Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

quy định của wto về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 86 trang )

Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 2010-2014
ĐỀ TÀI:
:

QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
VÀ VẤN ĐỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ ĐỐI VỚI
HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
Th.S Thạch Huôn
Bộ môn Luật Thương mại

Sinh viên thực hiện:
Cù Thị Kiều Trang
MSSV: 5105920
Lớp : LK1064A1
Khóa : 36

Cần Thơ, 10/2013

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 1


SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AD, CBPG

Chống bán phá giá

ADA

Hiệp định chống bán phá giá của WTO

CFA

Hiệp hội các chủ trại cá theo Hoa Kỳ

DOC

Bộ thương mại Hoa Kỳ

EU

Liên minh Châu Âu

GATT

Hiệp định chung về thuế quan và thương mại


GDP

Tổng sản phẩm nội địa

ITC

Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ

MFN

Quy chế tối huệ quốc

NME

Nền kinh tế phi thị trường

NT

Quy chế đãi ngộ quốc gia

POR

Rà soát hành chính

VASEP

Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam

VCCI


Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

USD

Đô la Mỹ

SSA

Liên minh tôm miền Nam Hoa Kỳ

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 2

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ THUẾ CHỐNG BÁN
PHÁ GIÁ............................................................................................................................3
1.1 Một số khái niệm…………………………………………………….……...........….7
1.1.1Bán phá giá…………………………………………………………….………..…..7

1.1.2Thuếchốngbán phá giá………………………………………………….………......8
1.2 Đặc điểm của bán phá giá………………………………………………….………..8
1.3 Nguyên nhân và tác động của bán phá giá……..……………………………….……16
1.3.1Nguyên nhân dẫn đến bán phá giá ...………...………………………………….………16
1.3.2Tác động của việc bán phá giá…………...……………………………………………..17
1.4 Tình hình chống bán phá giá trong tự do hóa thƣơng mại…………………………19
CHƢƠNG 2: HIỆP ĐỊNH VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO

......................21

2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Hiệpđịnh…………………..…………….…...21
2.2 Mục tiêu và bản chất của pháp luật chống bán phá giá ……………………...…..22
2.3 Quy trình và thủ tục chống bán phá giá của Hiệp định ……………………...…..23
2.3.1Trước khi bắt đầu điều tra …………………………………………………………….....23
2.3.1.1Xác định việc bán phá giá ……………………………………………………………..23
2.3.1.2 Xác định thiệt hại……………………….………………………………………….......32
2.3.1.3 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá và thiệt hại.............……………..35
2.3.2Bắt đầu điều tra ...…………………………………………………………..…………….36
2.3.2.1 Căn cứ bắt đầu cuộc điều tra …………………………………………...……………..36
2.3.2.2 Quyết định bắt đầu điều tra …...………………………………………………………38
2.3.2.3 Thông báo công khai...………………………………………………………………...39
2.3.3 Tiến hành điều tra ……………………………………………………….…………...…..39
2.3.3.1 Thời hạn điều tra................................................................................................... 39
2.3.3.2 Thu thập thông tin ...……………………………….…………………………………..40
2.3.3.3 Ra quyết định ...……………………………………..………………………………….47
2.3.4 Kết thúc điều tra …………………………………….…………………………………...47
2.3.4.1 Chấm dứt mà không đưa ra biện pháp nào………..……………………………..….48
2.3.4.2 Các biện pháp chống bán phá giá...………………...………………………………..48
2.3.5 Rà soát………………………………………………..…………………………………..52


GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 3

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ ĐỐI VỚI HÀNG XUẤT
KHẨU CỦA VIỆT NAM....................................................................................51
3.1 Thực trạng và nguyên nhân của chống bán phá giá hàng xuất khẩu của Việt
Nam………………………………………………………………………………............55
3.1.1 Một số vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng hóa Việt Nam………………....….61
3.1.1.1 Vụ kiện chống bán phá giá mặt hàng cá Tra, cá Basa của Việt Nam ………….….61
3.1.1.2 Vụ kiện bán phá giá tôm Việt Nam ở thị trường Hoa Kỳ …...………………...…...65
3.1.1.3 Vụ kiện chống bán phá giá giày mũ da Việt Nam tại thị trường EU……. …...…..67
3.1.2 Nguyên nhân hàng hóa của Việt Nam bị kiện chống bán phá giá. ……...………......71
3.2 Những khó khăn trong xử lý vụ kiện chống bán phá giá…………………...……...74
3.2.1 Nhận thức chưa tốt về chống bán phá giá..………..…………………………………..74
3.2.2 Hệ thống kế toán của doanh nghiệp còn yếu kém……...…..…………………………75
3.2.3Hạn chế về thời gian……………………………………….……………………………..76
3.2.4 Khả năng trả lời câu hỏi và lưu giữ tài liệu để chứng minh chưa
tốt……………….76
3.3 Một số giải pháp chủ động ứng phó với vụ kiện chống bán phá
giá…………….74
3.3.1 Nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, các cơ
quanhữu quan…. ..…………………………………………………………………….….…….78
3.3.2 Chiến lược tăng trưởng xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa
………………..…………………………………………………………………………………..79

3.3.3 Hoàn thiện chế độ hạch toán kế toán và sổ sách tài liệu của các doanh nghiệp......81
3.3.4 Cần làm tốt công tác vận động hành lang ……………………….…..……..……….78
3.3.5 Đưa vụ việc ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO
….………………………….79
KẾTLUẬN……………..…………………………………………...................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 4

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) của Việt Nam năm 2007, đã mở ra cho các doanh nghiệp cơ hội
thâm nhập thị trường mới, mở rộng thị phần, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Cụ thể,
năm 2006 xuất khẩu chỉ mới đạt 39,6 tỉ USD thì 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 71,6 tỉ
USD, năm 2012 xuất khẩu vượt mức 100 tỉ USD và tính đến hết tháng 9/2013 tổng kim
ngạch xuất khẩu Việt Nam đạt gần 100 tỉ USD (gần bằng kim ngạch xuất khẩu cả năm
2012).1
Cùng với sự tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, Việt Nam gặp không ít các rào cản
thuế quan và phi thuế quan biểu hiện của một trong các rào cản này là chính là việc xuất
hiện ngày càng nhiều vụ kiện chống bán phá giá của nước ngoài đối với hàng xuất khẩu
của Việt Nam. Nếu như ở trước thời điểm Việt Nam làm đơn xin gia nhập WTO năm

1995, nền xuất khẩu chỉ gặp một vài vụ kiện đối với những mặt hàng xuất khẩu không
trọng yếu như: tỏi, mì chính…thì sau năm 2000 hàng loạt các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam bị kiện (cá basa, tôm, giày mũ da…) trên những thị trường quan trọng như:
Hoa Kỳ, EU, Canada…Tính đến thời điểm hiện tại, tháng 9/2013 Việt Nam đã phải đối
đầu với 52 vụ kiện chống bán phá giá trong đó có đến 29 vụ bị áp thuế chống bán phá giá.
Điều đặc biệt là trong thời gian gần đây những mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch xuất
khẩu không cao cũng bị kiện bán phá giá như: Lốp xe đạp, mắc áo thép…
Đến lúc Việt Nam phải nhìn nhận rằng chống bán phá giá là một thách thức trong tự
do hóa thương mại, những vụ kiện sẽ ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của hoạt
động xuất khẩu nhất là khi Việt Nam còn bị xem là nước có nền kinh tế phi thị trường.
Dó đó, các doanh nghiệp Việt Nam từ kinh nghiệm của các vụ kiện đã qua đồng thời phải
chuẩn bị thêm những kiến thức cần thiết để chủ động phòng và ứng phó với những vụ
kiện đang xảy ra và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Xuất phát từ các lý do trên người viết
lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề
chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu chi tiết quy định của WTO trong vấn đề chống bán phá giá và thực tiễn
chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay trên thị trường nước

1

Hải quan Việt Nam, [truy cập ngày 20/
10/2013].

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 5

SVTH: Cù Thị Kiều Trang



Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
ngoài. Trên cơ sở đó người viết đưa ra một số giải pháp mang tính thực tế và khả thi giúp
cho hàng xuất khẩu Việt Nam hạn chế nguy cơ bị kiện chống bán phá giá.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về vấn đề bán phá giá và chống bán phá giá trong thương mại
quốc tế, tức là việc bán phá giá qua biên giới quốc gia và được pháp luật thương mại quốc
tế điều chỉnh. Đề tài không nghiên cứu vấn đề bán phá giá hàng hóa trong phạm vi nội địa
của một quốc gia.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn luận văn này người viết đã tiến hành thu thập các tài liệu có
liên quan bao gồm: các văn bản luật; sách, báo, tạp chí; những thông tin trên trang thông
tin điện tử. Thông qua phương pháp này người viết có thể phân tích một cách chi tiết quy
định của WTO về chống bán phá giá.
Bên cạnh phương pháp thu thập tài liệu thì phương pháp phân tích luật viết và
phương pháp so sánh cũng được người viết sử dụng trong bài viết này. Phương pháp phân
tích luật viết được người viết sử dụng thông qua việc phân tích các quy định luật, kết hợp
với nhận xét đánh giá các quy định này để làm cơ sở cho việc tiếp cận thực tiễn.
5. Nội dung đề tài
Lời nói đầu
Chương 1: Khái quát chung về bán phá giá và thuế chống bán phá giá
Ở chương này, người viết tìm hiểu tổng quát về bán phá giá và thuế chống bán phá
giá, những đặc điểm, nguyên nhân và các tác động của bán phá giá cùng với tình hình
chung về chống bán phá giá hiện nay.
Chương 2: Quy định của WTO về chống bán phá giá
Tiếp theo, người viết tìm hiểu về các quy định chi tiết của WTO về chống bán phá
giá thông qua Hiệp định chống bán phá giá. Cụ thể là lịch sử hình thành và phát triển của
Hiệp định, bản chất và trình tự thủ tục về chống bán phá giá.
Chương 3: Thực trạng chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam

Trong phần này, người viết nêu lên tình hình khởi kiện chống bán phá giá của các
nước đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Qua đó nêu lên các khó khăn trong xử lý vụ
kiện chống bán phá giá từ đó đưa ra một số giải pháp chủ động ứng phó với vấn đề chống
bán phá giá hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Kết luận

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 6

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ THUẾ CHỐNG BÁN
PHÁ GIÁ

1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1 Bán phá giá
Bán phá giá được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, dưới góc độ học thuật bán phá
giá được hiểu một cách đơn giản là bán hàng ra nước ngoài với giá thấp hơn giá bán tại
thị trường nội địa. Ví dụ: Từ điển kinh tế học hiện đại cho rằng bán phá giá (dumping)
được hiểu là việc bán một hàng hoá ở nước ngoài với mức giá thấp hơn so với mức giá ở
thị trường trong nước.2 Theo Từ điển chính sách thương mại thì phá giá được hiểu là
thực tiễn bán hàng của một công ty với giá bán ra nước ngoài thấp hơn giá bán tại thị
trường trong nước (giá nội địa của nước xuất khẩu)3; cuốn Black’s Law dictionary định
nghĩa phá giá là hành vi bán hàng hoá ra nước ngoài với giá thấp hơn giá bán tại thị

trường nội địa.4 Theo cách hiểu này, bán phá giá hàng hóa là sự phân biệt giá của cùng
loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường nước xuất khẩu và trên thị trường nước nhập khẩu.
Do đó, để xác định việc bán phá giá, người ta phải tính toán được giá xuất khẩu và giá
bán trên thị trường xuất khẩu của hàng hóa đó (còn gọi là giá nội địa).
Dưới góc độ pháp lý, khái niệm pháp lý về bán phá giá lần đầu tiên được ghi nhận
trong đạo luật thuế hải quan Canada được thông qua ngày 10 tháng 8 năm 1904. Sau đó,
New Zealand và Úc cũng ban hành các văn bản pháp luật về chống bán phá giá vào năm
1905 và 1906. Khi chống bán phá giá đã trở thành một nội dung quan trọng trong pháp
luật thương mại quốc tế thì khái niệm bán phá giá cũng được ghi nhận tại Điều VI Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại năm 1947 (gọi tắt là GATT) và trong Hiệp định
thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 của tổ chức
thương mại thế giới (WTO) định nghĩa “một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được
đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông thường của sản
phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một
nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng
tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường”. Cụ thể là: Giá thông
thường – Giá xuất khẩu = mức bán phá giá (biên độ phá giá).
2

David W. Pearce, Từ điển kinh tế học hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 282.
Walter Goode, Từ điển chính sách thương mại quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1997, tr. 82.
4
Bryan A.Garner, Black,s law dictionary, ST.Paul, MINN, USA, 1999, tr. 518.
3

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 7

SVTH: Cù Thị Kiều Trang



Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
Về cơ bản, khái niệm pháp lý giống với các khái niệm học thuật khi cho rằng bán
phá giá là sự chênh lệch giữa mức giá tại thị trường nội địa nước xuất khẩu và mức giá
xuất khẩu. Tuy nhiên, theo khái niệm pháp lý bán phá giá, thì cơ sở để xác định sự chênh
lệch về giá là giá trị thông thường của hàng hóa, sản phẩm bị nghi là phá giá. Giá thông
thường được hiểu là giá bán sản phẩm tương tự với sản phẩm bị điều tra tại thị trường
nước xuất khẩu. Điều đặc biệt ở đây là có sự linh hoạt trong việc xác định giá là “giá trị
thông thường” với tư cách là “mức giá chuẩn” để so sánh giá. Hiểu dưới góc độ này đã bù
đắp được những khiếm khuyết cũng như quá cứng nhắc trong cơ chế xác định giá trong
bán phá giá dưới góc độ học thuật, bởi lẽ việc xác định giá của sản phẩm tương tự tại thị
trường nội địa không hề đơn giản và có khi cũng có thể là không thể thực hiện được, với
nhiều nguyên nhân như giá bán trong nước được định giá thấp (thấp hơn chi phí sản xuất
nhưng cao hơn giá xuất khẩu), hàng hóa này chỉ sản xuất để xuất khẩu hoặc số lượng tiêu
thụ của hàng hóa bị xem là phá giá trong nước nhỏ…Nếu chỉ căn cứ vào giá nội địa thì sẽ
dẫn đến việc xác định giá cho bán phá giá là không chính xác hay không có căn cứ để xác
định.
Do vậy, mà bán phá giá dưới góc độ pháp lý đã hoàn chỉnh hơn rất nhiều, về cơ sở
xác định giá là giá bán của sản phẩm tương tự tại thị trường nội địa nước xuất khẩu, nếu
không xác định được theo căn cứ này thì căn cứ tiếp theo cho việc xác định giá là giá bán
tại nước thứ ba và cuối cùng là dựa vào giá suy định. Như đã phân tích ở trên thì một câu
hỏi có thể đặt ra ở đây là: Bán phá giá có thể xem như là một hành vi hạ giá bán để bán
với giá thấp và như vậy thì có phải hàng hóa được hạ giá, bán với giá rẻ thì bị xem là bán
phá giá?
Trong khoa học pháp lý, có thể phân biệt được hành vi bán phá giá với việc hạ giá
hoặc bán hàng hóa với giá rẻ là kết quả của việc giảm chi phí hay tăng năng suất. Hành vi
bán hàng rẻ hơn giá hàng hóa, sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu là kết quả của quá
trình giảm chi phí sản xuất đã đem lại lợi ích cho sự phát triển kinh tế và thặng dư xã hội,

thúc đẩy quá trình cạnh tranh lành mạnh trên thị trường tự do. Vì vậy, pháp luật coi đó là
hành vi cạnh tranh lành mạnh, cần khuyến khích. Phá giá là hành vi đi ngược lại các
nguyên lý cạnh tranh lành mạnh của thị trường tự do vì đã xâm hại nguyên tắc công bằng
trong đối xử về giá hoặc giành giật thị trường một cách bất chính. Tóm lại, không phải
mọi hành vi hạ giá thì xem như bán phá giá, chỉ đến khi có đủ yếu tố cấu thành một hành
vi bán phá giá thì mới bị xem là bán phá giá.
Nghiên cứu về hành vi bán phá giá trong quan hệ thương mại quốc tế, nếu nhìn dưới
góc độ quyền lợi của người tiêu dùng trong ngắn hạn thì bán phá giá đem lại lợi ích cho
người tiêu dùng do giá rẻ. Sự chênh lệch giữa giá bán của nhà sản xuất nội địa và giá bán

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 8

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
của hàng nhập khẩu là thặng dư của người tiêu dùng. Đồng thời nó phản ánh mức độ đe
dọa đối với thu nhập và quyền lợi của các nhà sản xuất nội địa. Sự xuất hiện của nhà nước
trong việc ngăn chặn và loại bỏ những tác hại của hành vi bán phá giá dường như đụng
chạm đến sự xung đột giữa quyền lợi của người tiêu dùng và quyền lợi của nhà sản xuất.
Vì vậy, để nhìn rỏ bản chất của phá giá, đôi khi khoa học pháp lý cần phải nghiên cứu từ
góc độ ý nghĩa kinh tế của bán phá giá đối với sự phát triển của thị trường của nước nhập
khẩu, từ đó xác định nhu cầu và mục đích của việc điều chỉnh pháp luật. Dấu hiệu cơ bản
để xác định bán phá giá là sự chênh lệch về giá của sản phẩm tại hai thị trường đó là thị
trường nước xuất khẩu và thị trường nước nhập khẩu. Do đó, kinh tế học chia phá giá
thành hai trường hợp tiêu biểu để phân tích :
Trường hợp thứ nhất: Giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nước nhập khẩu nhưng

vẫn cao hơn chi phí sản xuất. Hành vi bán hàng ra nước ngoài với giá thấp hơn giá bán
trong thị trường nội địa mặc dù có thể coi là hành vi phân biệt giá trong quan hệ thương
mại quốc tế. Tuy nhiên, xét về bản chất thì hành vi này khó có thể cho đây là bán phá giá
và bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Dưới góc độ kinh tế, hành vi bán hàng thấp
hơn giá nội địa nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất là một hiện tượng thông thường khi
nhà sản xuất được hưởng lợi thế độc quyền trên thị trường nội địa do được bảo hộ bởi rào
cản thương mại tự nhiên hoặc phi tự nhiên, nên có thể bán sản phẩm trong nước với giá
cao. Khi tham gia thị trường quốc tế, vì có cạnh tranh nên nhà sản xuất phải bán sản
phẩm với giá thấp để tồn tại. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là hành vi nêu trên có bị xem là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thị trường quốc tế không? Có nhiều quan điểm
khác nhau về vấn đề trên.5
Quan điểm thứ nhất, cho rằng hiện tượng trên thực sự đã cấu thành các dấu hiệu của
việc phá giá hàng hóa và cũng đe dọa đến lợi ích xã hội khi mà giá bán tại thị trường nội
địa của nước nhập khẩu thấp hơn giá bán của hàng hóa tương tự sản xuất tại thị trường
nội địa của nước nhập khẩu. Bởi lẽ, khi việc phá giá này xảy ra với một lượng lớn và
trong một thời gian dài sẽ làm giảm giá hàng hóa cạnh tranh với hàng nhập khẩu và từ đó
ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của nhà sản xuất và lương của người lao động tham gia sản
xuất sản phẩm cạnh tranh trong thị trường nhập khẩu. Vì vậy, yêu cầu nhà nước cần can
thiệp đề bảo hộ quyền lợi của nhà sản xuất nội địa.6
Quan điểm thứ hai, nhìn từ góc độ quyền lợi của người tiêu dùng cho rằng lợi ích
mà hành vi phá giá này đem lại là người tiêu dùng được hưởng thụ hàng hóa, sản phẩm
5

Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 14-15.
6
Bộ Thương mại, Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam, trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, tr. 6.

GVHD: Th.S Thạch Huôn


Trang 9

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
với giá thấp, quyền lợi của người tiêu dùng phản ánh lợi ích chung của xã hội. Trong
nhóm quan điểm này có ý kiến cho rằng cũng cần phải cân nhắc sự nặng nhẹ giữa lợi ích
của người tiêu dùng và của nhà sản xuất. Từ đó, việc có áp dụng biện pháp trừng phạt hay
không sẽ phụ thuộc vào lợi ích của người tiêu dùng có lớn hơn lợi ích của nhà sản xuất và
người lao động hay không.7 Trong trường hợp trên, dưới góc độ so sánh giá, hành vi bán
hàng với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa là hành vi bán phá giá, nhưng xét ở
góc độ bản chất lành mạnh hay không lành mạnh của hành vi trong tiến trình cạnh tranh
trên thị trường quốc tế thì khó để tìm thấy bản chất bất chính của vấn đề này. Bởi lẽ, trên
thị trường luôn tồn tại sự cạnh tranh nhau và quan hệ cung cầu với quy luật giá trị sẽ
quyết định giá cả của hàng hóa, sản phẩm. Người tiêu dùng là chủ thể có quyền được
hưởng mọi lợi ích chính đáng, vì thế nhà nước thông qua pháp luật phải ngăn chặn và
trừng phạt mọi hành vi bốc lột người tiêu dùng và ngược lại. Với chi phí sản xuất thấp thì
đương nhiên việc cung cấp hàng hóa với giá tương ứng cộng thêm một khoản lợi nhuận
hợp lý là hành vi cạnh tranh lành mạnh.
Tuy nhiên việc định giá cao ở thị trường trong nước có vị trí độc quyền thì bản thân
giá độc quyền ở thị trường trong nước không thể sử dụng để so sánh giá nhằm xác định
việc bán phá giá của loại hàng hóa đó. Lúc này, pháp luật cho sử dụng giá bán của hàng
hóa tương tự tại một nước thứ ba có trình độ phát triển tương ứng hoặc giá cấu thành từ
chi phí sản xuất làm giá trị thông thường để so sánh. Vì vậy, mọi biện pháp chống bán
phá giá được áp dụng trong trường hợp này sẽ trở thành những biện pháp bảo hộ không
cần thiết cho các nhà sản xuất trong nước, không khuyến khích được cho họ nỗ lực để
giảm chi phí sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh điều đó không thật sự đem lại lợi

ích cho nền kinh tế của nước nhập khẩu. Vì vậy, để xử lý hành vi phân biệt giá nói trên
đòi hỏi pháp luật của nước xuất khẩu phải có những động thái để ngăn cản việc định giá
nói trên chứ không phải loại bỏ mức giá thấp ở nước nhập khẩu. Đối với nước nhập khẩu,
nếu nhu cầu bảo hộ ngành sản xuất sản phẩm tương tự thực sự cần thiết, nhà nước có thể
áp dụng các biện pháp tự vệ thay cho biện pháp chống bán phá giá.8
Trường hợp thứ hai: Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và cũng thấp hơn giá
thị trường nội địa của nước xuất khẩu. Trong trường hợp này, người sản xuất đã chấp
nhận lỗ hoặc hy sinh lợi nhuận vì những mục đích khác nhau, mục đích có thể tối đa hóa
lợi nhuận trong ngắn hạn, cũng có thể là độc chiếm thị trường, chiếm đoạt thị phần hoặc
có thể do tính toán sai các chi phí cố định và biến phí. Về nguyên tắc, bán hàng với giá

7

Bộ Thương Mại, Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam, trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, tr. 7.
8
Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 17 .

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 10

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
thấp hơn chi phí sản xuất nếu gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho ngành sản xuất
hàng hóa tương tự thì nhà nước sẽ xuất hiện để ngăn chặn hành vi và khắc phục hậu quả.

Trong kinh tế học, đôi khi các nhà nghiên cứu kinh tế còn chỉ ra một số trường hợp
đặc biệt mà ở đó hành vi bán hàng dưới mức chi phí cần được chấp nhận như một biện
pháp kinh doanh thông thường, ví dụ như bán hàng thấp hơn chi phí bình quân trong thời
kỳ suy thoái kinh tế nhằm duy trì sản xuất; bán hàng dưới mức chi phí khi gia nhập thị
trường để giới thiệu sản phẩm, trong trường hợp này lợi ích của người tiêu dùng được đặt
lên hàng đầu…Mặt khác, do phá giá là sự so sánh giá bán của hàng hóa trên hai thị
trường khác nhau nên có một số khó khăn và vướng mắc trong quá trình so sánh giá, nhất
là trong việc xác định mức độ chênh lệch giữa giá xuất khẩu với chi phí sản xuất do bất
đồng trong quan niệm về cơ cấu chi phí ở các thị trường khác nhau. Ví dụ: ở Hoa kỳ, do
đầu tư vào cơ sở hạ tầng và máy móc thiết bị quá lớn nên thông thường định phí đối với
sản phẩm là cao; trong khi đó Nhật bản do tập quán ít sa thải lao động được cọi như định
phí, cho nên chi phí cố định bao gồm cả tiền lương công nhân. Vì thế khi điều tra và
nghiên cứu phá giá đối với trường hợp bán hàng dưới chi phí đòi hỏi phải cân nhắc và
thận trọng trong quá trình xác định các biến phí cho phù hợp với sự thay đổi các quan
niệm giữa các quốc gia về vấn đề này.9
Tóm lại, sự thay đổi trong các quan niệm về khái niệm bán phá giá phản ánh sự nỗ
lực của các quốc gia để tìm ra những biểu hiện không lành mạnh của thương mại quốc tế,
nhằm xây dựng chính sách đảm bảo cho sự tự do của thị trường chung. Đồng thời cũng
cho thấy sự phức tạp trong quá trình tìm kiếm các cơ sở pháp lý công bằng và bình đẳng
để áp dụng đối với các biểu hiện bất bình thường về giá của kinh tế đối ngoại. Do thị
trường không ngừng vận động và thay đổi thì việc đưa ra những căn cứ cố định và bất
biến để làm thước đo cho những toán tính đầy sáng tạo sẽ không hiệu quả. Vì thế, sự uyển
chuyển và chủ động trong việc xây dựng một giá trị thông thường; làm tiêu chuẩn cho sự
công bằng để nhận biết hành vi nào là phá giá để áp dụng những biện pháp chừng trị thích
đáng. Theo đó, Pháp lệnh chống bán phá giá của Việt Nam quy định: “Hàng hóa có xuất
xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào việt nam (sau đây
gọi là hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam) nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn
giá trị thông thường của nó”.10 Cũng không phải bất cứ khi nào có sự chênh lệch giá thì
bán phá giá bị áp dụng biện pháp trừng phạt (biện pháp chống bán phá giá) mà chỉ khi sự


9

Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 18.
10
Xem Điều 3 Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, 2004.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 11

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
chênh lệch giá (biên độ phá giá) quá mức quy định và hành vi bán phá giá đem lại thiệt
hại cho nước nhập khẩu hàng hóa phá giá.
1.1.2 Thuế chống bán phá giá
Thuế chống bán phá giá là một trong những biện pháp chống bán phá giá mà được
đa số các nước áp dụng khi kết quả của quá trình điều tra là có hành vi bán phá giá xảy ra
và nó chính là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa
nước nhập khẩu. Thuế chống bán phá giá (anti-dumping duty) chính là khoản thuế bổ
sung bên cạnh thuế nhập khẩu thông thường, do cơ quan có thẩm quyền của nước nhập
khẩu ban hành, đánh vào sản phẩm của nước ngoài bị bán phá giá vào nước nhập khẩu.
Đây là loại thuế nhằm mục đích chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do
việc nhập khẩu hàng bán phá giá gây ra. Thông thường mỗi nước đều có các hệ thống qui
định riêng về các điều kiện và thủ tục áp đặt thuế chống bán phá giá, thuế chống bán phá
giá được các nước xem như một hình thức “bảo hộ hợp pháp” đối với sản xuất nội địa của
mình. Để ngăn chặn hiện tượng lạm dụng biện pháp này, các nước thành viên WTO đã

cùng thỏa thuận về các quy định chung bắt buộc phải tuân thủ liên quan đến việc điều tra
và áp đặt thuế chống bán phá giá. Đối với việt Nam, thuế chống bán phá giá được định
nghĩa là “thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường hợp hàng bị bán phá giá
nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất
trong nước”11
1.2 ĐẶC ĐIỂM CỦA BÁN PHÁ GIÁ
Trong thực tiễn pháp lý đang tồn tại hai khái niệm phá giá cùng để diễn tả hành vi
bán hàng với giá thấp hơn giá trị bình thường của hàng hóa nhưng bản chất của hai hành
vi này là khác nhau, mức độ nguy hại cũng như những biện pháp xử lý chúng có những
điểm khác nhau. Đó là phá giá hàng nhập khẩu và phá giá hàng hóa trong thị trường nội
địa. Vì vậy, khi tiếp cận khái niệm bán phá giá cần nhận dạng chúng một cách rỏ nét
thông qua các dấu hiệu biểu hiện của từng hành vi trong môi trường tồn tại của chúng. Có
như vậy việc nghiên cứu mới thật sự có ý nghĩa cho quá trình thiết lập một quy chế pháp
lý hiệu quả về bán phá giá.12 Sau đây là một số đặc điểm hành vi bán phá giá trong quan
hệ thương mại quốc tế:
Thứ nhất, bán phá giá hàng nhập khẩu xảy ra trong quan hệ thương mại quốc tế.
Tức là việc mua bán hàng hóa diễn ra trên phạm vi rộng, trên thị trường của hai hay nhiều
nước khác nhau chứ không thuộc phạm vi của một quốc gia.
11

Xem Điều 2 Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, 2004.
Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khảu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 20.
12

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 12

SVTH: Cù Thị Kiều Trang



Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
Quá trình toàn cầu hóa kinh tế với sự ra đời của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế mà hệ
quả của nó là hình thành nên nhiều vùng thị trường khu vực và quốc tế rộng lớn thông
qua việc xóa bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế quan. Quan hệ thương mại quốc tế biểu
hiện thông qua sự dịch chuyển các giá trị thương mại dưới hình thức hàng hóa hoặc dịch
vụ giữa thị trường của các nước với nhau dựa trên quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy
chế đãi ngộ quốc gia (NT). Hai quy chế này đảm bảo cho nguyên tắc tự do và bình đẳng
thực sự phát huy được hiệu quả trong quan hệ quốc tế cũng như đảm bảo cho hàng hóa
được lưu thông một cách tự do trên tinh thần không phân biệt đối xử. Một khi sự tự do
được đề cao và coi như nguyên lý bất khả xâm phạm thì cũng từ đó cùng với sự giục giã
của quy luật giá trị và bản tính của con người xuất hiện những hành vi cạnh tranh tự phát
có thiên hướng thái quá, cực đoan trong cạnh tranh quốc tế - đây chính là mặt trái của sự
tự do trong thương mại quốc tế mà phá giá là minh chứng.13
Bán phá giá trong quan hệ thương mại quốc tế không đơn giản là sự cạnh tranh giữa
các nhà sản xuất sản phẩm tương tự mà còn biểu hiện sự đối đầu của hai thị trường, hai
khu vực kinh tế. Chính là sự dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ từ thị trường nước này sang
thị trường một nước khác, một điều có lẽ là hiển nhiên diễn ra theo quy luật của thị
trường là giá bán của hàng hóa xuất khẩu sẽ cao hơn giá của sản phẩm tương tự tiêu dùng
tại thị trường nội địa do nó phải tốn thêm một số khoản chi phí như: chi phí vận chuyển,
thuế hải quan… Tuy nhiên cũng có trường hợp diễn ra ngược với quy luật của thị trường
kinh doanh là giá của sản phẩm xuất khẩu lại rẻ hơn giá tại thị trường nội địa, với bản
chất phi kinh tế và không bình thường này trong quan hệ thương mại quốc tế xem là bán
phá giá – hình thức cạnh tranh không lành mạnh.
Do đó, bán phá giá bị tập quán thương mại quốc tế cũng như pháp luật quốc tế coi là
hành vi bất chính. Kết quả tất yếu là xảy ra những xung đột trong việc đấu tranh loại bỏ
và trừng phạt hành vi này. Xung đột xảy ra liên quan đến bán phá giá không còn là câu
chuyện đối đầu giữa các nhà sản xuất nữa mà thực tế nó là sự xung đột về lợi ích giữa hai

thị trường khác nhau cùng có sản phẩm cạnh tranh nhau. Việc xác định chính xác thị
trường mà ở đó hàng hóa bán phá giá được sản xuất và xác định thị trường nhập khẩu
hàng hóa phá giá có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các yếu tố cấu thành hành vi
pha giá cũng như việc áp dụng các biện pháp đấu tranh chống bán phá giá. Trong khi đó,
phá giá trong nước hay còn gọi là phá giá nội địa là khái niệm diễn tả một hành vi cạnh
tranh không lành mạnh xảy ra trên cùng một thị trường giữa các chủ thể kinh doanh với

13

Nguyễn Như Phát và Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền trong
điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb Công an Nhân, Hà Nội, 2001, tr. 38.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 13

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
nhau. Vì vậy, chỉ cần pháp luật cạnh tranh của nhà nước can thiệp nhằm đảm bảo cho sự
lành mạnh của thị trường.14
Thứ hai, Phá giá là hiện tượng phân biệt giá quốc tế. Là sự so sánh (chệnh lệch) về
giá xuất khẩu và giá trị thông thường của hàng hóa bị nghi là có hiện tượng bán phá giá.
Bán phá giá cũng là hạ giá sản phẩm để tăng cạnh tranh tuy nhiên hạ giá vì thực hiện mục
đích bán phá giá khác hoàn toàn với hạ giá hoặc bán hàng giá rẻ do giảm chi phí và nâng
cao năng xuất, khác nhau cơ bản nhất là mức lợi nhuận của nhà sản xuất, khi thực hiện
phá giá họ có thể không cần lợi nhuận nhưng đối với cạnh tranh lành mạnh thì ngành sản
xuất đã có một khoản lợi nhuận hợp lý.

Về phạm vi, phá giá trong nước được xác định là một hành vi cạnh tranh không lành
mạnh qua giá của các nhà sản xuất hàng hóa trên cùng thị trường của một quốc gia. Vì
thế, khi xác định hành vi phá giá nội địa, nhà chức trách chỉ cần truy tìm những dấu hiệu
của việc bán hàng dưới chi phí sản xuất hoặc dưới giá thông thường trên thị trường của
quốc gia đó nhằm chiếm đoạt thị phần hoặc hạn chế cạnh tranh. Phá giá trong thương mại
quốc tế là kết quả của quá trình phân biệt giá giữa hai thị trường và mức độ phá giá biểu
hiện thông qua sự chênh lệch về giá bán giữa hai thị trường. So sánh giá là công việc bắt
buộc phải thực hiện trong xác định việc bán phá giá, kết quả của nó sẽ được xác định có
hay không có cũng như sự nguy hại của hành vi bán phá giá quốc tế.15
Thứ ba, Đối tượng của hành vi bán phá giá là hàng hóa tham gia vào lưu thông
trong quan hệ thương mại quốc tế. Khi thiết lập thị trường thương mại chung, đối tượng
được hầu hết các diễn đàn thương mại quốc tế quan tâm là dịch vụ và hàng hóa. Mọi thiết
chế pháp lý trong quan hệ thương mại quốc tế đều nhằm mục đích tạo lập những khuôn
khổ cho quá trình dịch chuyển một cách tự do và lành mạnh trên cơ sở không phân biệt
đối xử đối với các đối tượng là hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, trong các hiệp định liên
quan đến phá giá của các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO, EU…và pháp luật về phá giá
của các nước đều không đề cập đến phá giá dịch vụ.16
Theo Từ điển chính sách thương mại quốc tế thì khái niệm hàng hóa dùng để chỉ bất
kỳ một mặt hàng nào trong trao đổi thương mại, nhưng thông thường nhất là để chỉ
nguyên vật liệu, ví dụ như lúa mỳ, thiếc, đồng, chè, cà phê, cao su…; dịch vụ (service)
gồm có các hoạt động về kinh tế chủ chốt như viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải

14

Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 22- 23.
15
Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 24.
16

Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 25.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 14

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
đường bộ và đường biển, hàng không…17 Qua khái niệm trên thì sự khác biệt cơ bản nhất
là một bên là vật hiện hữu có thể nhìn thấy bằng mắt thường (gọi là hàng hóa) còn dịch
vụ là vô hình.
Pháp luật hàng hóa được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc đối vật. Nguyên tắc này
xuất phát từ bản chất vật chất hiện hữu của hàng hoá và nhấn mạnh đến đối tượng xử lý
của các biệt pháp chống bán phá giá là hàng hóa.18
Khi xảy ra hiện tượng phá giá và xác định được hàng hóa bán phá giá, pháp luật xuất
hiện để xử lý hàng hóa phá giá mà không phân biệt người thực hiện hành vi đó có phải là
người sản xuất hay không, và cũng không quan tâm đến yếu tố quốc tịch của người đã
thực hiện hành vi bán phá giá hàng hoá. Nói cách khác, biệt pháp chống bán phá giá dựa
trên nguyên tắc đối vật được áp dụng đối với sản phẩm chứ không phải chống lại nguồn
gốc của sản phẩm. Xuất phát từ quan niệm tranh chấp về phá giá trong thương mại quốc
tế biểu hiện sự xung đột về lợi ích giữa hai thị trường khác nhau, vì thế một khi sự nhập
hàng hóa từ thị trường nước này bằng một phương cách có thể đe dọa đến sự phát triển
của hàng hóa trong thị trường nước nhập khẩu, cũng là lúc phát sinh quyền tự vệ bằng
cách tác động ngược trở lại bằng các biện pháp đã gây ra hoặc đe dọa gây ra. Tác động
trở lại của nhà nước nhập khẩu đối với hiện tượng bán phá giá không nhằm mục đích loại
bỏ sản phẩm bị bán phá giá ra khỏi thị trường, cũng không phải để ngăn cấm những chủ

thể thực hiện hành vi phá giá tham gia thị trường mà mục đích chủ yếu là loại bỏ và ngăn
chặn thiệt hại do hành vi phá giá gây ra cho ngành sản xuất trong nước.19
Trong thương mại quốc tế, phá giá dịch vụ vẫn chưa được điều chỉnh và ngay cả
pháp luật quốc gia cũng không quy định vấn đề này. Thế thì câu hỏi đặc ra là: Tại sao
dịch vụ trong quan hệ thương mại quốc tế chưa được xem là đối tượng điều chỉnh của
pháp luật phá giá quốc tế? Với bản chất vô hình nên cơ cấu của thị trường dịch vụ khác
với cơ cấu của thị trường hàng hóa, dịch vụ khó để nhận biết cặn kẽ, có khi bản thân nhà
xuất khẩu dịch vụ cũng không nhận ra rằng họ đang xuất khẩu dịch vụ. Do đó rất khó xác
định chính xác khối lượng và số lượng dịch vụ được chuyển qua biên giới và không thể
tìm ra cơ cấu chi phí chuẩn trong cung ứng dịch vụ thương mại để xác định các yếu tố cấu
thành của hành vi phá giá dịch vụ giữa các quốc gia.
Cho đến nay, các tổ chức kinh tế quốc tế nhất là WTO cũng chỉ đưa ra một cách
tương đối các loại dịch vụ tham gia vào tiến trình tự do hóa thương mại mà khó có thể

17

Walter, Từ điển chính sách thương mại quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1997, tr. 55 - 228.
John H.Jackson, Hệ thống thương mại thế giới, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr. 37.
19
Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 26-27.
18

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 15

SVTH: Cù Thị Kiều Trang



Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
xác định được chính xác khái niệm và số lượng dịch vụ đã được cung ứng dịch vụ qua
biên giới. Tóm lại, trong phá giá thương mại quốc tế pháp luật chỉ quy định phá giá đối
với hàng hóa còn dịch vụ thì gặp khó khăn trong nhận biết để xây dựng cơ chế thương
mại dịch vụ nên hiện phá giá dịch vụ là vấn đề còn bỏ ngỏ trong pháp luật quốc tế.
1.3 NGUYÊN NHÂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA BÁN PHÁ GIÁ
1.3.1 Nguyên nhân dẫn đến bán phá giá
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng bán phá giá trong thương mại quốc tế.
Trong đó có thể là tham vọng của nhà sản xuất, xuất khẩu hàng hóa phá giá. Thời kỳ tự
do hóa thương mại, các nước muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mở rộng thị trường và
mong muốn chiếm thị phần lớn ở các nước nhập khẩu, nhưng để thực hiện một cách
nhanh chóng mục tiêu này các nước xuất khẩu sẽ chấp nhận mức lợi nhuận thấp hoặc hy
sinh mức lợi nhuận hòng tăng khả năng cạnh tranh, loại bỏ những hàng hóa tương tự tại
thị trường nội địa nước nhập khẩu để chếm thị phần lớn trên thị trường, khi nhà sản xuất
bán hàng với giá thấp để thực hiện mục tiêu cạnh tranh không lành mạnh này cụ thể là
bán phá giá thì người tiêu dùng sẽ được lợi vì được mua hàng với giá rẽ. Tuy nhiên, đến
khi các nhà sản xuất đã thực hiện thành công được mục tiêu có khả người tiêu dùng sẽ bị
bốc lột trở lại để bù đắp lại những gì đã mất trong khoảng thời gian mà người bán hàng
phá giá chịu thiệt.
Không phải tất cả các hành vi bán phá giá đều là vì mục đích cạnh tranh không lành
mạnh, đôi khi việc bán phá giá là việc không mong muốn của nhà sản xuất, do nhà sản
xuất sản xuất hàng hóa ồ ạt làm trong nước có quá nhiều hàng tồn kho, sản xuất đình trệ,
sản phẩm lưu kho lâu ngày có thể bị hư hại… dẫn đến việc số lượng hàng nhập khẩu tăng
lên, giá giảm xuống (giảm giá để kích cầu).
Cũng có thể có một số nước làm ra sản phẩm với giá thành rất thấp do sử dụng lao
động trẻ em, tiền lương thấp và sử dụng lao động của tù nhân làm hàng xuất khẩu. Việc
sử dụng lao động trẻ em ngoài việc mang khoản lợi nhuận lớn còn là cách để cạnh tranh
với đối thủ cạnh tranh. Nhờ giá nhân công rẻ, người ta có thể hạ giá thành sản phẩm, xuất
khẩu hàng hoá với giá thấp.

Trong thương mại quốc tế, thuế chống bán phá giá có thể bị áp đặt mà không quan
tâm đến lý do vì sao nhà sản xuất bán phá giá. Bán phá giá sang thị trường nước ngoài
thường bị coi là một hiện tượng tiêu cực do nó làm giảm khả năng cạnh tranh về giá và
thị phần của sản phẩm nội địa của nước nhập khẩu. Tuy nhiên, bán phá giá có thể có tác
động tích cực đối với nền kinh tế, ví dụ như: người tiêu dùng được lợi vì giá rẻ; nếu hàng
bị bán phá giá là nguyên liệu đầu vào của một ngành sản xuất khác, giá nguyên liệu rẻ có

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 16

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
thể tạo nên sự tăng trưởng cho ngành sản xuất sử dụng nguyên liệu liệu là hàng hóa phá
giá... Vì thế không phải mọi hành vi bán phá giá đều bị áp dụng biện pháp chống bán phá
giá. Theo quy định của WTO, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi xác
định được đủ ba điều kiện sau: hàng nhập khẩu bị bán phá giá, ngành sản xuất sản phẩm
tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể và mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng
nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói trên.
1.3.2 Tác động của việc bán phá giá
Tác động của hiện tượng phá giá được nhìn nhận ở cả góc độ tích cực và tiêu cực
bằng việc phân tích ảnh hưởng của nó đối với lợi ích của người tiêu dùng, nhà sản xuất có
liên quan và các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm cạnh tranh nội địa.
Việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá có những ảnh hưởng đáng kể đến người tiêu
dùng của nước nhập khẩu cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, việc bán phá giá
đã tối đa hóa lợi ích cho người tiêu dùng vì họ có cơ hội mua được hàng nhập khẩu giá rẻ.
Với tâm lý vị lợi, người tiêu dùng luôn có xu hướng lựa chọn hàng hóa phù hợp với nhu

cầu sử dụng ở mức giá thấp nhất, có thể sự xuất hiện của hàng hóa nhập khẩu phá giá trên
thị trường đã làm thỏa mãn nhu cầu của họ. Trong kinh tế thị trường, sức tiêu thụ hàng
hóa mua phụ thuộc khá nhiều vào giá cả của nó, hiện tượng phá giá của hàng hóa nhập
khẩu có thể là động lực kích thích tiêu dùng. Một khi giá của hàng hóa có xu hướng giảm,
sẽ làm tăng lượng tiêu thụ của hàng hóa.
Ngoài ra, việc bán phá giá hàng hóa nhập khẩu còn làm tăng mức độ cạnh tranh trên
thị trường. Việc nhập khẩu hàng hóa với giá rẻ hơn so với giá hàng hóa nội địa đã tạo ra
sức ép cho ngành sản xuất nội địa trong việc tìm ra phương cách nâng cao khả năng cạnh
tranh theo nguyên tắc giá cả là tín hiệu đối với người sản xuất và tiêu dùng. Khi hàng hóa
nhập khẩu có giá rẻ hơn, hàng hóa nội địa trở thành mặt hàng có giá cao tương đối. Với
sự tác động của hiệu ứng thay thế, người tiêu dùng có xu hướng dùng hàng hóa nhập khẩu
với giá rẻ hơn để thỏa mãn nhu cầu của mình và đẩy các doanh nghiệp nội địa vào tình
trạng cạnh tranh không lối thoát hoặc tìm cách giảm chi phí để tăng khả năng cạnh tranh
về giá hoặc mất khách hàng. Mức cạnh tranh tăng sẽ có tác dụng làm giảm sức ỳ của các
doanh nghiệp nội địa, làm giảm khả năng bốc lột khách hàng của doanh nghiệp nội địa
với giả thuyết rằng trước khi có hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu, các
doanh nghiệp này đang có vị trí độc quyền.
Trong dài hạn, quyền lợi của người tiêu dùng có thể bị xâm hại nếu doanh nghiệp
nước ngoài bán phá giá hàng hóa để thực hiện chiến lược chiếm đoạt thị trường bằng cách
định giá hủy diệt ngành sản xuất trong nước. Mặt dù, bán phá giá đem lại lợi ích cho
người tiêu dùng hiện tại nhưng khi đã chiếm đoạt được thị trường nhập khẩu, giá của
GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 17

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam

hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng nhanh trở lại để các doanh nghiệp lấy lại những gì đã mất từ
việc bán phá giá. Người tiêu dùng trở thành nạn nhân của mức giá độc quyền do các
doanh nghiệp nước ngoài ấn định. Sự suy đoán về khả năng tăng giá trong tương lai hoặc
sản lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ giảm đi để chi phối cung cầu là một trong những căn cứ
để kết luận về bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi bán phá giá có mục đích cướp đoạt
thị trường.20
Tác động của bán phá giá có liên quan đến doanh nghiệp nước nhập khẩu. Các
doanh nghiệp có liên quan được xác định là những doanh nghiệp của nước nhập khẩu
hoạt động ở ngành sản xuất khác có sử dụng hàng hóa nhập khẩu làm nguyên liệu sản
xuất do đó khi hàng hóa nhập khẩu bán phá giá các doanh nghiệp nói trên được nguồn
nguyên liệu rẻ để sản xuất, kinh doanh từ đó góp phần tăng trưởng cho ngành sản xuất mà
họ đang hoạt động.
Bên cạnh một số tác động tích cực thì bán phá đem lại nhiều khó khăn cho ngành
sản xuất nội địa, các doanh nghiệp sản xuất nội địa và người lao động trong các doanh
nghiệp này là nạn nhân trực tiếp và thực tế của việc bán phá giá hàng hóa nhập khẩu. Nếu
mức phá giá làm giá cạnh tranh của sản phẩm nhập khẩu thấp hơn chi phí sản xuất của
hàng hóa nội địa thì các doanh nghiệp nội địa sẽ bị đẩy vào tình trạng cạnh tranh không
lối thoát hoặc chịu thua lỗ để chạy đua theo mức giá phá giá, hoặc mất khách hàng. Trong
trường hợp mức phá giá làm giá cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán
hiện tại nhưng không thấp hơn chi phí sản xuất của hàng hóa nội địa thì thiệt hại xảy ra là
sự suy lợi nhuận, giảm lợi tức đầu tư…Trong trường hợp này có hai khả năng trái chiều
sẽ xảy ra:
Thứ nhất, sự suy giảm lợi nhuận của ngành sản xuất nội địa là cần thiết cho lợi ích
chung của thị trường nước nhập khẩu do các doanh nghiệp nội địa đang chi phối thị
trường. Hàng hóa nội địa đang được bán với mức giá độc quyền nên việc bán phá giá của
hàng hóa nhập khẩu có thể giải phóng khách hàng khỏi tình trạng bị bốc lột cho dù nó gây
thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa.
Thứ hai, Sự suy giảm lợi nhuận làm giảm tính hấp dẫn về đầu tư của thị trường nội
địa. Khi mức phá giá đẩy mặt bằng giá hàng hóa cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu trên
thị trường nhập khẩu xuống gần bằng chi phí bình quân (giá thành của hàng hóa) sẽ làm

giảm khả năng có lợi xuống mức tối thiểu. Đương nhiên, sức hấp dẫn các nguồn vốn đầu

20

Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng nhập khẩu tại Việt Nam – những vấn đề lý luận và thực
tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 20.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 18

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
tư vào nguồn sản xuất nội địa sẽ giảm cho dù việc bán phá giá không đủ để loại bỏ các
doanh nghiệp đang hoạt động.
Như vậy, việc bán phá giá của hàng hóa nhập khẩu vừa có những tác động tích cực,
vừa có tác động tiêu cực cho thị trường nước nhập khẩu. Vì thế khi tiến hành xử lý hành
vi phá giá, Nhà nước bị đặt vào tình trạng phải giải quyết xung đột giữa quyền lợi của
người đang tiêu thụ sản phẩm bán phá giá (được mua hàng hóa với giá rẻ) và lợi ích của
nhà sản xuất trong nước (phải hạ giá thành để có thể cạnh với hàng hóa đang phá giá và
việc mất dần thị phần của họ). Nhà nước cần phải cân nhắc và lựa chọn ra lợi ích nào là
cơ bản để bảo vệ. Đôi khi trong các vụ việc chống bán phá giá các lực lượng thị trường và
các lợi ích luôn đối lập nhau tạo ra những áp lực không nhỏ cho các cơ quan có thẩm
quyền đưa ra các quyết sách phù hợp cho lợi ích chung cho toàn xã hội.
1.4 TÌNH HÌNH CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRONG TỰ DO HÓA THƢƠNG MẠI
Nhìn chung số lượng vụ kiện giai đoạn 2011-2012 có xu hướng giảm so với giai
đoạn 2005-2010 có trên 200 vụ kiện/năm trừ 2008 (165 vụ). Cụ thể 2011 còn 172 vụ kiện

và đến năm 2012 chỉ là 166 vụ. Đây là tín hiệu khả quan cho các doanh nghiệp xuất khẩu
hoặc có định hướng xuất khẩu.
Bảng thống kê các vụ kiện chống bán phá giá giai đoạn 2005 – 2012.
2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

TỔNG

Số vụ
kiện

201

204

204


165

213

209

172

166

1538

Bị áp
dụng

138

142

108

139

141

123

98

117


1006

Nguồn: www.wto.org.21
Qua bảng thống kê, từ năm 2005-2012 đã có 1538 cuộc điều tra chống bán phá giá
trong đó có hơn 1000 cuộc bị xem là có bán phá giá và áp thuế chống bán phá giá. Điều
này thể hiện không phải cuộc điều tra chống bán phá giá nào cũng đi đến kết luận có áp
thuế chống bán phá giá.
Về phía các nước khởi kiện, đứng đầu danh sách là Ấn Độ (208 cuộc điều tra), Hoa
Kỳ và Trung Quốc (94), EU (87), tiếp đến là các nước Achentina, Nam Phi,
Australia…Điều đáng lưu ý là việc sử dụng các công cụ chống bán phá giá đã được nhiều

21

Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, [truy cập ngày 24/10/2013].

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 19

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
nước đang phát triển sử dụng như: Ấn Độ, Achentina, Braxin... không còn vũ khí bảo hộ
của một vài nước phát triển như trước đây (Hoa Kỳ, EU, Canada, Úc, Newzealand). Nếu
so với giai đoạn 1994-2005 về số lượng vụ kiện, thì tại giai đoạn này thấp hơn nhiều, cụ
thể là Ấn Độ (từ tiến hành 425 vụ kiện thì thời kỳ này chỉ còn 208 vụ) Hoa Kỳ, Trung
Quốc…Đây là tín hiệu khả quan cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Các nước dẫn đầu về

tiến hành điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá như Ấn Độ đã thể hiện sự thay
đổi quan điểm về áp dụng biện pháp chống bán phá giá, cân nhắc tính hai mặt của nó.
Về phía các nước bị kiện, Trung Quốc dẫn đầu trong số các nước bị kiện với 361 vụ
kiện. Kế đến là Hoa Kỳ (61 vụ), Đài Loan (58 vụ), Hàn Quốc (56 vụ). Điều này cho thấy
các nước đang phát triển là mục tiêu bị điều tra chống bán phá giá so với các nước phát
triển (trừ Hoa Kỳ).

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 20

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam

CHƢƠNG 2
HIỆP ĐỊNH VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO

2.1 LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HIỆP ĐỊNH
Ngày 10/8/1904, các quy định đầu tiên về bán phá giá được thông qua tại Canada.
Những quy định chống bán phá giá được hình thành từ việc sửa đổi Đạo luật thuế hải
quan năm 1897 của nước này. Kế đến là vào năm 1905 và năm 1906, các quy định chống
bán phá giá đã lần lượt áp dụng tại New Zealand và Úc.
Vấn đề chống bán phá giá đã được Hiệp hội các quốc gia nghiên cứu ngay từ năm
1922, nhưng đến năm 1947, với sự ra đời của Hiệp định chung về thuế quan và thương
mại GATT, vấn đề này mới đặt dưới sự chi phối của luật quốc tế, thông qua Điều VI của
Hiệp định này. Lúc ấy chủ đề này chưa được tranh cãi nhiều và chỉ về sau, khi các dòng
thương mại phát triển ngày càng nhanh, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn và khốc liệt

hơn, và các nước thành viên của GATT cũng đông hơn, mới hình thành một mối quan
tâm chính, ngày càng lớn qua các dòng thương thảo nối tiếp nhau.22
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) được ký kết từ năm 1947 và
ngay sau đó, năm 1948 hệ thống thương mại đa biên được thiết lập. Điều VI GATT 1947
đã có các quy định liên quan đến trường hợp một ngành công nghiệp nội địa cho rằng
việc bán phá giá đã gây thiệt hại cho ngành sản xuất của họ.23 Điều khoản này của Hiệp
định cho phép nước bị bán phá giá được áp dụng một khoảng thuế (thuế chống bán phá
giá) lên sản phẩm bán phá giá nhằm loại bỏ những thiệt hại mà phá giá đem lại, mức thuế
áp dụng có thể bằng nhưng không được quá biên độ bán phá giá. Trong tiến trình đẩy
mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại các hàng rào thuế quan dần được gở
bỏ thì lúc này vấn đề chống bán phá giá được các nước sử dụng nhiều hơn để bảo vệ nền
sản xuất trong nước, vì thế những quy định còn hạn chế và chưa được cụ thể trong Điều
VI đã không đáp ứng được nhu cầu sử dụng của các nước. Ví dụ như, Điều VI yêu cầu
việc xác định thiệt hại đáng kể nhưng đã không đưa ra bất kỳ hướng dẫn cụ thể nào như là
tiêu chí cho việc xác định liệu có tồn tại thiệt hại hay không. Bên cạnh đó khi đưa ra các
phương pháp xác định tồn tại phá giá, Điều VI cũng chỉ đưa ra một cách thức chung nhất,
khó vận dụng cho từng trường hợp cụ thể. Hiệp định GATT 1947 không có các quy định

22

Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ động ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá trong Thương mại Quốc tế, Nxb Lao
động – Xã hội, Hà Nội, 2006, tr. 17.
23
Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ động ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá trong Thương mại Quốc tế, Nxb Lao
động – Xã hội, Hà Nội, 2006, tr. 17-18.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 21


SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
về thủ tục áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Hiệp định mặc nhiên thừa nhận quyền tự
do của các quốc gia trong việc xây dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá
và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu vào nước mình và đây
cũng là nguyên nhân chính để nhiều nước lợi dụng áp dụng pháp luật chống bán phá giá
như là công cụ thực hiện chính sách bảo hộ thái quá thị trường nội địa nước mình.
Trước vòng đàm phán Uruguay là vòng đàm phán kennedy (1967), Tokyo (1980)
nhưng kết quả cuối cùng của các vòng đàm phán này về chống bán phá giá điều không có
hiệu quả. Sau vòng đàm phán Uruguay (Uruguay Round), cùng với sự ra đời của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) các bên đã ký kết Hiệp định về thực thi Điều VI GATT
1994 được gọi với tên “hiệp định về chống bán phá giá của WTO” (Anti-dump-ing
Agreement-ADA).
Theo nguyên tắc khi các nước thành viên xây dựng pháp luật về những vấn đề thuộc
thẩm quyền của WTO thì phải dựa trên những quy định chung mà WTO đã đưa ra trên cơ
sở đó các nước có thể cụ thể hóa để áp dụng vào thực tiễn nước mình, do đó khi xem
pháp luật của các nước thành viên cụ thể là pháp luật về chống bán phá giá thường bắt
gặp các nguyên tắc của Hiệp định chống bán phá giá (ADA). Như vậy, về các nguyên tắc
chung thì luật quốc gia phải đồng nhất nhưng về thực tiễn áp dụng thì có những điểm
khác nhau.
2.2 MỤC TIÊU VÀ BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
Bán phá giá bị các nước xem là hành vi thương mại bất chính, không công bằng. Do
đó, chính phủ nhiều nước cho rằng họ cần phải có hành động chống lại hành vi này nhằm
bảo vệ ngành sản xuất nội địa trong nước mà thông thường là thông qua việc đánh thuế
chống bán phá giá để bù đắp lại những thiệt hại do hành vi bán phá giá gây ra cho ngành
sản xuất tại nước nhập khẩu.
Ngay từ năm 1947, Điều VI khoản 1 Hiệp định GATT đã quy định thuế chống bán

phá giá chỉ được áp dụng trong những trường hợp chứng minh được rõ ràng có hành vi
bán phá giá và hành vi đó gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại vật chất tới một ngành sản
xuất trong nước. Tại Điều VI này có đưa ra cơ sở để xác định việc bán phá giá là có sự
chệnh lệch giữa giá xuất khẩu với giá trị thông thường của hàng hóa và giá trị thông
thường được xác định theo thứ tự là giá của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước
xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường; giá xuất khẩu sang một nước thứ
3; chi phí suy định.
Tuy mục tiêu của pháp luật về chống bán phá giá là đảm bảo cho sự cạnh tranh công
bằng trên thị trường thương mại quốc tế nhưng thực tế không đơn giản chỉ là như vậy.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 22

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực này thì chống bán phá giá không
phải là chính sách công mà là chính sách tư. Đó là một phương tiện mà một đối thủ cạnh
tranh có thể sử dụng quyền lực của nhà nước để giành lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ
khác. Xét từ góc độ bảo hộ sản xuất trong nước, bên hưởng lợi thế là ngành công nghiệp
nội địa và nạn nhân của biện pháp này là các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài. Chúng
ta có thể nhận thấy rõ hơn bản chất và mục đích này thông qua một bản báo cáo của Ủy
ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) “…mục đích của pháp luật chống bán phá giá và
chống trợ cấp không phải là bảo vệ người tiêu dùng mà là bảo vệ nhà sản xuất…Thực
chất, chức năng của pháp luật chống bán phá giá là để bảo vệ cho các công ty và những
người lao động tham gia vào hoạt động sản xuất ở Hoa Kỳ. Vì vậy, chẳng có gì đáng ngạc
nhiên khi người hưởng lợi từ các lợi ích kinh tế này là các nhà sản xuất, ngược lại các chi

phí kinh tế sẽ do người tiêu dùng gánh chịu. Chính phủ Hoa Kỳ, thông qua luật pháp, đã
đưa ra một sự lựa chọn chính trị tỉnh táo, khôn ngoan để đưa những biện pháp bảo đảm
công bằng này được công nhận trên thực tế….”24
Hơn nữa, các quy định chống bán phá giá là một biện pháp khắc phục thương mại
mà các thành viên của WTO đã đồng ý rằng là cần thiết để duy trì hệ thống thương mại
đa phương. Động cơ kinh tế để sử dụng biện pháp chống bán phá giá là nhằm để duy trì
thương mại công bằng. Tuy nhiên theo một nghiên cứu gần đây cho thấy, có tới 90% các
biện pháp này không nhằm bảo vệ cạnh tranh lành mạnh hoặc thương mại công bằng.25
Bán phá giá được các nước sử dụng như công cụ bảo hộ ngành sản xuất trong nước,
phần lớn các nước mạnh chiếm ưu thế hơn. “trong tương lai gần không có dấu hiệu gì cho
thấy những luật này sẽ bị gác bỏ hay sửa đổi sâu rộng. Nên tốt nhất là dùng nhiều quan
tâm các hình thức và cách thức thực thi các luật lệ quốc tế về chống bán phá giá trong
khuôn khổ một chế định thương mại đa phương như WTO”.26
2.3 QUY TRÌNH VÀ THỦ TỤC CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA HIỆP ĐỊNH
2.3.1 Trước khi bắt đầu điều tra
2.3.1.1 Xác định việc bán phá giá
Trong phạm vi Hiệp định chống bán phá giá của WTO (ADA), một sản phẩm bị coi
là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị

24

Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ động ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá trong Thương mại Quốc tế, Nxb Lao
động – Xã hội, Hà Nội, 2006, tr. 28-29.
25
Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ động ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá trong Thương mại Quốc tế, Nxb Lao
động – Xã hội, Hà Nội, 2006, tr. 29.
26
John H.Jackson, Hệ thống thương mại thế giới luật và chính sách về các quan hệ kinh tế quốc tế, Nxb Thanh niên,
2001, tr. 371-372.


GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 23

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu
từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm
tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông
thường.27 Nói cách khác, bán phá giá là hành vi bán hàng với mức “giá xuất khẩu” lại
thấp hơn mức “giá thông thường” tại thị trường nội địa, cụ thể là:
Biên độ phá giá

=

Giá thông thường − Giá xuất khẩu

Trường hợp:
 Biên độ phá giá > 0 là có hiện tượng bán phá giá
 Biên độ phá giá ≤ 0 không bán phá giá hàng xuất khẩu
Biên độ phá giá có thể tính bằng trị giá tuyệt đối hoặc phần trăm theo công thức sau:
Giá thông thường − Giá xuất khẩu
Biên độ phá giá (%) =
Giá xuất khẩu
Nếu biên độ được xác định là dưới 2% thì cuộc điều tra về chống bán phá giá sẽ
chấm dứt và không bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá nào, như đã phân tích ở
chương 1 thì bán phá giá ở một mức độ nào đó có thể đem lại lợi ích cho người sử dụng

sản phẩm phá giá (được mua hàng với giá rẻ) và ảnh hưởng cũng không đáng kể đến
nước nhập khẩu.
Như vậy, để xác định có hay không hiện tượng bán phá giá phụ thuộc vào việc xác
định:
Thứ nhất: Giá thông thường của sản phẩm;
Thứ hai: Giá xuất khẩu của sản phẩm bị nghi là bán phá giá;
Thứ ba: Biên độ bán phá giá.
Theo Điều 2.6 ADA: “sản phẩm tương tự sẽ được hiểu là sản phẩm giống hệt, tức là
sản phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong
trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không giống ở
mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm được xem xét”.
Việc xác định “sản phẩm tương tự” là một yếu tố rất quan trọng trong bất kỳ vụ việc
điều tra nào, vì nó sẽ tác động đến toàn bộ quá trình điều tra. Để xác định sản phẩm
“tương tự” với sản phẩm đang bị điều tra bán phá giá sẽ giúp tìm ra được sản phẩm nào
27

Xem Điều 2.1 Hiệp định chống bán phá giá của WTO.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 24

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


Quy định của WTO về chống bán phá giá và vấn đề chống bán phá giá đối với hàng
xuất khẩu Việt Nam
trên thị trường nội địa của nước xuất khẩu sẽ được làm căn cứ để xác định giá trị thông
thường, ngành sản xuất nào tại nước nhập khẩu được điều tra để xác định thiệt hại và
đồng thời là căn cứ để xác định biên độ phá giá nên sản phẩm tương tự được xác định

càng sớm càng tốt trong vụ việc điều tra chống bán phá giá.
Trong Hiệp định không có thêm bất kỳ một sự hướng dẫn nào ngoài định nghĩa tại
Điều 2.6 về việc xác định sản phẩm tương tự, vấn đề này được các nước quy định rỏ hơn
trong luật quốc gia, các nước có nền kinh tế thị trường thường sử dụng các tiêu chí sau
đây để xác định sản phẩm tương tự: Các đặt tính cơ, lý, hóa, hình thức bề ngoài của sản
phẩm; Mức độ chuyển đổi thương mại của các sản phẩm; Các nguyên liệu thô được sử
dụng để sản xuất ra sản phẩm; Nguyên liệu sản xuất và công nghệ được sử dụng trong
quá trình sản xuất hàng hóa; Những chức năng và công dụng cuối cùng của hàng hóa;
phân loại ngành công nghiệp; giá cả; Chất lượng và quy cách sản phẩm.28
a. Xác định giá thông thường
Để xác định được giá này là điều không hề đơn giản, có ba cách xác định giá thông
thường và theo thứ tự ưu tiên:
Cách 1: Giá thông thường được xác định trên cơ sở “giá có thể so sánh được trả
hoặc có thể trả, trong điều kiện thương mại thông thường của sản phẩm tương tự khi sản
phẩm này được tiêu thụ tại nước xuất khẩu”;
Cách 2: Giá thông thường được xác định theo “giá có thể so sánh của sản phẩm
tương tự được xuất khẩu sang một nước thứ ba tương ứng với điều kiện giá này mang
tính chất đại diện”;
Cách 3: Giá thông thường được xác định dựa trên “chi phí sản xuất của nước xuất
xứ cộng thêm một số tiền quản lý, bán hàng, các loại giá chung và lợi nhuận hợp lý”. Cụ
thể: Chi phí sản xuất (gồm lao động trực tiếp + các nguyên vật liệu trực tiếp + chi phí
quản lý hành chính sản xuất) + chi phí quản lý và bán hàng nội địa + một tỷ lệ lãi.
Khi xác định giá thông thường, thì cách 1 được ưu tiên áp dụng nhưng phải đáp ứng
đầy đủ hai yếu tố sau:
− Sản phẩm tương tự được bán tại nước xuất khẩu phải theo các điều kiện thương
mại thông thường;
− Sản phẩm tương tự được bán tại nước xuất khẩu với số lượng đáng kể không thấp
hơn 5% sản phẩm bị điều tra có hành vi phá giá.

28


Võ Thanh Thu – Đoàn Thị Hồng Vân – Nguyễn Đông Phong, Cẩm nang Phòng ngừa và đối phó với các vụ kiện
chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, Nxb Lao động – Xã hội, tr. 23.

GVHD: Th.S Thạch Huôn

Trang 25

SVTH: Cù Thị Kiều Trang


×