: Nam
Ngày, tháng, năm sinh: 02/09/1992

Nơi sinh: Ôn Môn, Cần Thơ
Dân tộc: Kinh
Tôn giáo: Không
Họ tên cha: Nguyễn Thanh Sơn
Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Cẩm Nang
Quê quán: ấp Thới Bình I, xã Thới Xuân, huyện Cờ Đỏ, TP.Cần Thơ.
2. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP

Năm 1998-2003: Trƣờng Tiểu Học Thị Trấn Cờ Đỏ II.
Năm 2004-2006: Trƣờng THCS Thị Trấn Cờ Đỏ.
Năm 2007-2010: Trƣờng THPT Hà Huy Giáp.
Năm 2010-2013: Trƣờng Đại Học Cần Thơ, ngành Nông Học, khóa 36, khoa Nông
Nghiệp & Sinh Học Ứng Dụng.

v


NGUYỄN HOÀNG SANG. 2013. “Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất lúa
OM 4218 vụ Hè Thu năm 2013 tại Xã Thới Xuân, Huyện Cờ Đỏ, Tp. Cần Thơ”.
Luận văn tốt nghiệp kỹ sƣ ngành Nông Học, Khoa Nông Nghiệp và Sinh Học Ứng
Dụng, Trƣờng Đại Học Cần Thơ. Cán bộ hƣớng dẫn: GS.TS. Nguyễn Bảo Vệ và
ThS. Trần Thị Bích Vân.
TÓM LƯỢC
Đề tài: "Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất lúa OM 4218 vụ Hè Thu
năm 2013 tại Xã Thới Xuân, Huyện Cờ Đỏ, TP.Cần Thơ " đƣợc thực hiện nhằm
mục tiêu xác định mật độ sạ thích hợp cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất
trong sản xuất lúa ở vùng nghiên cứu. Thí nghiệm đƣợc bố trí theo thể thức khối
hoàn toàn ngẫu nhiên, 3 nghiệm thức với 3 lần lặp lại: nghiệm thức 1: đối chứng sạ
mật độ 200 kg giống/ha (theo nông dân), nghiệm thức 2: sạ mật độ 150 kg giống/ha
và nghiệm thức 3: sạ 100 kg giống/ha. Kết quả thí nghiệm cho thấy khi sạ với mật

độ 200 kg giống/ha có số chồi/m2, số bông/m2 cao nhất nhƣng chiều dài bông, số
hạt/bông, số hạt chắc/bông và năng suất lại thấp nhất. Không đem lại hiệu quả kinh
tế khi không giảm đƣợc chi phí cho sản xuất. Đối với nghiệm thức sạ với mật độ
150 kg giống/ha có số chồi/m2 và số bông/m2 thấp hơn khi sạ 200 kg giống/ha
nhƣng chiều dài bông, số hạt/bông, số hạt chắc/bông và năng suất thì cao hơn. Khi
sạ với mật độ 100 kg giống/ha cho số chồi/m2, số bông/m2 thấp nhất nhƣng chiều
dài bông, số hạt/bông, số hạt chắc/bông và năng suất cao nhất. Hiệu quả kinh tế đạt
cao nhất khi lợi nhuận tăng thêm 1.507.000 đồng/ha.

vi


MỤC LỤC
Chƣơng

Nội Dung

Trang

Trang phụ bìa

i

Duyệt hội đồng khoa

ii

Lời cam đoan

iii


Lời cảm tạ

iv

Lƣợc sử cá nhân

v

Tóm lƣợc

vi

Mục lục

vii

Danh sách hình

x

Danh sách bảng

xi

Danh sách chữ viết tắt

xii

MỞ ĐẦU


1

CHƢƠNG 1 LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU

2

1.1 Giai đoạn sinh trƣởng và đặc điểm thực vật của cây lúa

2

1.1.1 Các giai đoạn sinh trƣởng của cây lúa

2

1.1.2 Đặc điểm thực vật

3

1.2 Yêu cầu của cây lúa

4

1.2.1 Yêu cầu về đất đai

4

1.2.2 Yêu cầu về sử dụng phân bón

5


1.3 Mật độ sạ

7

1.3.1 Phƣơng pháp gieo sạ

7

1.3.2 Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến năng suất lúa.

10

1.4 Các yếu tố cấu thành năng suất

10

1.4.1 Số bông trên đơn vị diện tích

10

1.4.2 Số hạt trên bông

11

1.4.3 Tỉ lệ hạt chắc

11

1.4.4 Trọng lƣợng 1000 hạt


12

1.5 Một số sâu bệnh hại chính

12

vii


1.5.1 Bệnh hại

12

1.5.2 Sâu rầy

13

1.6 Đánh giá khả năng phản ứng của cây lúa với một số sâu
bệnh hại chính

13

1.6.1 Bệnh đạo ôn

13

1.6.2 Rầy nâu

14


1.6.3 Sâu cuốn lá

14

1.6.4 Đổ ngã

14

CHƢƠNG 2 PHƢƠNG TIỆN VÀ PHƢƠNG PHÁP

15

2.1 Phƣơng tiện thí nghiệm

15

2.1.1 Thời gian và địa điểm

15

2.1.2 Vật liệu thí nghiệm

15

2.2 Phƣơng pháp thí nghiệm

16

2.2.1 Cách bố trí thí nghiệm


16

2.2.2 Kỹ thuật canh tác

16

2.2.3 Chỉ tiêu theo dõi

17

2.2.4 Phƣơng pháp phân tích số liệu

18

CHƢỚNG 3 KẾT QUẢ THẢO LUẬN

19

3.1 Ghi nhận tổng quan

19

3.2 Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến sự sinh trƣởng và phát
triển cây lúa

19

3.2.1 Chiều cao cây


19

3.2.2 Số chồi trên mét vuông

21

3.2.3 Chiều dài bông

21

3.3 Ảnh hƣởng mật độ gieo sạ đến thành phần năng suất

22

3.3.1 Các thành phần năng suất

22

3.3.2 Năng suất

25

3.4 Ảnh hƣởng của mật độ sạ đến hiệu quả kinh tế

26

CHƢƠNG 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

viii


28


4.1 Kết luận

28

4.2 Đề nghị

28

TÀI LIỆU THAM KHẢO

29

PHỤ CHƢƠNG

ix


DANH SÁCH BẢNG

Bảng

Tên bảng

3.1

Ghi nhận tổng quan thí nghiệm giống lúa OM 4218 sạ với các


Trang

mật độ khác nhau xã Thới Xuân, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ
vụ Hè Thu 2013.
3.2

19

Chiều cao của giống lúa OM 4218 vụ Hè Thu năm 2013 tại xã
Thới Xuân, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ.

3.3

Số chồi/m2 của giống lúa OM 4218 vụ Hè Thu năm 2013 tại
xã Thới Xuân, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ.

3.4

21

Chiều dài bông (cm) của giống lúa OM 4218 vụ Hè Thu năm
2013 tại xã Thới Xuân, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ.

3.5

20

22

Số bông/m2, Số hạt/ bông, Số hạt chắc/bông, tỷ lệ hạt chắc(%)

của giống lúa OM 4218 vụ Hè Thu năm 2013 tại xã Thới
Xuân, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ.

3.6

23

Trọng lƣợng 1000 hạt (g), năng suất (tấn/ha) của giống lúa
OM 4218 vụ Hè Thu năm 2013 tại xã Thới Xuân, huyện Cờ
Đỏ, TP. Cần Thơ.

3.7

25

Hiệu quả kinh tế của giống lúa OM 4218 vụ Hè Thu năm
2013 tại xã Thới Xuân, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ.

x

33


DANH SÁCH HÌNH

Hình

Tên hình

Trang


2.1

Bản đồ địa điểm thí nghiệm.

15

2.2

Sơ đồ bố trí thí nghiệm.

16

xi


DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
BVTV

:

Bảo vệ thực vật

ĐBSCL

:

Đồng bằng sông Cửu Long

ha


:

hecta

NSS

:

Ngày sau sạ

ctv.

:

Cộng tác viên

pH

:

Độ chua

SA

:

Sulphat ammonium

Rep


:

Replication (lần lặp lại)

xii


MỞ ĐẦU
Cây lúa (Oryza Satival L.) là một trong những cây lƣơng thực quan trọng
nhất ở nƣớc ta, trồng lúa nƣớc cũng là truyền thống rất lâu đời của nhân dân ta. Cây
lúa đƣợc trồng chủ yếu ở các đồng bằng châu thổ, ven sông và trồng nhiều nhất ở là
hai đồng bằng là Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Đặc biệt ở ĐBSCL, với tổng diện tích gieo trồng lúa gần 3,9 triệu ha, trong tổng số
7,30 triệu ha diện tích gieo trồng lúa cả nƣớc (chiếm 53,4%), ĐBSCL đã đóng góp
hơn 18,2 triệu tấn lúa trong tổng sản lƣợng khoảng 36 triệu tấn lúa của cả nƣớc,
chiếm tỷ lệ 50,5%. Hơn 80% sản lƣợng gạo xuất khẩu hằng năm là từ Đồng bằng
sông Cửu Long (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
Ở Việt Nam lúa đƣợc trồng nhiều và là cây lƣơng thực chính tƣơng đối dễ
trồng và thích nghi rộng với nhiều loại đất, khí hậu.Vụ lúa Hè Thu hiện nay là một
trong những vụ chính của ngƣời nông dân, có năng suất tƣơng đối cao, tùy theo
trình độ kỹ thuật, mức độ thâm canh, tập quán canh tác và nhu cầu thực tiễn về sản
xuất và đời sống mà mỗi địa phƣơng có những cách khác nhau. Tuy nhiên, thực tế
hiện nay cho thấy đa số nông hộ gieo sạ với mật độ cao khoảng 200kg/ha, bón nhiều
đạm sẽ tạo điều kiện cho sâu bệnh hại phát triển gây giảm năng suất từ 38,2-64,6%,
giảm tỷ lệ gạo nguyên từ 3,1-11,3% và giảm trọng lƣợng 1000 hạt từ 3,7-5,1%, gây
lãng phí công sức, tiền của và lợi nhuận giảm (Lê Hữu Hải và ctv., 2006). Vì vậy,
việc sạ với mật độ vừa phải sẽ rất có ý nghĩa trong việc giảm sự phát triển của dịch
hại. Tuy nhiên, việc áp dụng khoa học kỹ thuật của nông dân trong vùng ĐBSCL
còn khá chậm.Do đó, đề tài “Ảnh hưởng của mật độ sạ đến năng suất lúa OM

4218 vụ Hè Thu năm 2013 tại xã Thới Xuân, huyện Cờ Đỏ, TP. Cần Thơ” đƣợc
thực hiện nhằm mục tiêu xác định mật độ sạ thích hợp làm cơ sở khuyến cáo cho
nông dân trong sản xuất lúa.

1


CHƢƠNG 1
LƢỢC KHẢO TÀI LIỆU
1.1 CÁC GIAI ĐOẠN SINH TRƢỞNG VÀ ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT CỦA CÂY
LÚA
1.1.1 Các giai đoạn sinh trƣởng của cây lúa
Đời sống của cây lúa bắt đầu từ lúc hạt nảy mầm cho đến khi lúa chín. Có
thể chia làm 3 giai đoạn chính: giai đoạn tăng trƣởng, giai đoạn sinh sản và giai
đoạn chín Nguyễn Ngọc Đệ (2009).
1.1.1.1 Giai đoạn tăng trưởng
Giai đoạn này bắt đầu từ lúc hạt nảy mầm đến lúc cây lúa phân hóa đòng.
Giai đoạn này cây phát triển về thân lá, chiều cao tăng dần và ra nhiều chồi mới.
Cây ra lá ngày càng nhiều và kích thƣớc ngày càng lớn giúp cây lúa nhận đƣợc
nhiều ánh sáng mặt trời để quang hợp, hấp thụ dinh dƣỡng, gia tăng chiều cao, nở
bụi và chuẩn bị cho các giai đoạn sau. Trong điều kiện đầy đủ chất dinh dƣỡng, ánh
sáng và thời tiết thuận lợi, cây lúa có thể bắt đầu nở bụi khi có lá thứ 5-6 (Nguyễn
Ngọc Đệ, 2009). Thời gian sinh trƣởng của cây lúa kéo dài hay ngắn khác nhau chủ
yếu là do giai đoạn tăng trƣởng này dài hay ngắn (Nguyễn Thành Hối, 2011).
1.1.1.2 Giai đoạn sinh sản
Giai đoạn sinh sản bắt đầu từ lúc cây lúa phân hóa đòng đên lúc trổ bông.
Giai đoạn này kéo dài khoảng 27-35 ngày, trung bình 30 ngày và giống lúa dài ngày
hay ngắn ngày thƣờng không khác nhau nhiều. Lúc này số chồi vô hiệu giảm nhanh,
chiều cao tăng lên rõ rệt do sự vƣơn dài của 5 lóng trên cùng (Nguyễn Ngọc Đệ,
2009). Đòng lúa phát triển qua nhiều giai đoạn, cuối cùng thoát ra khỏi bẹ của lá cờ:

lúa trổ bông. Trong thời gian này nếu đầy đủ chất dinh dƣỡng, mực nƣớc thích hợp,
ánh sáng nhiều, không sâu bệnh và thời tiết thuận lợi thì bông lúa sẽ hình thành
nhiều hơn và vỏ trấu sẽ đạt kích thƣớc lớn nhất của giống, tạo điều kiện gia tăng
trọng lƣợng hạt sau này.
1.1.1.3 Giai đoạn chín
Giai đoạn này bắt đầu từ lúc lúa trổ bông đến lúc thu hoạch. Theo Nguyễn
Ngọc Đệ (2009) giai đoạn này trung bình khoảng 30 ngày đối với hầu hết các giống
lúa ở vùng nhiệt đới. Trong giai đoạn này cây lúa trải qua các thời kỳ sau:
+ Thời kỳ chín sữa (ngậm sữa): các chất dự trữ trong thân lá và các sản phẩm
quang hợp đƣợc chuyển vào trong hạt. Kích thƣớc hạt gạo tăng dần làm đầy vỏ trấu.
Hạt gạo chứa một dịch lỏng màu trắng đục nhƣ sữa nên gọi là thời kỳ ngậm sữa.

2


+ Thời kỳ chín sáp: hạt lúa mất nƣớc, từ từ cô đặc lại, nhƣng vỏ trấu vẫn còn
xanh.
+ Thời kỳ chín vàng: hạt tiếp tục mất nƣớc, gạo cứng dần, vỏ trấu bắt đầu
chuyển sang màu vàng đặc thù của giống lúa.
+ Thời kỳ chín hoàn toàn: hạt gạo khô cứng lại. Thời điểm thu hoạch tốt nhất
là khi 80% hạt lúa ngã sang màu vỏ trấu đặc trƣng của giống.
1.1.2 Đặc điểm thực vật
1.1.2.1 Rễ
Rễ lúa thuộc loại rễ chùm có nhiệm vụ hút nƣớc và chất dinh dƣỡng nuôi
cây, giúp cây bám chặt vào đất, cho nên bộ rễ có khỏe mạnh thì cây lúa mới tốt
đƣợc. Cây lúa có hai loại rễ: rễ mầm và rễ phụ.
+ Rễ mầm (radicle): là rễ mọc ra đầu tiên khi hạt lúa nảy mầm. Rễ mầm giữ
nhiệm vụ chủ yếu là hút nƣớc cung cấp cho phôi phát triển và sẽ chết sau 10-15
ngày, lúc cây mạ đƣợc 3-4 lá.
+ Rễ phụ (rễ bất định): mọc ra từ các mắt trên thân lúa. Tại mỗi mắt có 2

vòng rễ: vòng trên to và khỏe, vòng dƣới nhỏ và kém quan trọng hơn. Bên trong rễ
có nhiều khoảng trống ăn thông với thân và lá. Nhờ có cấu tạo đặc biệt này mà rễ
lúa có thể sống trong điều kiện thiếu oxy do ngập nƣớc (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
+ Bộ rễ lúa thƣờng có khoảng 500-800 rễ với tổng chiều dài 168 m. Số rễ đạt
tối đa ở giai đoạn trổ bông và giảm khi vào thời kỳ chin (Đinh Thế Lộc, 2006).
1.1.2.2 Thân
Thân lúa (stem) gồm những mắt và lóng nối tiếp nhau. Cây lúa nào có lóng
ngắn, thành lóng dầy và bẹ lá ôm sát thì thân lúa sẽ cứng chắc, khó đổ ngã và ngƣợc
lại.
Thân lúa gồm hai loại: thân giả và thân thật. Thân giả do bẹ lá kết hợp lại với
nhau. Thân thật đƣợc tạo nên bởi các đốt lóng kế tiếp nhau. Nó đƣợc hình thành kể
từ khi cây lúa phân hóa đốt và là kết quả của sự vƣơn dài của các đốt. Số đốt của
thân nhiều hay ít tùy giống và thay đổi do điều kiện của môi trƣờng.
Trên thân lúa các mắt thƣờng phình ra, tại mỗi mắt có một lá, một mầm chồi
và hai tầng rễ phụ. Thân lúa có nhiệm vụ vận chuyển và tích lũy các chất trong cây.
Trong điều kiện đầy đủ chất dinh dƣỡng và ánh sáng, mầm chồi sẽ phát triển thành
một chồi thật sự, thoát ra khỏi bẹ lá mang bông gọi là chồi hữu hiệu (Đinh Thế Lộc,
2006). Sự ra lá, ra chồi và ra rễ của cây lúa tuân theo một quy luật nhất định. Quy
luật này gọi là quy luật đồng hạng của Katayama về ra lá ra chồi và ra rễ “Khi lá
thứ n trên thân chính xuất hiện thì tại mắt lá thứ n-3 chồi sẽ xuất hiện và rễ phụ

3


cũng ra”. Các chồi mọc quá trễ khi cây lúa sắp phân hóa đòng thƣờng nhỏ yếu và
sau đó chết đi gọi là chồi vô hiệu.
1.1.2.3 Lá
Lúa là cây đơn tử diệp (một lá mầm). Lá mọc đối ở hai bên thân lúa, lá ra sau
nằm về phía đối diện lá ra trƣớc đó. Lá trên cùng gọi là lá cờ hay lá đòng. Lá lúa
gồm phiến lá, cổ lá và bẹ lá. Tại cổ lá có hai bộ phận đặc biệt là tai lá và thìa lá. Đây

là điểm đặc thù để phân biệt cây lúa với các cây họ hòa thảo khác (Nguyễn Thành
Hối, 2011).
1.1.2.4 Bông lúa
Bông lúa là cả một phát hoa gồm nhiều nhánh gié có mang hoa. Bông lúa có
nhiều dạng: bông túm hoặc xòe, đóng hạt thƣa hoặc dầy, cổ hở hay cổ kín là tùy
giống và điều kiện môi trƣờng. Sau khi ra đủ số lá nhất định thì cây lúa sẽ trổ bông.
Khi bông lúa chƣa trổ ta gọi là đòng lúa. Từ lúc hình thành đòng lúa đến lúc trổ kéo
dài khoảng 17-35 ngày, trung bình là 30 ngày.
1.2 YÊU CẦU CỦA CÂY LÚA
1.2.1 Yêu cầu về đất đai
Lúa có thể đƣợc trồng trên nhiều loại đất khác nhau từ đất phù sa, đất phèn,
đất mặn, đất bạc màu. Tuy nhiên, năng suất lúa trên các loại đất là tƣơng đối khác
nhau, phụ thuộc vào các yếu tố hạn chế của từng loại đất (Nguyễn Minh Huy,
2011).
Nói chung, đất trồng lúa cần nhiều dinh dƣỡng, chất hữu cơ, tơi xốp, thoáng
khí, khả năng giữ nƣớc, giữ phân tốt, tầng canh tác dầy để bộ rễ ăn sâu, bám chặt
vào đất và huy động nhiều dinh dƣỡng nuôi cây. Loại đất thịt hay đất pha sét, ít
chua hoặc trung tính là thích hợp đối với cây lúa. Trong thực tế, có những giống lúa
có thể thích nghi đƣợc với những điều kiện đất đai khắc nghiệt (phèn, mặn, khô hạn
hay ngập úng) rất tốt.
Đồng bằng sông Cửu Long với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ
cao và ít biến đổi trong năm, lƣợng bức xạ dồi dào là điều kiện thuận lợi cho việc
trồng lúa. Tuy nhiên, do lƣợng mƣa nhiều nhƣng phân bố không đều, đất đai, địa
hình phức tạp đã giới hạn năng suất lúa rất nhiều và hình thành những vùng trồng
lúa khác nhau với chế độ nƣớc, cơ cấu giống, mùa vụ và tập quán canh tác rất đa
dạng.

4



1.2.2 Yêu cầu sử dụng phân bón
Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), để phát triển, cây lúa cần nhiều loại dƣỡng
chất nhƣ đạm, lân, kali, silic, canxi, magie, sắt, kẽm, đồng....Trong đó, ba loại
dƣỡng chất chính lúa cần dùng nhiều để sinh trƣởng và tạo năng suất là đạm, lân và
kali. Ngoài ra, theo Trịnh Quang Khƣơng (2010), bón phân cho cây trồng nói chung
và cho cây lúa nói riêng là một yếu tố hết sức quan trọng có ảnh hƣởng rất lớn đến
năng suất. Bón đầy đủ phân đa lƣợng N, P, K có thể đóng góp 40-45% năng suất.
+ Chất đạm (N)
Đạm là nguyên tố dinh dƣỡng quyết định năng suất cây trồng, đạm trong
từng loại đất phụ thuộc vào hàm lƣợng hữu cơ có trong đất, đất giàu mùn thì có
nhiều đạm (Đỗ Ánh, 2003). Đối với cây lúa, đạm là thành phần quan trọng của các
acid amin, acid nucleic, chất diệp lục, là chất tạo hình của cây lúa, làm cho lá xanh
tốt, gia tăng chiều cao cây, số chồi, kích thƣớc thân lá và ảnh hƣởng rất lớn đến
năng suất. Đạm có tác dụng mạnh trong thời gian đầu sinh trƣởng của cây lúa, làm
tăng nhanh hệ số diện tích lá, tăng nhanh số nhánh đẻ. Ở ĐBSCL, sử dụng bảng so
màu lá để bón phân đạm làm tăng năng suất lúa 300-400 kg/ha (Trịnh Quang
Khƣơng, 2010).
Lúa hấp thu đạm chủ yếu ở dạng NH4+. Cây lúa hút đạm nhiều nhất vào hai
thời kỳ: thời kỳ đẻ nhánh và thời kỳ làm đòng (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Tuy nhiên, việc bón phân đạm cho cây lúa đƣợc (Đổ Ánh, 2003) cho rằng đạm nên
chia ra làm nhiều lần bón trong suốt thời kỳ sinh trƣởng của cây, không nên bón tập
trung. Cây lúa hút đạm nhiều nhất ở thời kỳ nào thì cũng đồng thời hút lân và kali
nhiều nhất ở thời kỳ đó (Nguyễn Đình Giao và ctv., 1997).
Ở các giai đoạn sinh trƣởng ban đầu, đạm đƣợc tích lũy chủ yếu trong thân
lá. Nếu thiếu đạm cây lúa lùn hẳn lại, nở bụi ít, chồi nhỏ, lá ngắn hẹp, trở nên vàng
và rụi sớm, cây lúa còi cọc không phát triển. Giai đoạn sinh sản, nếu thiếu đạm cây
lúa sẽ cho bông ngắn, ít hạt, hạt nhỏ và có nhiều hạt thoái hóa. Thừa đạm, cây lúa
phát triển thân lá quá mức, mô non, mềm, dễ đổ ngã, tán lá rậm rạp. Các loại phân
đạm phổ biến hiện nay là Urea 46% N, SA (Sulphat ammonium) 21% N.
+ Chất lân (P):

Đối với đất lân là một chỉ tiêu quan trọng của độ phì đất, đất giàu lân mới có
độ màu mỡ cao, giữa lân trong đất và năng suất cây trồng có mối tƣơng quan (Đổ
Ánh, 2003). Lân có vai trò đặc biệt quan trọng đối với cây trồng sau chất đạm. Lân
có tác dụng giải độc cho cây trồng, cần thiết hầu hết cho các quá trình sinh lý, sinh
hóa xảy ra trong cây (Nguyễn Ngọc Đệ, 2009). Nguyễn Minh Huy (2011), lân có
vai trò quan trọng trong sự phát triển của hệ rễ giúp cho lúa có thể hút chất dinh
dƣỡng từ đất. Trong một số trƣờng hợp đất phèn và đất phèn mặn thì lân có vai trò
5


kìm hãm các độc tố giúp cho lúa sinh trƣởng và phát triển. Lân là thành phần của
ATP, là nguồn năng lƣợng và bảo tồn vật chất, lân cần thiết cho hình thành acid
nucleic (ARN và ADN) và phospholipid. Lân thúc đẩy đẻ nhánh, trổ bông và tăng
cƣờng chất lƣợng hạt, lân còn thúc đẩy quá trình chín của cây (Đổ Ánh, 2003).
Cây lúa cần lân nhất trong giai đoạn đầu, nên cần bón lót trƣớc khi gieo sạ.
Đối với năng suất hạt, hiệu quả của phân lân trong các giai đoạn đầu cao hơn các
giai đoạn cuối. Theo Tôn Thất Trình (1968), lân đƣợc lúa hấp thu từ khi lúa bắt đầu
đâm rễ cho đến khi có gié, sau đó lúa ít sử dụng lân, nhƣ vậy lúa cần lân sớm và chỉ
cần bón một lần mà thôi. Thiếu lân cây lúa cũng lùn hẳn lại, nở bụi kém, lá thẳng
hẹp và màu sậm hơn bình thƣờng hoặc ngã sang màu tím bầm, lúa sẽ trổ và chín
muộn, hạt không no đầy.
Trong tự nhiên lân không ở dạng tự do mà thƣờng ở dạng hợp chất oxide hóa
(P2O5). Các loại phân lân phổ biến là Super lân 15-18% P2O5, lân Văn Điển 8-10%
P2O5, DAP (18N-46P2O5-0K2O), NPK....
+ Chất kali (K):
Sau đạm và lân, kali là nguyên tố dinh dƣỡng quan trọng thứ ba đối với sự
sinh trƣởng và phát triển của cây trồng. Kali là nguyên tố dinh dƣỡng thiết yếu đối
với cây trồng, kali đƣợc hấp thu vào cây và tồn tại dƣới dạng ion K+ (Nguyễn Ngọc
Đệ, 2009). Kali giữ vai trò quan trọng trong điều hòa nƣớc, pH của tế bào, thúc đẩy
hoạt động của enzym. Kali cần cho việc hình thành glucid, đƣờng, tổng hợp protein,

dầu, phân chia tế bào. Kali giúp chống rét, chống đổ ngã, tăng cƣờng màu sắc của
hạt, nhiều hạt chắc trên bông và trọng lƣợng 1000 hạt cao (Đổ Ánh, 2003). Kali
giúp cho quá trình quang hợp tốt hơn đặc biệt là trong điều kiện thiếu ánh sáng,
nhiệt độ thấp, thời tiết âm u (Nguyễn Xuân Trƣờng và ctv., 2000). Kali tập trung
chủ yếu trong rơm rạ, chỉ khoảng 6-20% ở trên bông.
Kali là dƣỡng chất ảnh hƣởng đến năng suất lúa rất lớn. Trong giai đoạn lúa
đẻ nhánh, kali cân đối với đạm sẽ làm tăng số gié trên bông từ đó làm tăng số hạt
trên bông. Để đạt đƣợc năng suất cao, trong giai đoạn đẻ nhánh hàm lƣợng kali phải
cao hơn đạm. Cây lúa hút kali mạnh nhất từ cuối giai đoạn đẻ nhánh đến tƣợng
đòng, cây lúa hút liên tục đến giai đoạn chín. Kali cần thiết cho bộ rễ phát triển
mạnh, năng suất cao, hạt lép ít và trọng lƣợng hạt cao (Nguyễn Xuân Trƣờng và
ctv., 2000). Thiếu kali cây lúa có chiều cao và số chồi gần nhƣ bình thƣờng, lá vẫn
xanh nhƣng mềm rũ, yếu ớt, dễ đổ ngã, dễ nhiễm bệnh và lá già rụi sớm. Phân kali
phổ biến hiện nay là clorua kali (KCl) 60% K2O, sulphate kali 48% K2O, NPK 1616-8, NPK 20-20-15,... Ngoài ra còn các dƣỡng chất cần thiết khác nhƣ: silic,
mangan, sắt, canxi,... cũng là các dƣỡng chất cần thiết cho sinh trƣởng và phát triển
của cây lúa.

6


1.3 MẬT ĐỘ SẠ
Theo Bùi Huy Giáp (1980) cho rằng việc bố trí mật độ cây trồng cũng tùy
thuộc vào giống:
+ Đối với giống dài ngày cao cây với mực nƣớc ruộng thích hợp và điều kiện
nhiệt đới ở nƣớc ta thì cấy với mật độ dầy là hợp lý, mỗi bụi nên cấy ít tép, bụi lúa
cấy ít tép sẽ đẻ nhánh thuận xòe ra 4 phía, bụi lúa tròn khỏe. Nếu cấy với mật độ
quá dầy với số tép cao trên bụi dễ đƣa đến tình trạng lốp, đổ non và có thể không
thu hoạch đƣợc năng suất do quần thể giảm nhiều.
+ Đối với giống lúa thấp cây, ngắn ngày có những đặc tính với giống cây cao
dài ngày nhất là kiểu lá, số lá trên cây (ít hơn), độ dầy lá, kích thƣớc lá, góc lá

hẹp…. Tất cả các ƣu điểm trên cho phép cây lúa có thể chịu đƣợc những mật độ dầy
hơn những giống cao cây. Đối với giống này sạ với mật độ càng dầy thì số chồi hữu
hiệu càng giảm thấp.
Theo Đào Thế Tuấn (1984) để cải thiện một thành phần năng suất lại đƣa
đến giảm thành phần năng suất khác, chẳng hạn nhƣ tăng số bông trên đơn vị diện
tích thì số hạt trên bông giảm. Theo tác giả, để cải thiện năng suất cây trồng thì dựa
vào mật độ cây trồng, diện tích lá, điều kiện đất đai để đạt năng suất cao nhất.
1.3.1 Phƣơng pháp gieo sạ
Trong sản xuất hiện nay có rất nhiều hình thức sạ khác nhau, điều này là do
điều kiện đất đai và nƣớc tƣới của từng vùng, vụ khác nhau mà chọn lựa phƣơng
pháp sạ thích hợp. Những vùng chủ động đƣợc nƣớc tƣới và đất tƣơng đối bằng
phẳng thƣờng áp dụng phƣơng pháp sạ ƣớt. Hiện nay, hầu hết diện tích trồng lúa ở
Đồng bằng sông Cửu Long là lúa cao sản và phƣơng pháp sạ ƣớt đƣợc sử dụng
nhiều nhất (Nguyễn Thành Hối, 2010). Đối với phƣơng pháp sạ ƣớt cũng có hai
phƣơng pháp đƣợc áp dụng là sạ lan theo tập quán và sạ theo hàng đang đƣợc
khuyến cáo áp dụng.
+ Phƣơng pháp sạ lan
Phƣơng pháp sạ lan đã đƣợc nông dân áp dụng từ khi bắt đầu canh tác lúa
cao sản ngắn ngày thay thế dần cho cây lúa mùa năng suất thấp. Phƣơng pháp này
có những ƣu điểm nổi trội so với phƣơng pháp sạ và cấy lúa mùa về khả năng gia
tăng số bông/m2, tính đồng đều về chiều cao và khả năng nhận ánh sáng (Nguyễn
Đình Giao và ctv., 1997). Đặc điểm của phƣơng pháp này là cây lúa đẻ nhánh sớm,
số bông nhiều, năng suất quan hệ chặt chẽ với số bông. Tuy nhiên, nhƣợc điểm của
phƣơng pháp này là mật độ thƣờng không đều, bộ rễ ăn nông, dễ bị chim chuột phá
hại và lúa thƣờng bị đổ ngã vào mùa có mƣa gió nhiều (Nguyễn Đình Giao và ctv.,

7


1997). Ở ĐBSCL, vụ Hè Thu thƣờng có mƣa nhiều nên sạ lan vào mùa này thƣờng

xuyên xảy ra sự đổ ngã làm giảm năng suất và phẩm chất hạt lúa rất lớn.
Hiện nay, lƣợng giống lúa cao sản ngắn ngày sạ lan đƣợc khuyến cáo là 150
kg giống/ha (Nguyễn Thành Hối, 2010). Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất ngƣời
trồng lúa thƣờng theo tập quán sạ với mật độ cao, lƣợng giống gieo sạ từ 200-300
kg giống/ha (Nguyễn Văn Luật, 2001). Với lƣợng giống gieo sạ nhiều nhƣ thế thì sẽ
ảnh hƣởng rất lớn đến sự tiếp nhận ánh sáng của từng cây lúa trong quần thể ruộng
lúa, nhu cầu dinh dƣỡng từ đất trồng và tạo điều kiện vi khí hậu dƣới tán lá thích
hợp cho sâu bệnh phát triển. Các nhà khoa học đã chứng minh đƣợc những yếu tố
gây dịch bệnh tích cực nhất là khi cây trồng phải sống trong quần thể chật hẹp thiếu
ánh sáng cho các lá dƣới, làm cho cây lúa trở nên yếu ớt sâu bệnh dễ tấn công
(Nguyễn Kim Chung và Nguyễn Ngọc Đệ, 2005). Kết quả nghiên cứu gần đây của
Lê Hữu Toàn (2009) cho thấy, sâu bệnh hại làm năng suất biến động đến 92,43%
khi áp dụng phƣơng pháp sạ lan truyền thống. Do đó, năng suất lúa sẽ đƣợc cải
thiện và giữ ổn định khi làm cho sự phát sinh và gây hại của sâu bệnh ở ngƣỡng
thấp bằng cách sử dụng lƣợng giống gieo sạ hợp lý.
+ Phƣơng pháp sạ hàng
Có thể nhận thấy rằng, sạ hàng là một bƣớc cải tiến về kỹ thuật gieo hạt
giống của phƣơng pháp sạ lan. Sạ hàng hạt giống tuy đƣợc theo hàng nhƣng vẫn
phải sạ theo phƣơng pháp sạ ƣớt giống nhƣ sạ lan. Hiện nay, phƣơng pháp sạ hàng
ở Đồng bằng sông Cửu Long đã thể hiện nhiều ƣu điểm so với sạ lan nhƣ: tiết kiệm
vật tƣ mà chủ yếu là giống và phân bón; tạo điều kiện thuận lợi để thâm canh; giảm
thiệt hại cho sâu bệnh; tăng năng suất so với phƣơng pháp sạ lan và kết hợp nuôi cá
hay nuôi vịt chóng lớn (Nguyễn Văn Luật, 2001).
Tuy nhiên, việc áp dụng phƣơng pháp này cũng gặp một số trở ngại đó là:
đất trên nông hộ nhỏ khó áp dụng và đất thiếu bằng phẳng; do chim, chuột và đặc
biệt là ốc bƣơu vàng; Kỹ thuật ngâm giống của nông dân còn chƣa đúng quy trình,
dẫn đến khi sạ mật độ không đều; tập quán sạ ở mật độ dầy của nông dân áp dụng từ
lâu nên khi chuyển sang kỹ thuật sạ hàng cần có một thời gian để thay đổi nhận thức
(Lê Trƣờng Giang, 2005; Trịnh Quang Khƣơng, 2010).
Dƣới điều kiện quản lý đồng ruộng tốt, mật độ sạ 100 kg giống/ha đƣợc

khuyến cáo để nhận năng suất lúa có chất lƣợng tốt, cũng nhƣ đáp ứng đủ số
bông/m2 cho việc chín đồng bộ trong hệ thống canh tác lúa sạ ƣớt (Trần Thị Ngọc
Huân và ctv.,1999). Trong kỹ thuật này, cây lúa có sự phân bổ quần thể ruộng lúa
thích hợp nên đã tận dụng đƣợc năng lƣợng mặt trời cho quá trình quang hợp tạo
năng suất và làm giảm thiệt hại do tác động của ngoại cảnh (Nguyễn Văn Luật,
2001).

8


Những nghiện cứu về ảnh hƣởng của phƣơng pháp sạ hàng đến năng suất
cho thấy, áp dụng phƣơng pháp này năng suất lúa có thể tăng so với phƣơng pháp sạ
lan từ 0,5-1,5 tấn/ha (Nguyễn Văn Luật, 2001). Theo Nguyễn Ngọc Đệ và Phạm
Thị Phấn (2004) cho rằng sạ thƣa có ƣu thế hơn trong việc tăng năng suất.
So với phƣơng pháp sạ lan thì phƣơng pháp sạ hàng có thể làm giảm đƣợc
lƣợng giống sử dụng từ 50-75%. Lƣợng giống giảm đƣợc tƣơng ứng khoảng từ 100150 kg giống/ha (Nguyễn Văn Luật và ctv., 1999). Nguyễn Kim Chung và Nguyễn
Ngọc Đệ (2005) cho rằng về mật độ sạ thì phƣơng pháp sạ hàng có ƣu thế hơn sạ
lan vì gieo hàng ít hao giống, ít sâu bệnh và cho năng suất tƣơng đƣơng với sạ lan ở
mật độ 200 kg giống/ha.
Ngoài ra còn có một số phƣơng pháp sạ khác nhƣ:
+ Sạ chay
Sạ chay là hình thức sạ không làm đất thƣờng áp dụng trong vụ Xuân Hè và
Hè Thu. Khi vừa thu hoạch xong thì tiến hành sạ ngay trên đất đó mà không phải
làm đất. Giống lúa vẫn ngâm ủ bình thƣờng. Ruộng có thể đƣợc đốt đồng hoặc
không (để nguyên gốc rạ). Sau đó bơm nƣớc vào ruộng rồi mới sạ, nƣớc đƣợc giữ
lại trong ruộng một ngày để ngâm đất và cho hạt lúa rút nƣớc đầy đủ. Sau đó rút
nƣớc ra chỉ giữ ẩm để hạt lúa mọc mầm nhƣ trƣờng hợp sạ ƣớt (Nguyễn Ngọc
Đệ,2009). Sạ chay có ƣu điểm là tranh thủ đƣợc thời vụ, né lũ, song có nhƣợc điểm
là dễ bị sâu bệnh do lƣu truyền từ vụ trƣớc (nhất là để nguyên gốc rạ), lẫn giống
năng suất không cao.

+ Sạ khô
Sạ khô thƣờng đƣợc áp dụng ở những vùng thiếu nƣớc đầu vụ (nhƣ ở Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,...). Việc làm đất vẫn đƣợc tiến hành khi không có nƣớc.
Hạt lúa giống không phải ngâm ủ mà gieo thẳng trên ruộng. Khi mƣa xuống, các hạt
lúa giống này sẽ nảy mầm và phát triển. Sạ khô có ƣu điểm tranh thủ thời vụ, tiết
kiệm nƣớc, song nhƣợc điểm là cỏ dại nhiều. Phƣơng pháp này chỉ đƣợc thực hiện
trong vụ hè thu sớm ( Nguyễn Ngọc Đệ, 2009)
+ Sạ ngầm
Sạ ngầm thƣờng đƣợc áp dụng trong vụ Đông Xuân ở những vùng lũ những
chân ruộng trũng nƣớc ngập sâu và không có điều kiện thoát nƣớc hoặc để tranh thủ
mùa vụ xuống giống sớm. Lúa giống vẫn đƣợc ngâm ủ và sạ bình thƣờng. Sau sạ,
cây lúa mọc và vƣơn cao trong nƣớc đồng thời lũ cũng rút dần và nƣớc ruộng về
mực nƣớc bình thƣờng. Sạ ngầm có điều kiện tiên quyết là nƣớc phải trong nhanh
sau khi sạ (Nguyễn Ngọc Đệ,2009). Phƣơng pháp này có ƣu điểm tranh thủ thời vụ,
hạn chế cỏ dại, song lại dễ mất mật độ do ốc bƣơu vàng, cua, cá ăn mất hạt giống,
lúa hay bị rong rêu bám, cây lúa mảnh.

9


1.3.2 Ảnh hƣởng của mật độ đến năng suất lúa.
Thƣờng năng suất của một giống lúa thay đổi nhiều qua mật độ gieo sạ,
muốn đạt đƣợc năng suất cao, phải đảm bảo mật độ gieo trồng thích hợp. Theo Đào
Thế Tuấn (1970) tăng mật độ, mở rộng diện tích lá xanh trên đơn vị diện tích trên
một phạm vi nhất định sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với việc tích lũy và tăng thêm
chất khô, tăng hiệu suất sử dụng ánh sáng, hạn chế chồi vô hiệu, tránh lãng phí chất
dinh dƣỡng, hạn chế tác hại cỏ dại (Nguyễn Thị Chuộng, 1987).
Yoshida (1985, trích dẫn bởi Nguyễn Thị Chuộng, 1987) cho rằng, ở quần
thể lúa sạ việc đẻ nhánh chỉ xảy ra đến mật độ 300 cây/m2, tăng số cây lên nữa thì
chỉ có thân cây chính phát triển cho ra bông. Trƣờng hợp lúa gieo thẳng rất dễ dàng

đạt 600 bông/m2 gấp hai lần số bông của ruộng cấy tốt. Nhƣng ở lúa sạ số hạt trên
bông sẽ thấp hơn lúa cấy nên dẫn đến số hạt trên mét vuông cũng có thể nhƣ nhau
giữa lúa cấy và lúa sạ.
Nhìn chung, mật độ sạ cũng có tác động đáng kể đến năng suất cuối cùng của
lúa. Việc xác định mật độ sạ thích hợp cho từng giống, từng vùng, từng mùa khác
nhau sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao năng suất lúa. Mật độ tốt nhất sẽ cho
năng suất cao nhất, tăng hay giảm mật độ đều làm cho năng suất giảm theo.
1.4 CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH NĂNG SUẤT
Năng suất lúa là yếu tố phản ánh hiện trạng canh tác trong mùa vụ. Theo
Nguyễn Ngọc Đệ (2009), năng suất lúa do bốn yếu tố cấu thành là: số bông trên đơn
vị diện tích, số hạt trên bông, tỷ lệ hạt chắc và trọng lƣợng 1000 hạt. Mỗi thành
phần năng suất đƣợc quyết định ở một giai đoạn nhất định của cây lúa.
Có thể tính năng suất theo công thức sau:
Năng suất lý thuyết (tấn/ha) = số bông trên đơn vị diện tích x số hạt trên
bông x tỷ lệ hạt chắc (%) x trọng lƣợng 1000 hạt (g) x 10-5 (Yoshida, 1981 và
Nguyễn Ngọc Đệ, 2009).
1.4.1 Số bông trên đơn vị diện tích (số bông/m2)
Số bông trên đơn vị diện tích là yếu tố có tính chất quyết định nhất và có ảnh
hƣởng sớm nhất trong bốn yếu tố tạo thành năng suất của cây lúa. Số bông/m2 đƣợc
quyết định vào giai đoạn sinh trƣởng ban đầu của cây lúa (giai đoạn tăng trƣởng),
nhƣng tập trung chủ yếu là giai đoạn từ khi cấy đến khoảng 10 ngày trƣớc khi có
chồi tối đa và tùy vào mật độ gieo sạ và khả năng nở bụi của cây lúa (Nguyễn Ngọc
Đệ, 2009). Ngoài ra, theo Nguyễn Đình Giao và ctv.,(1997) cho rằng thời gian
quyết định số bông là thời kỳ đẻ nhánh.

10


Mật độ gieo sạ và khả năng nở bụi của cây lúa thay đổi tùy theo từng giống
lúa, điều kiện đất đai, chế độ nƣớc, phân bón, tình hình thời tiết, sâu bệnh và thời vụ

gieo trồng. Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), số bông trên đơn vị diện tích có ảnh
hƣởng thuận với năng suất. Các giống lúa thấp cứng cây có số bông/m2 trung bình
phải đạt 500-600 bông/m2 đối với lúa sạ hoặc 350-450 bông/m2 đối với lúa cấy mới
có thể cho năng suất cao.
1.4.2 Số hạt trên bông
Số hạt trên bông là yếu tố quan trọng thứ hai trong các yếu tố cấu thành năng
suất lúa. Số hạt trên bông đƣợc quyết định từ lúc tƣợng cổ bông đến 5 ngày trƣớc
khi trổ, nhƣng quan trọng nhất là thời kỳ phân hóa hoa và giảm nhiễm tích cực
(Nguyễn Ngọc Đệ, 2009). Số hạt trên bông tùy thuộc vào hai yếu tố quan trọng là số
hoa bị thoái hóa và số hoa đƣợc phân hóa. Trong thời kỳ phân hóa này, số hạt trên
bông có ảnh hƣởng thuận với năng suất lúa do ảnh hƣởng đến số hoa đƣợc phân
hóa. Sau giai đoạn này số hạt trên bông đã hình thành có thể bị thoái hóa và có ảnh
hƣởng âm. Số hoa đƣợc phân hóa và số hoa bị thoái hóa chịu ảnh hƣởng bởi giống
lúa, kỹ thuật canh tác và điều kiện thời tiết. Theo Nguyễn Ngọc Đệ (2009), số hạt
trên bông ở các giống lúa cải thiện ở ĐBSCL phải đạt từ 80-100 hạt đối với lúa sạ
và 100-120 hạt đối với lúa cấy.
1.4.3 Tỷ lệ hạt chắc (%)
Tỷ lệ hạt chắc là yếu tố quan trọng thứ ba trong các yếu tố hình thành năng
suất lúa. Tỷ lệ hạt chắc đƣợc quyết định ở thời kỳ trƣớc và sau khi trổ bông, có ba
thời kỳ quyết định trực tiếp là giảm nhiễm, trổ bông và chín sữa. Theo Nguyễn
Ngọc Đệ (2009), tỷ lệ hạt chắc phụ thuộc vào số hoa trên bông, đặc tính sinh lý của
cây lúa và chịu ảnh hƣởng của điều kiện ngoại cảnh.
Các yếu tố ảnh hƣởng đến tỷ lệ hạt chắc:
+ Lƣợng phân bón: mỗi giống lúa thích nghi với một lƣợng phân bón nhất
định để sinh trƣởng và hình thành năng suất. Lƣợng dinh dƣỡng quá cao hay quá
thấp so với nhu cầu cần thiết của cây lúa đều ảnh hƣởng đến giới hạn cho năng suất
của cây lúa. Nếu vƣợt quá giới hạn yêu cầu của cây lúa, nhất là bón thừa phân đạm
là yếu tố quan trọng làm tỷ lệ hạt chắc giảm.
+ Cƣờng độ ánh sáng: tỷ lệ hạt chắc sẽ giảm nếu cƣờng độ ánh sáng giảm
vào giai đoạn lúa làm đòng đến lúc tạo hạt. Lúa tập trung quang hợp mạnh vào thời

kỳ này để nuôi hạt, nếu cƣờng độ ánh sáng giảm sẽ làm giảm cƣờng độ quang hợp
của cây lúa làm ảnh hƣởng đến việc cung cấp cacbohydrate cho hạt làm tăng tỷ lệ
hạt lép.

11


×